BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

5348. Dựa vào bằng cớ nào Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định với Tổng thống Obama về chủ quyền tại biển Đông?

Posted by adminbasam trên 06/10/2015

Dự án Đại Sự ký Biển Đông

Hồ Bạch Thảo

4-10-2015

Phần 1

Trong cuộc gặp gỡ cấp cao tại Washington vào ngày 25/9/2015 với Tổng thống Obama; Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình một lần nữa khẳng định chủ quyền lãnh thổ tại biển Đông[1]. Nhắm phụ hoạ cho lập luận này, mấy chục năm nay, một bộ phận học giả Trung Quốc đã vùi đầu trong đống sách vở tư liệu xưa và nay, để cố nhào nặn cho ra bằng chứng chủ quyền. Một trong những công trình của họ mang tên Ngã Quốc Nam Hải Chư Ðảo Sử Liệu Hối Biên 我國南海諸島史料滙编; với sự cộng tác của hàng chục học giả, thư viện, Chủ biên là Hàn Chấn Hoa; do nhà xuất bản Hạ Môn Đại Học Nam Dương Nghiên Cứu Sở, xuất bản năm 1975.

Trong bộ sách Hối Biên này [Xin giản lược tên sách bằng 2 chữ Hối Biên], qua Thiên 1: Cổ đại thời kỳ (Hán chí Nha Phiến chiến tranh) hữu quan ngã quốc Nam Hải chư đảo chủ quyền cập kỳ địa lý hòa hàng tuyến đích ký tải [ Thời kỳ cổ đại (từ nhà Hán đến cuộc chiến tranh nha phiến) có liên quan đến chủ quyền các đảo Nam Hải nước ta, cùng sự ghi chép về địa lý và tuyến hàng hải]; nhóm biên soạn trình bày chủ quyền của họ theo trình tự các triều đại Trung Quốc: Hán, Tam Quốc Nam Bắc triều, Tùy, Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh; nên chúng tôi cũng tuân theo trình tự này thảo luận, để độc giả tiện bề tham khảo:

A. Đời Hán:

Biên giả nêu sách Dị Vật Chí [异物志] của Dương Phu đời Ðông Hán đề cập đến Trướng Hải. Sách này tuy đã thất truyền nhưng được các tác giả Trung Quốc đời Tống, Minh, Thanh nhắc lại như sau: 漲海崎頭水淺而多磁石,徼外大舟,錮以鐵葉值之多拔[2] tại Trướng Hải Kỳ Ðầu nước cạn nhưng nhiều đá nam châm, thuyền lớn đi ngoài cõi ,dưới thuyền gắn lá sắt sẽ bị nhổ ra.

Tư liệu từ một quyển sách viết cách đây khoảng 2000 năm đã thất truyền, mô tả đá nam châm nằm dưới đáy biển có thể hút được đinh sắt là huyền thoại vô căn cứ; nhưng biên giả vin vào đó để cố tình cho rằng Trướng Hải có liên quan đến các quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa]:

Các sách địa phương chí đời Thanh và cận đại nói về đảo Hải Nam đều trích dẫn đoạn văn này tại Dị Vật Chí. Thấy được Trướng Hải kỳ đầu cùng truyền thuyết về nam châm tại Trướng Hải hút đinh sắt của thuyền có liên quan đến các quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa] tại vùng biển Nam Hải.[3]

Các nhà biên khảo Trung Quốc muốn chứng tỏ Trướng Hải thuộc lãnh hải Trung Quốc, rồi suy diễn xa hơn nữa rằng Tây Sa và Nam Sa nằm trong đó. Riêng chúng tôi cũng căn cứ vào sử Trung Quốc, Tống Sử, có bằng chứng rằng Trướng Hải thuộc lãnh hải Việt Nam. Tống Sử quyển 488, mục Liệt Truyện, Giao Chỉ, chép việc vào tháng 7 [năm Chí Đạo thứ 2 [996] như sau:

Vua Thái Tông nhà Tống sai Chủ khách lang trung, trực Chiêu văn quán Lý Nhược Truất sung Quốc tín sứ mang chiếu thư và đai mỹ ngọc ban cho Lê Hoàn [vua Lê Đại Hành]. Khi Nhược Truất đến, Lê Hoàn ra ngoài thành đón; nhưng lời lẽ có vẻ ngạo mạn, bảo Nhược Truất rằng Từ trước tới nay cướp Như Hồng [Khâm châu] đều là bọn Man tặc ở ngoài nước, Hoàng đế có biết rằng không phải quân Giao châu hay không? Nếu quả Giao châu làm phản thì trước hết đánh Phiên Ngung [Quảng châu], thứ đến đánh Mân [Phúc Kiến], Việt [Quảng Đông]; nào phải chỉ trấn Như Hồng mà thôi!” 太宗遣主客郎中、直昭文館李若拙齎詔書,充國信使,以美玉帶往賜桓。若拙既至,桓出郊迎,然其詞氣尚悖慢,謂若拙曰:「向者劫如洪鎮乃外境蠻賊也,皇帝知 此非交州兵否?若使交州果叛命,則當首攻番禺,次擊閩、越,豈止如洪鎮而已!」 Nhưng sau khi nghe Nhược Truất phân trần, vua Lê Đại Hành dịu giọng “Hoàn ngạc nhiên dời chiếu đứng dậy nóiHải tặc phạm biên, là tội của thủ thần; Thánh quân khoan dung, ơn quá cha mẹ, không gia tru phạt. Từ nay cẩn thận giữ chức phận đã giao, giữ yên nơi Trướng Hải.” 桓愕然避席,曰:「海賊犯邊,守臣之罪也。聖君容貸,恩過父母,未加誅責。自今謹守職約,保永清於漲海.] .”

Đoạn văn trích dẫn xác định Trướng Hải thuộc lãnh hải Việt Nam, và được nhà Tống chính thức giao nhiệm vụ cho vua Việt Nam ngăn ngừa đạo tặc cướp phá tại biển này. Nếu suy luận theo kiểu của các nhà biên khảo Trung Quốc, một khi Trướng Hải là lãnh hải Việt Nam, thì chính Hoàng Sa, Trường Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Cũng cần nhấn mạnh thêm dưới thời Lưỡng Hán, 2 quận Châu Nhai và Đam Nhĩ [tức đảo Hải Nam] chỉ nằm trong lãnh thổ Trung Quốc trong vòng 65 năm; đến đời Hán Nguyên Đế [-46] phải dẹp bỏ. Như vậy lãnh hải Trung Quốc từ phía nam chỉ còn miền duyên hải Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay mà thôi; còn nói gì đến các đảo Tây Sa, Nam Sa xa vời. Như vậy việc khẳng định chủ quyền Tây Sa Nam Sa cho đến đời nhà Hán là điều láo khoét. Sách Hậu Hán Thư, quyển 86, Nam Man, Tây Nam Di Liệt Truyện, chép như sau:

Có 2 quận Châu Nhai [thuộc Hải Nam], Đam Nhĩ [thuộc Hải Nam] tại đảo ngoài biển, đông tây dài 1.000 dặm, nam bắc 500 dặm; các Tù trưởng quí tai to, bèn xâu lỗ rồi dùng dây căng ra, tai kéo dài xuống vai mấy tấc. Cuối thời Vũ Đế, Thái thú Châu Nhai là Tôn Hạnh người đất Cối Kê [thuộc Chiết Giang], điều dân mang tấm vải bố lớn hiến triều đình, dân man không kham được sự phục dịch nên đánh phá quận, giết Hạnh. Con Hạnh là Báo đốc suất những người thiện đánh lấy lại được, rồi tự mình đảm đương việc quận; đánh dẹp dư đảng suốt năm mới bình định được. Báo bèn gói ấn tín lại, sai sứ mang đến triều đình, cùng trình bày tình trạng. Chiếu chỉ cho Báo làm Thái thú Châu Nhai, uy lực chính trị thi hành, hiến mệnh ban xuống hàng năm. Trung Quốc tham những vật quí nơi này, tìm cách xâm chiếm, nên trong vài năm lại có nỗi dậy. Thời Hán Nguyên Đế Sơ Nguyên thứ 3 [-46] bèn cho bãi bỏ, thời gian lập quận được 65 năm.”

B. Từ Tam Quốc đến Nam Bắc Triều.

1. Sử liệu đời Tam Quốc được Hối Biên trích dẫn qua sách Phù Nam Truyện [扶南傳] của Khang Thái. Khang Thái là sứ giả nhà Ngô đến thăm Phù Nam thời Tam Quốc, rồi sau đó viết về nước này. Sách của ông cũng thất truyền, được Lý Phương đời Tống trích dẫn tại cuốn Thái Bình Ngự Lãm [太平御覧], trong đó có câu : 漲 海 中, 到 珊 瑚 洲, 洲厎有盤石,珊 瑚 生 其 上 也[4] Từ Trướng Hải đến châu San Hô, dưới châu có đá bàn thạch, san hô sinh trong đó.

Nhà biên khảo Hối Biên vin vào 3 chữ “ San Hô châu ” để nêu lên đây là đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa] là những đảo được cấu tạo bởi san hô.[5]

Cần lưu ý, Phù Nam là nước cũ giáp với Lâm Ấp tức Chiêm Thành; vào thế kỷ thứ 6 bị Chân Lạp thôn tính. Nước Chân Lạp sau đó bị chia làm 2 phần: Lục Chân Lạp tức Campuchia ngày nay, Thuỷ Chân Lạp giáp biển tức miền Nam Việt Nam. Như vậy phần Trướng Hải thuộc Phù Nam cũng nằm trong biển Đông, lãnh hải của miền nam Việt Nam ngày nay. Và cái gọi là châu san hô có khả năng là Hoàng Sa, Trường Sa của ta.

2. Biên giả Hối Biên lại trích từ sách Ngô Lục [ 吳緑] của Trương Bột đời Tấn, mô tả đồi mồi tại Trướng Hải:嶺 南 盧 賓 縣 漲 海 中 玳 瑁 似 龜 而 大.[6] Tại Trướng Hải, ở vùng huyện Lô Tân, Lãnh Nam; có đồi mồi lớn như con rùa. Sách này cũng thất truyền, được ghi lại từ sách Thái Bình Ngự Lãm [太平御覧] của Lý Phương.

Ngoài ra Hối Biên còn nhắc đến sách Ngoại Quốc Tạp Truyện của Khang Thái, sách này cũng thất truyền, nguồn trích dẫn từ Sơ Học Ký của Từ Kiên đời Đường, như sau “Xét ngoài biển lớn Nam Hải còn có Trướng Hải. Nguyên chú: sách Hậu Hán Thư của Tạ Thừa[7] chép ‘7 quận Giao Chỉ cống hiến đều đi từ Trướng Hải mà ra.

3. Lời chú sách Nhĩ Nhã [尔雅]của Quách Phác đời Tấn do Hối Biên trưng ra, có đoạn như sau: 螺 大 者 如 斗, 出 日 南 漲 海 中, 可 以 爲 酒 杯.[8] Ốc loa lớn như cái đấu sinh ra từ Trướng Hải quận Nhật Nam, có thể dùng làm chén uống rượu.

Bàn về lời chú của Quách Phác, Hối Biên nêu lên rằng: Nhật Nam là quận cực nam của Trung Quốc. Quách Phác nói Trướng Hải đất Nhật Nam chỉ rằng từ đảo Hải Nam đến Nhật Nam phải đi qua Trướng Hải, tức vùng biển quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa][9]

Theo Đào Duy Anh trong Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời[10] thì lãnh thổ quận Nhật Nam thời Nam Bắc triều bắt đầu từ dãy Hoành Sơn [ranh giới Hà Tĩnh, Quảng Bình] trở vào nam. Như vậy mặc cho các nhà biên khảo Trung Quốc khổ công trưng bằng chứng cách nào, thì Trướng Hải vẫn là lãnh hải thuộc Việt Nam, có Hoàng Sa, Trường Sa nằm trong đó.

C. Đời Tuỳ.

1. Hối Biên dẫn chứng Tuỳ Thư [隨書] như sau: 大 業 三 年 十 月, 常 駿 等 自 南 海 郡 乘 舟,晝 夜 二 旬,每 值 便 風 至 焦 石 山,而 過 東 南,泊 陵 伽 鉢 拨 多 洲,西 與 林 邑 對,上 有 神 祠 焉.[11] Tháng 10 năm Ðại Nghiệp thứ 3 [607] bọn Thường Tuấn từ quận Nam Hải đáp thuyền, qua ngày đêm 2 tuần, gặp gió thuận đến đảo Tiêu Thạch Sơn, rồi qua đông nam ghé đến châu Lăng Già Bát Bạt Ða, phía tây đối diện với nước Lâm Ấp, tại đó có đền thờ thần.

Trong phần nhận xét[12] Hối Biên cho rằng địa danh “Tiêu Thạch” và Pracel của Tây phương nghĩa giống nhau, người Tây phương gọi Tây Sa là Pracel[13], vậy Tiêu Thạch tức Tây Sa.

Hai địa danh nghĩa giống nhau như thế nào thì họ Hàn không hề giải thích; nhưng dù hai địa danh giống nhau cả âm lẫn nghĩa, cũng không thể đồng hóa làm một. Chẳng lẽ thấy tên tỉnh Hà Ðông, Trung Quốc [tức tỉnh Sơn Tây hiện nay], đồng âm và nghĩa với tên tỉnh Hà Ðông Việt Nam, rồi cho hai xứ là một. Lại càng không thể được, khi đem người phụ nữ dữ dằn ghen tuông mà điển tích Trung Quốc gọi là “sư tử Hà Ðông”, để đồng hóa với cô gái Hà Ðông, Việt Nam duyên dáng trong chiếc áo lụa mỏng ; khiến một thi nhân lòng tràn đầy cảm hứng qua câu thơ:

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,

Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông.

D. Đời Đường:

1. Hối Biên trích một đoạn văn của Giả Ðam đời Ðường trong sách Quảng Châu Thông Hải Di Ðạo [廣州通海夷道] có đề cập đến địa danh Tượng Thạch như sau : 廣 州 東 南 海 行 二 百 里, 至 屯 門 山,   乃 帆 風 西 行 二 日, 至 九 州 石, 又 南 二 日 至 象 石, 又 西 南 三 日 行 至 占 不 勞 山, 山 在 環 王 國 東 二 百 里 海 中.[14] Từ phía đông nam Quảng Châu hải hành 200 lý đến Ðồn Môn Sơn, lại dương buồm đi tiếp 2 ngày đến Cửu Châu Thạch, lại đi về phía nam 2 ngày đến Tượng Thạch, đi tiếp về phía tây nam 3 ngày đến núi Chiêm Bất Lao, núi tại phía đông nước Hoàn Vương 200 lý.

Mặc dầu địa danh Tượng Thạch nêu lên trong sử liệu này đã được học gỉả Phùng Thừa Quân 馮承鈞, một nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng vào tiền bán thế kỷ thứ 20, cho rằng đó là đảo Ðại Châu, sách xưa gọi là Ðộc Châu lãnh, thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Hải Nam, và Hoàn Vương quốc là nước Chiêm Thành; nhưng Biên giả Hối Biên vẫn khẳng định rằng Tượng Thạch là quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa].[15]

Hối biên viện dẫn đoạn văn sau đây của Cố Viêm Vũ trong Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư “ để biện hộ:

Tại Quảng Châu [Guangzhou, Quảng đông] đi thuyền đến các nước Phiên, ra khỏi Hổ Đầu Môn vào đại dương chia làm đông tây hai đường…..Hải lộ 200 lý đến Đồn Môn Sơn; thuận theo chiều gió chạy về phía tây 2 ngày đến Cửu Châu Thạch, lại tiếp tục phương nam 2 ngày đến Tượng Thạch, lại theo hướng tây nam 3 ngày đến Chiêm Bất Lao [Cù Lao Chàm, Quảng Nam].”[16]

Nhưng lập luận vẫn không thuyết phục được, bởi hai điểm vô lý:

Thứ nhất, theo đoạn văn đã dẫn, từ Tượng Thạch “theo hướng tây nam 3 ngày đến Chiêm Bất Lao [Cù Lao Chàm, Quảng Nam].” Như vậy từ Chiêm Bất Lao [Cù Lao Chàm] đi ngược lên Tượng Thạch phải theo hướng đông bắc. Hãy nhìn vào bản đồ, phía đông bắc Cù Lao Chàm, ứng vào huyện Vạn Ninh, tại huyện này có đảo Đại Châu mà Phùng Thừa Quân gọi là Tượng Thạch; chứ không phải là quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] phía đông như lập luận của biên giả Hối Biên.

Thứ hai, tuyến hàng hải quen thuộc từ Trung Quốc xuống phương nam phải chọn hải trình an toàn, không thể đi qua Tây Sa [Hoàng Sa] là vùng biển nguy hiểm. Sách Hải Tra Dư Lục [海槎餘錄] đời Minh từng mô tả Tây Sa tức Thiên Lý Thạch Đường nguy hiểm như sau:

Thiên Lý Thạch Ðường tại biển Nhai Châu ngoài 700 lý. Truyền rằng đá tại biển này dưới mức nước biển 8, 9 thước [1thước=1/3 mét]; thuyền đi qua tránh xa mà đi, một lần đâm vào thì không thể ra được. Vạn Lý Trường Ðê ở phía nam, thuyền vào trong đó không thể thoát được. Dân Phiên đã quen nơi này, biết cách tránh, tuy gặp gió bão cũng không lo.[17]

*

Dựa vào các sử liệu đã đề cập, vị trí Trướng Hải được xác định như sau: qua cuộc đối thoại giữa vua Lê Đại Hành và Sứ thần Trung Quốc Lý Nhược Truất đời Tống cho biết bờ biển Trướng Hải bắt đầu từ tỉnh Quảng Ninh Việt Nam và châu Khâm [Như Hồng] Trung Quốc; đến sách Nhĩ Nhã của Quách Phác nhận diện Trướng Hải tại biển miền trung Việt Nam; qua Phù Nam Truyện của Khang Thái thì vị trí Trướng Hải chạy dài đến biển miền nam Việt Nam. Nói một cách khác Trướng Hải thời xưa tức Biển Đông ngày nay, từng được vua Trung Quốc công nhận là vùng biển do Việt Nam kiểm soát, có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm trong đó.

(Còn tiếp)

Tác giả gửi đến Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

———–

Chú thích:

[1] (AFP & Reuters 25/09/2015) Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong chuyến thăm Washington hôm nay 25/09/2015 trước Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tái khẳng định quyền của Bắc Kinh về việc duy trì « chủ quyền lãnh thổ » tại Biển Đông, vấn đề đang gây căng thẳng với các láng giềng châu

[2] Hối Biên trang 23; nhà xuất bản Hạ Môn Ðại Học Nam Dương Nghiên Cứu sở, Trung Quốc, 1975.

[3] Hối Biên, trang 24.

[4] Thái Bình Ngự Lãm, quyển 69, mục Ðịa Bộ 34, châu, trang 3.

[5] Hối Biên, trang 25.

[6] Hối Biên, trang 26.

[7] Hậu Hán Thư: Ngoài tác giả Phạm Việp có Hậu Hán Thư được đưa vào Nhị Thập Tứ Sử; còn có một vài nhà khác soạn Hậu Hán Thư khác.

[8] Hối Biên, trang 27.

[9] Hối Biên, trang 27.

[10] Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời, NXB Thuận Hoá, Huế:1994, trang 82.

[11] Nhị Thập Tứ Sử, Tuỷ Thư, trang 191.

[12] Hối Biên, trang 29.

[13] Nguyên văn Hối Biên viết Pracel, chứ không phải là Paracel như hiện nay thông dụng.

[14] Hối Biên, trang 30.

[15] Hối Biên, trang 30.

[16] Hối Biên, trang 31.

[17] Hối Biên, trang 62.

_____

Dự án Đại Sự ký Biển Đông

Dựa vào bằng cớ nào Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định với Tổng thống Obama về chủ quyền tại biển Đông? (Phần 2)

Hồ Bạch Thảo

6-10-2015

E. Đời Tống

1. Mở đầu tiểu đoạn về đời Tống, biên giả Hối Biên khẳng định sách Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát đời Tống ghi rằng kể từ thời Trinh Nguyên [789] trở về sau, đã đưa Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Ðường vào bản đồ Trung Quốc.[1] Điều này không đúng sự thực, nguyên văn Chư Phiên Chí [諸蕃志] sau khi mô tả nội địa đảo Hải Nam tức Đốc phủ Quỳnh, tiếp tục đề cập đến vị trí xa như sau:…南 對 占 城, 西 望 真 腊, 東 則 千 里 長 沙, 萬 里 石 塘, 渺 茫 無 際, 天 水 一 色 Nam đối diện với Chiêm Thành, phía tây nhìn sang Chân Lạp, đông thì Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường, xa xôi không bờ, trời nước một màu.

Ðây chỉ là câu văn tả cảnh vị trí phương xa của đảo Hải Nam; còn nếu bảo Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Ðường nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, như vậy cả Chiêm Thành và Chân Lạp được đề cập trong lời trích dẫn, cũng cùng chung số phận nằm trong lãnh thổ Trung Quốc ư!

2. Quỳnh Quản Chí [瓊管志] là một bộ sách vào đời Tống, nay đã thất truyền và không rõ tác gỉả; được Hối Biên nêu lên những sách trích dẫn như Dư Ðịa Kỷ Thắng [輿地紀勝] của Vương Tượng Chi đời Tống, Quỳnh Ðài Chí [瓊台志] của Ðường Trụ đời Minh, Quảng Ðông Thông Chí [廣東通志]của Kim Quang Tổ đời Thanh, Quỳnh Châu Phủ Chí [瓊州府志] của Minh Nghị đời Thanh. Câu văn trích dẫn nói về vị trí phủ Quỳnh Châu, thuộc đảo Hải Nam như sau:

瓊筦古志云,外布大海,接乌里蘇密吉浪之州,南則占城,西則真腊,交趾,東則千里長沙,萬里石塘,北至雷州府徐聞縣  Quỳnh Quản Cổ Chí chép rằng bên ngoài bao bọc bởi biển lớn, tiếp với châu Ô Lý Tô Mật Cát Lãng, phía nam có nước Chiêm Thành, phía tây Chân Lạp, Giao Chỉ; phía đông Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường, phía bắc có huyện Từ Văn, phủ Lôi Châu.

Câu văn này cũng tương tự như lời trích dẫn tại mục 1, nhắm chỉ phương hướng xa của phủ Quỳnh Châu, được Hối Biên suy diễn ngoài sự thực rằng Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Ðường nằm trong cương vực Trung Quốc về đời Tống.[2] Hãy trở về với hiện tại địa lý tỉnh Hải nam, tức phủ Quỳnh Châu xưa; phía bắc có huyện Từ Văn [Xuwen], xưa cũng gọi là huyện Từ Văn; phía nam có miền Trung Việt Nam, tức nước Chiêm Thành xưa; phía tây có Việt Nam, tức Giao Chỉ xưa; phía đông có Hoàng Sa, Trường Sa tức Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường xưa. Thử hỏi một em học sinh tiểu học, em sẽ không dại dột trả lời rằng Việt Nam và  huyện Từ Văn nằm trong lãnh thổ tỉnh Hải Nam; suy ra cũng thấy rằng không thể để cho Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường nằm trong phủ Quỳnh Châu xưa!

3. Tăng Công Lượng đời Tống trong Vũ Kinh Tông Yếu [武經總要] kể qua thủy trình của người thời Tống đi xuống Chiêm Thành, họ đi từ núi Ðồn Môn thuộc tỉnh Quảng Ðông, chờ gió đông hải trình theo hướng tây và Nam, qua 7 ngày đến Cửu Nhũ Loa Châu, rồi đi tiếp 3 ngày đến núi Bất Lao thuộc Chiêm Thành. Tăng Công Lượng nhấn mạnh rằng “Thời Thái Bình Hưng Quốc [976-983] triều đình sai 3 tướng đánh Giao Châu, do thuỷ lộ này tiến quân.”[3] Nói rõ hơn đây là cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam đầu tiên của nhà Tống, đã bị vua Lê Đại Hành đánh thua; 3 tướng phụ trách thuỷ quân là Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn, Tống Sử[4] ghi lại như sau:

Mùa thu năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 [980], chiếu lệnh Đoàn luyện sứ Lan Châu Tôn Toàn Hưng, Bát tác sứ Trương Toàn, Tả giám môn vệ tướng quân Thôi Lượng đảm nhiệm đạo quân binh mã đường bộ, từ Ung châu [Nam Ninh, Quảng Tây] tiến vào. Thứ sử Ninh châu Lưu Trừng, Phó sứ quân khí khố Giả Thực, Cung phụng quan các môn để hầu Vương Soạn đảm nhiệm đạo quân đường thuỷ từ Quảng châu [Guang zhou, Quảng Đông] tiến vào.”

Thủy trình này tương tự như Chu Khứ Phi đời Tống, kể lại trong Lãnh Ngoại Ðại Ðáp [嶺外代答] rằng thuyển đến các nước Phiên phương nam đều đi theo hướng tây đến biển Giao Chỉ, rồi tiếp tục đi xuống phía nam:

Ba dòng nước xoáy

Ba dòng nước xoáy

Bốn quận phía tây nam đảo Hải Nam có biển lớn gọi là Giao Chỉ dương. Tại biển có 3 dòng nước xoáy, nước phun lên chia thành 3 dòng; dòng thứ nhất chảy về phía nam dẫn đến biển thuộc các nước Phiên; dòng thứ 2 chảy lên phía bắc qua vùng biển Quảng Ðông, Phúc Kiến, Chiết Giang; dòng thứ 3 chảy vào nơi mù mịt không bờ gọi là Ðông Ðại Dương. Tàu thuyền đi về hướng nam phải qua ba dòng nước xoáy, nếu gặp một chút xíu gió thì vượt được, nếu vào chổ hiểm đó mà không có gió  thuyền không ra được, ắt phải vỡ chìm trong ba dòng nước xoáy. Nghe truyền rằng biển lớn phía đông có Trường Sa Thạch Ðường rộng vạn dặm, nước thủy triều  thi triển đẩy vào chốn cửu u. Trước kia từng có thuyền bị bão phía tây thổi, trôi dạt đến biển lớn phía đông này, nghe tiếng ba đào chấn nộ hung hãn, trong khoảng khắc gặp gió lớn thuận chiều nên may thoát được.

Qua các sử liệu đã dẫn, chứng tỏ thuyển Trung Quốc xuống phương nam thường đi theo ven biển Việt Nam, họ không dám ra đến Trường Sa Thạch Ðường hay quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] như  Hối Biên đã quả quyết.

4. Trái với khẳng định của biên giả Hối Biên, rằng đời Tống đã đem Trường Sa, Thạch Đường vào lãnh thổ Trung Quốc. Cần lưu ý đoạn văn trên, ngay cả Chu Khứ Phi tác giả Lãnh Ngoại Đại Đáp đời Tống cũng chỉ nghe truyền “truyền văn” về Trường Sa, Thạch Dường; chứ chưa dám xác nhận là có thực:

“Nghe truyền rằng biển lớn phía đông có Trường Sa Thạch Ðường rộng vạn dặm, nước thủy triều thi triển đẩy vào chốn cửu u. Trước kia từng có thuyền bị bão phía tây thổi, trôi dạt đến biển lớn phía đông này, nghe tiếng ba đào chấn nộ hung hãn, trong khoảng khắc gặp gió lớn thuận chiều nên may thoát được.”[5]

5. Tống Sử [宋史]chép việc quân Mông cổ truy kích vua Tống Ðoan Tông vào năm Chí Nguyên thứ 14 [1277] như sau:

Ngày Bính Tý tháng 12, Chính [Ðoan Tông] đến Tỉnh Áo, gặp bão hư thuyền, một số bộ hạ bị chết trôi, nên nhiễm bệnh. Hơn tuần sau quân lính từ từ đến tụ tập, 10 phần chết còn 5, 4. Ngày Ðinh Sửu Lưu Thâm truy kích Chính đến Thất Châu Dương, bắt được Du Như Khuê rồi rút lui.[6]

H1Hối Biên vin vào sử liệu này để khẳng định rằng Thất Châu Dương tức quần đảo Tây Sa; luận điệu này đã được nhà biên khảo Trung Quốc Ðàm Kỳ Tương phản đối trong bài Thất Châu Dương Khảo [七洲洋考].[7] Ngoài ra sách Ðông Tây Dương Khảo [東西洋考] của Trương Tiếp đời Minh xác nhận rằng: Theo Quỳnh Châu Chí [瓊州志] Thất Châu Dương tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý 七 州 洋, 瓊 州 志 曰 在 文 昌 東 一 百 里.[8] Trên bản đồ Google nếu phóng to thì địa danh Văn Xương [Wenchang] thuộc tỉnh Hải Nam xuất hiện, từ đó đến quần đảo Paracel [Trung Quốc gọi Tây Sa] khoảng 400 km tức gần 700 lý xưa; như vậy tính cả phương hướng và khoảng cách Thất Châu Dương cách Tây Sa [Hoàng Sa] rất xa!

G. Đời Nguyên

1. Hối Biên trưng sử liệu trong Quỳnh Hải Phương Dư Chí [瓊海方輿志] của Thái Vi đời Nguyên như sau:

[Quỳnh Châu] phía ngoài bao bọc bời biển lớn, tiếp với châu Ô Lý Tô Mật Cát Lãng; phương nam thì Chiêm Thành, tây là Chân Lạp, Giao Chỉ; đông thì Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường; đông bắc phía xa thì Quảng Ðông, Mân [Phúc Kiến], Chiết [Chiết Giang]; gần thì có Khâm [Khâm Châu], Liêm [Liêm châu], Cao [Cao Châu], Hóa [Hóa Châu]. Ði biển 4 ngày tới Quảng Châu, 9 ngày đêm đến Phúc Kiến, 15 ngày đến Chiết Giang.

Sử liệu này cũng như lời trích dẫn trong mục số 1 thuộc ĐỜI TỐNG nêu trên, qua Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát; chỉ nói Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường cách phủ Quỳnh Châu đằng xa, cũng giống như nước Chiêm Thành hoặc tỉnh Quảng Đông; nhưng biên giả Hối Biên bảo rằng quần đảo được liệt nhập vào đảo Hải Nam quản hạt, quả là điều vô lý![9]

2. Ðời Nguyên cuối năm Chí Nguyên thứ 29 [1293] Sử Bật [史弼] được lệnh mang quân đến nước Trảo Oa [Java], khởi trình từ Tuyền Châu Phúc Kiến đến Thất Châu dương gặp gíó bão, thuyền chao đảo, quân lính mấy ngày không ăn, gió thổi lạc đến Vạn Lý Thạch Ðường cuối cùng men được vào duyên hải Giao Chỉ, Chiêm Thành, để tiếp tục hành trình. Nội dung được chép trong 2 bộ: Nguyên Sử [元史] của Tống Liêm, và Tân Nguyên Sử [新元史]của Kha Thiệu Văn[10] như sau:

二十九年,拜榮祿大夫、福建等處行中書省平章政事,往徵爪哇,以亦黑迷失、高興副之,付金符百五十、幣帛各二百,以待有功。十二月,弼以五千人合諸軍,發泉州。風急濤涌,舟掀簸,士卒皆數日不能食。過七洲洋、萬里石塘,歷交趾、占城界

Năm Chí Nguyên thứ 29, được ban chức Vinh Lộc Ðại phu, giữ chức Trung thư tỉnh Bình chương chính sự các xứ Phúc Kiến, được lệnh mang quân đến Trảo Oa; có Hắc Mễ Thất, Cao Hưng giữ chức Phó. Mang 150 chiếc kim phù; vải lụa, bạch[11] mỗi thứ 200 tấm để thưởng cho người có công. Tháng 2, Bật mang 5000 quân hợp với các quân khác, xuất phát từ châu Tuyền [Phúc Kiến]. Gặp gió bão, ba đào nỗi lên, thuyền xốc ngược lên, quân lính mấy ngày không ăn được, qua Thất Châu Dương, Vạn Lý Thạch Ðường, đến Giao Chỉ, biên giới Chiêm Thành.

Ðây là chuyến đi lạc hướng vì sóng gió, còn hành trình thường lệ được Trương Tiếp mô tả trong Ðông Tây Dương Khảo là từ Thất Châu Dương, đến biển Giao Chỉ theo hướng Nam, qua bờ biển Chiêm Thành, đảo Côn Lôn, rồi hành trình tiếp đến Trảo Oa [Java]. Cần lưu ý đoạn văn nêu trên phân biệt Thất Châu Dương, và Vạn Lý Thạch Đường là hai địa danh khác nhau; chứ không cho Thất Châu Dương là Vạn Lý Thạch Đường như biên giả Hối Biên đã khẳng định tại mục 5, ĐỜI TỐNG.

3. Hối Biên trích sử liệu trong Ðảo Di Chí Lược [島夷志畧] của Uông Ðại Uyên nói về Côn Ðảo như sau:

Xưa núi Côn Lôn có tên là Quân Ðồn sơn, núi cao mà vuông, đáy trải dài đến mấy trăm lý, nghiễm nhiên trên biển cả, cùng các nước Chiêm Thành, Tây Trúc hướng đến, dưới có biển Côn Lôn, nên lấy đó làm tên. Thuyền buôn các nước đi Tây Dương, thuận gió 7 ngày đêm có thể đến đó; ngạn ngữ có câu:”Thượng hữu Thất Châu, hạ hữu Côn Lôn” [ý chỉ phía trên có Thất Châu Dương, phía dưới có Côn Lôn đều đáng sợ].

Nguyên văn mô tả Côn Lôn có núi cao, gần Chiêm Thành, đúng là Côn Ðảo nước ta ngày nay. Nhưng biên giả Hối Biên cho Côn Lôn là Nam Sa [Trường Sa], nơi đó không hề có núi cao, và biển Côn Lôn thành biển Nam Sa; dụng ý muốn chứng tỏ rằng thuyền bè Trung Quốc xưa có đi qua Nam Sa![12] Ðiều vô lý này đã bị nhiều thư tịch Trung Quốc phủ nhận:

– Ðời Nguyên Chu Ðạt Quan, trong Chân Lạp Phong Thổ Ký [眞腊風土記], dùng kim chỉ nam với 48 hướng, mô tả hải trình đến nước Chân Lạp [Cam Pu Chia], cho biết biển Côn Lôn gần nước Chân Lạp; sử liệu này cũng được trích trong Hối Biên[13] như sau:

“ Khởi hành từ Ôn Châu [thuộc tỉnh Chiết Giang] theo hướng Ðinh Mùi [202.5 độ] qua các hải cảng tại Mân [Phúc Kiến], Quảng [Quảng Ðông], biển Thất Châu [phía đông đảo Hải Nam], biển Giao Chỉ, rồi đến Chiêm Thành. Lại từ Chiêm Thành theo chiều gió khoảng nửa tháng đến Chân Lạp. Từ Chân Lạp theo hướng Khôn Thân [232.5 độ] qua biển Côn Lôn, rồi vào cảng.”

Ðông Tây Dương Khảo [東西洋考] của Trương Tiếp đời Minh cung cấp phương hướng từ đảo Côn Lôn đến Xích Khảm Sơn [Phan Rang], và nước Bành Hanh [Pahang] như sau:

Từ Xích Khảm Sơn [Phan Rang] theo hướng đơn Mùi [210 độ], thời gian 15 canh đến núi Côn Lôn.

Lại từ núi Côn Lôn theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ] thời gian 30 canh đến Ðấu Dự, lại theo hướng Ðinh Ngọ [187.5 độ] đến nước Bành Hanh [tức Pahang thuộc Mã Lai].[14]

Xét đoạn văn trích dẫn trên, trung bình thuyền bè thời xưa 1 canh đi được 60 lý, 1 doanh tạo lý tương đương .58 km; vậy từ đảo Côn Lôn đến Phan Rang là 522 km, đến Pahang là 1044 km. Với những con số nêu trên, nếu kiểm chứng qua bản đồ hiện nay thì có thể chấp nhận được; còn nếu bảo Côn Lôn là đảo Nam Sa [Trường Sa] thì khoảng cách còn tăng lên gấp bội!

4. Thế nhưng trong Tổng Hội Yếu [宋㑹要] có nêu địa danh biển Côn Lôn, bàn về sử liệu này biên giả Hối Biên lại cho rằng biển Côn Lôn bao quát vùng biển tại đảo Côn Lôn thuộc miền Nam Việt Nam; với lời chú thích “Côn Lôn dương: bao quát hải phận đảo Côn Lôn tại đô phía nam Việt Nam ngày nay”. Có lẽ vì sử liệu dưới đây đề cập đến vùng đất giáp Chân Lạp, Chiêm Thành, nên biên giả đành phải thuận theo sự thực, không thể luận bàn khác được:

Ngày 20 tháng 7 năm Gia Ðịnh thứ 9 [1216], người nước Chân Lý Phú[15] muốn đến Trung Quốc. Từ nước này ra biển 5 ngày tới Ba Tư Lan, thứ đến biển Côn Lôn, qua nước Chân Lạp, vài ngày đến nước Tân Ðạt Gia[16], vài ngày sau đến biên giới Chiêm Thành, qua biển khoảng 10 ngày. Phía đông nam là Thạch Ðường, có tên Vạn Lý; biển chỗ này hoặc sâu hoặc cạn, nước chảy gấp nhiều đá, thuyền bị lật chìm đến 7,8 phần 10, không thấy bờ núi. Rồi đến Giao Chỉ, 5 ngày sau đến châu Khâm, Châu Liêm. (Nguyên chú: gọi là gió thuận toàn tại mùa hè, lúc gió Nam thổi. Khi trở về nước đợi gió Bấc mùa đông; nếu không theo như vậy không thể đến nơi được.[17]

Cũng như với trường hợp Thất Châu dương, địa đanh Côn Lôn biên giả Hối Biên chia thành 2 vị trí, thứ nhất gần bờ biển miền nam Việt Nam, thứ 2 tại quần đảo Nam Sa; lập luận gỉả, thực lẫn lộn, cố dẫn giải theo ý đồ riêng!

(Còn tiếp)

Tác giả gửi đến Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————–

Chú thích:

[1] Hối Biên, trang 32.

[2] Hối Biên, trang 33-36.

[3] Hối Biên, trang 37.

[4] Tống Sử, quyển 488, Liệt Truyện, Ngoại Quốc, Giao Chỉ.

[5] Hối Biên, trang 41.

[6] Hối Biên, trang 39-40

[7] Xem Nam Hải Chư Ðảo Luận Chứng Khảo Tập, trang 1-6

[8] Trương Tiếp, Ðông Tây Dương Khảo, quyển 9.

[9] Hối Biên, trang 44.

[10] Hối Biên, trang 45.

[11] Bạch: một loại hàng dệt bằng tơ trần.

[12] Hối Biên, trang 48.

[13] Hối Biên, trang 49.

[14] Đông Tây Dương Khảo, quyển 9.

[15] Chân Lý Phú: một nước tại phía nam Chân Lạp.

[16] Tân Ðạt Gia: một nước xưa, giữa Chiêm Thành và Chân Lạp.

[17] Hối Biên, trang 43.

Một bình luận to “5348. Dựa vào bằng cớ nào Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định với Tổng thống Obama về chủ quyền tại biển Đông?”

  1. […] 5348. Dựa vào bằng cớ nào Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định với … […]

Sorry, the comment form is closed at this time.