BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc”

Posted by adminbasam trên 10/02/2013

Diễn đàn

Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc”

Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX

Nguyễn Ngọc Giao *

Hiệp định Paris “về kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam” đã được kí kết ngày 27 tháng giêng năm 1973 tại đại sảnh đường Trung tâm Quốc tế Hội nghị ở đại lộ Kléber. Cách Khải hoàn môn vài trăm mét, tòa nhà này thường được người dân Paris gọi bằng cái tên lịch sử là Hôtel Majestic. Trong Thế chiến lần thứ hai, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Khách sạn Majestic trở thành trụ sở của bộ tư lệnh quân đội Đức quốc xã. Sau ngày giải phóng, Bộ ngoại giao Pháp sử dụng cơ ngơi này làm trung tâm hội nghị quốc tế. Trong gần năm năm trời, từ ngày 13.5.1968 đến ngày 27.1.1973, hội trường là nơi diễn ra cuộc thương lượng chính thức giữa Việt Nam và Mĩ. Hơn một tháng sau ngày kí kết Hiệp định Paris, Khách sạn Majestic cũng là nơi họp Hội nghị quốc tế về Việt Nam với sự tham gia của tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim và phái đoàn đại diện của 12 chính phủ (4 bên tham gia Hội nghị Paris : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hoa Kì, Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN, Việt Nam Cộng Hòa ; 4 đại cường thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ : Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc ; 4 nước thành viên Ủy ban giám sát quốc tế : Ba Lan, Canada, Hungary, Indonesia). Gần 20 năm sau, đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị quốc tế về Campuchia (1991).

Ngày nay, Majestic lại trở thành khách sạn, một trong mấy “palace siêu hạng” của Paris, nhưng đã đổi chủ. Cũng như đội bóng đá PSG (đội này vừa sắm David Beckham), chủ nhân là người vương quốc dầu hỏa Qatar. Bốn mươi năm đã trôi qua, số người Việt Nam ra đời sau ngày 27.1.1973 dễ lên tới hai phần ba dân số Việt Nam. Từ đó, bao nhiêu biến cố đã dồn dập xảy ra : ngày giải phóng miền Nam (đối với cả triệu người là ngày “mất nước”, hay “quốc hận”), cải tạo xã hội chủ nghĩa, trại “cải tạo”, chiến tranh với Pol Pot, chiến tranh với Trung Quốc, liên minh Washington – Bắc Kinh bao vây, cấm vận, thuyền nhân, khủng hoảng, rồi đổi mới, mở cửa, tự do hóa về kinh tế, thối nát tham nhũng tràn lan, đàn áp chính trị, khối Liên Xô sụp đổ, khấu đầu với Trung Quốc, khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị… , cái mốc Hiệp định Paris 1973 bị đẩy xa vào quá vãng, hai trong bốn bên ký kết Hiệp định — Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN và Chính phủ Việt Nam cộng hòa — đã biến mất trên bản đồ chính trị địa lý Việt Nam.

Điều đáng quan ngại, thậm chí bi thảm, là Việt Nam trở thành một dân tộc không có ký ức lịch sử, ít nhất về  lịch sử một trăm năm gần đây. Thử hỏi chín mươi triệu người Việt Nam, ai muốn tìm hiểu lịch sử thế kỉ XX của nước mình, thì kiếm đâu ra sách ? Tủ sách sử học Việt Nam đã có những công trình giá trị về khảo cổ học, về thời Lý, Trần, Lê. Nhưng từ thời Nguyễn trở lại đây, tuyệt nhiên không. Cách đây hơn bốn năm, Hội sử học Việt Nam đã tổ chức hội thảo về nhà Nguyễn tại Thanh Hóa. Cho đến nay, báo chí “lề phải” vẫn không được nói tới cuộc hội thảo khoa học này, chỉ vì những mặt tích cực của nhà Nguyễn được nêu lên ở hội thảo không phù hợp với “đánh giá của Đảng về nhà Nguyễn”. Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX và XX là vùng cấm đối với giới sử học người Việt, là vùng “khai thác độc quyền” (nói cho chính xác : độc quyền không cho khai thác) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Hệ quả của quy định này là : sách giáo khoa lịch sử chỉ sao chép những câu kinh kệ của “sử đảng”, nghĩa là một cách viết sử bóp méo, đầy lỗ hổng (chỉ cần đọc những trang “sử” ấy về ĐCS Đông Dương và Nquyễn Ái Quốc từ năm 1930 đến đầu năm 1941). Hệ quả của hệ quả : một học sinh có suy nghĩ, một độc giả có chút ít tinh thần phê phán, chỉ có thể rút ra một kết luận, là “không thể tin được” những thứ sử sách chính thống ấy (mặc dù trong đó không thiếu những khẳng định đúng đắn tuy sơ lược), và nguy hại hơn nữa, chỉ cần nhẹ dạ một chút, là sẵn sàng tin những khẳng định ngược lại. Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX.

Giữa chốn mịt mù ấy, hai tập “Giải Phóng” và “Quyền Bính” của Bên Thắng Cuộc (BTC) mà nhà báo Osin Huy Đức xuất bản qua mạng đã nhanh chóng đi tới (nếu không tới mắt thì tới tai) hàng trăm ngàn, có lẽ cả triệu, người Việt Nam, từ nam chí bắc, từ Orange County đến Tokyo, Melbourne, qua Washington DC, Paris, Berlin, Moskva… với tốc độ và khả năng quảng bá của internet. Đây không phải là một công trình nghiên cứu sử học (những ai phê phán nó vì nó không phải là tác phẩm sử học, chẳng qua là cố ý đâm giáo vào cối xay gió), mà một pho sử liệu, chứng từ trung thực, phong phú, đồ sộ, mà chưa bao giờ một nhà sử học hay một nhà báo điều tra, đã thu thập, phỏng vấn, ghi chép được, liên quan tới thời gian phần tư cuối của thế kỉ XX. Đó là thời gian mà đất nước, xã hội và mỗi con người Việt Nam (còn sống) đã trải qua những đổi thay ghê gớm, sâu sắc, dư chấn của những cuộc “động đất lịch sử” ấy bây giờ vẫn chưa dứt mà vẫn còn sẽ tiếp tục. Cho nên, sự đánh giá BTC sẽ dao động giữa hai thái cực : một mặt là “ngợp” trước những thông tin chưa từng thấy hoặc rất ít người biết, mặt khác là “thất vọng” hay “mong mỏi” những tác phẩm của tác giả hay của người khác về những giai đoạn, những sự việc mà BTC chưa đề cập. Đây là tôi chỉ nói tới nhận định của người đọc muốn khách quan tiếp nhận công trình này. Còn phản ứng của độc giả, phản ứng thiện cảm (với ít nhiều bảo lưu) của tuyệt đại đa số, cũng như phản ứng Pavlov của các “dư luận viên” mà nhà nước đang huy động để “đánh Huy Đức” và của các chuyên gia “chống cộng tới chiều” đã tổ chức biểu tình ở Khu Bolsa, lại là một chủ đề khác, đối tượng của một điều tra xã hội học, mà nếu làm được, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều về não trạng Việt Nam ngày nay. (xin xem bài của Hòa Vân : Bên Thắng Cuộc và dư luận).

Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không làm được việc nào trong hai việc kể trên (nhận định về tác phẩm, phân tích phản ứng công chúng). Chỉ xin đề cập tới một vấn đề, liên quan tới Hiệp định Paris và cuốn sách BTC mà kỉ niệm 40 năm và xuất bản lại trùng hợp trong thời gian. Vấn đề ấy cũng là nền tảng cho phần lớn các cuộc tranh luận và sự mâu thuẫn giữa các lập trường. Đó là : tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam (dù ta quy định thời gian là 1945-1975, hay 1955-1975, hay 1960-1975). Chiến tranh giải phóng, nghĩa là chiến tranh giành độc lập, thống nhất ? Hay nội chiến (Quốc Cộng) ? Hay chiến tranh ủy nhiệm (War by Proxy) nằm trong bối cảnh thế giới Chiến tranh lạnh ?

Thật ra, trong một cuộc đối thoại bình tĩnh hay khi ta bình tâm tự vấn, chắc ít ai phủ nhận một trong ba yếu tố kể trên (chiến tranh giải phóng, chiến tranh ủy nhiệm, nội chiến), nhưng khi bàn tới bản chất của từng yếu tố, và nhất là quan hệ tương tác của ba yếu tố ấy (cái nào là chính, là quyết định…) thì chắc chắn là mỗi người một ý (có khi ý kiến của một người cũng thay đổi theo thời gian). Ngày nào chưa có một cuộc thảo luận thật sự, trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau đi tìm sự thật, thì khó xác định và “khoanh” lại những khác biệt không thể hóa giải. Và chỉ có ý muốn chung là xây dựng trong sự tôn trọng khác biệt mới cho phép chúng ta vượt qua những khác biệt để đi tới tương lai.

Trong tinh thần ấy, xin nêu lên một vài suy nghĩ và nhận định, nhằm đóng góp vào cuộc thảo luận chung :

Chiến tranh giải phóng 1945-1975 ?

Giải phóng gắn liền với tự do, người chiến thắng năm 1975 lại là cộng sản, nên dễ hiểu là nhiều người dị ứng với cụm từ “chiến tranh giải phóng” mà từ khước mọi cuộc đối thoại. Chính xác phải nói “chiến tranh giải phóng dân tộc”, đối tượng của sự giải phóng là dân tộc, mục tiêu của nó là chấm dứt sự thống trị của nước ngoài. Chiến tranh giải phóng thắng lợi, dân tộc tự do, nhưng người dân không nhất thiết được tự do : điều này đã từng thấy trong nửa sau thế kỉ XX tại các nước thuộc địa, trong đó có nước ta. Phân biệt tự do cho dân tộc và tự do cho công dân, chúng ta mới bình tĩnh đọc câu nói ý nhị của Huy Đức trong lời mào đầu tập 1 : “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 — ngày nhiều người tin là Miền Bắc đã giải phóng Miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”. Tác giả chơi chữ, nhờ đó mà nhiều người hả hê, không ít người bực bội, nhưng đằng sau sự chơi chữ là một sự thật khó chối cãi (chỉ lấy một thí dụ cụ thể : tự do báo chí ở Sài Gòn (mặc dầu chính quyền Thiệu chuyên nghề “hốt cắt đục”) đã biến mất sau ngày 30.4.75, về sau đã nhen nhúm một chút trên báo chí cả nước, bắt đầu từ những tờ báo Thành phố như Tuổi Trẻ). Tất nhiên, điều này không liên quan tới nền độc lập dân tộc mà chúng ta cần trở lại để bàn về bản chất cuộc chiến tranh.

Có người thừa nhận rằng cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) là chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc tái chiếm có tính chất thực dân chủ nghĩa của quân đội Pháp, nhưng cuộc chiến tranh sau 1955 là nội chiến Nam Bắc, dù không phủ nhận vai trò và sức nặng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.

Cả hai vế đều có chỗ không ổn. Đúng là chiến tranh 45-54 là chiến tranh giải phóng, nhưng ta không nên quên rằng khi Điện Biên Phủ được giải phóng, hai bên chiến tuyến phần lớn là người Việt Nam : bên chiến thắng là Quân đội Nhân dân Việt Nam (có cố vấn người Trung Quốc, nhưng họ chỉ là cố vấn, và không có vai trò quyết định : ngày 25 tháng giêng 1954, khi Võ Nguyên Giáp quyết định “rút pháo ra”, ông đã cưỡng lại ý kiến của đoàn cố vấn Trung Quốc), bên thất trận 2/3 là người Việt, 1/3 người Âu Phi. Vũ khí và trang bị của bên thất trận là của Mĩ, vũ khí bên thắng trận là của Liên Xô (qua Trung Quốc), Trung Quốc và… Mĩ (hơn một nửa vũ khí thả dù sau ngày 13.3.54 rơi vào tay kháng chiến). Còn cuộc chiến tranh thứ nhì, có yếu tố nội chiến (chúng tôi sẽ phân tích ở một phần dưới), nhưng khách quan mà nói, vai trò của Hoa Kì liên tục từ 1950 đến sáng ngày 30 tháng tư 1975 không thể chối cãi là vai trò của một siêu cường, muốn quyết định số phận của Việt Nam, thông qua những chính quyền mà họ đã tạo dựng và khi cần thiết thì trừ khử, bãi bỏ hay bỏ rơi (mà Mĩ bỏ thì chỉ có rơi, không thể gì khác).

Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia. Thừa nhận điều đó không có gì sỉ nhục đối với những người ở “bên thua cuộc” nếu lí do khiến cho họ đứng bên này chiến tuyến, chống lại những người chống lại ngoại bang, là lý tưởng tự do, dân chủ thực sự, điều mà rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa hề mang lại. Phủ nhận điều đó, sợ rằng bản thân những người tuyên bố ra lời cũng không thuyết phục được chính mình, mà mãi mãi hận thù “Việt cộng cướp nước”, oán hận “Mỹ bỏ rơi”.

Nội chiến ?

Đối với quan điểm tuyên truyền “chính thống” của Đảng Cộng sản Việt Nam, “nội chiến” là một điều cấm kị. “Hai mươi năm nội chiến từng ngày”, câu hát của Trịnh Công Sơn đã khiến cho tác giả nhiều phen điêu đứng sau 1975, cho đến nay vẫn bị cấm. Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là tay sai của Pháp và Mỹ, họ được sử dụng để phục vụ cho chính sách của Pháp, rồi của Mỹ, rồi khi nào họ không phục vụ như ý nữa, thì bị loại bỏ không thương tiếc, dù khi bị loại bỏ rồi, sẽ có những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn (trường hợp Ngô Đình Diệm). Điều đó khó ai phủ nhận, nhưng với bộ máy tuyên truyền, họ phải được mô tả như những tay sai đơn thuần, những con rối không xương sống. Lối tuyên truyền đơn sơ thô bạo đó sẽ phản tác dụng khi nó gặp phải những thực tế mà nó không thể lí giải. Sự kháng cự của Nguyễn Văn Thiệu trước ngày khai mạc Hội nghị Paris (cuối năm 1968, đầu năm 1969), hay cuối năm 1972, khi hai phái đoàn Lê Đức Thọ – Xuân Thủy và phái đoàn Kissinger đã đi tới thỏa thuận về văn bản Hiệp định Paris, bỗng nhiên được nhìn nhận như bằng chứng của sự “dũng cảm” (chữ dùng của Huy Đức). Tất nhiên rồi, “dũng cảm” không phải là thuộc tính độc quyền của “ông chủ” (khỏi cần kể ra đây những thí dụ về những ông chủ thiếu dũng cảm) : tay sai có thể dũng cảm phi thường khi thấy ông chủ bỏ rơi.

Nói chuyện nghiêm chỉnh hơn : ý thức hệ quả nhiên đã chia rẽ hàng ngũ những người Việt Nam mong muốn độc lập, trong đó có ý thức hệ “quốc-cộng”. Tôi để hai chữ “quốc-cộng” trong ngoặc kép, vì hai lẽ : tuyệt đại đa số, nếu không nói là tất cả, những người Việt Nam cộng sản là những người quốc gia chủ nghĩa (nhiều khi quá khích), còn trong hàng ngũ những người tự nhận hay được xếp là “quốc gia”, những người phản quốc hơi bị nhiều. Khó ngược dòng thời gian để kết án ai là người bắt đầu chạy theo ý thức hệ, bỏ quên quyền lợi quốc gia. Người chống cộng thường đổ thừa cho “chủ nghĩa cộng sản ngoại lai”, quên rằng nếu chủ nghĩa cộng sản được du nhập vào Việt Nam sau năm 1920 (khi Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, tháng 12.1920), thì chủ nghĩa chống cộng đã được du nhập vào nước ta vài năm trước đó (ai không tin, cứ tìm đọc tạp chí Nam Phongtừ năm 1917).

Xung đột ý thức hệ và nội chiến tồn tại khi ở hai bên chiến tuyến có sự tham gia của những bộ phận quan trọng của dân tộc hay giai cấp, đẳng cấp, với những chính kiến đối chọi nhau. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1945 ở Nam Bộ và từ cuối năm 1946 trên toàn quốc, không hề có yếu tố nội chiến (mặc dầu đã có những cuộc thanh trừng, tàn sát lẫn nhau giữa các phe phái). “Nam Kỳ tự trị” năm 1946, “Quốc gia Việt Nam” năm 1948 (với lá cờ vàng ba sọc đỏ) không đại diện cho ai khác hơn là thế lực thực dân và vài nhúm chính khách bị dư luận quốc dân khinh miệt. Vậy thì nội chiến ở Việt Nam bắt đầu bao giờ và như thế nào ? Sẽ cần những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc để làm sáng rõ vấn đề, nhưng ở đây và bây giờ, người viết bài này muốn khẳng định, với tất cả tinh thần trách nhiệm : từ chính sách mao-ít của Đảng cộng sản Việt Nam sau năm 1950.

Với chủ trương quy định thành phần giai cấp một cách thô bạo (có thể nói : lưu manh, ít nhất trong cách thực hiện) trong cuộc chỉnh huấn quân đội, chỉnh đảng, rồi cải cách ruộng đất, ĐCSVN đã đi ngược lại chính sách đoàn kết dân tộc chống thực dân đế quốc, xua đẩy sang hàng ngũ đối phương các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản, tư sản, nhân sĩ, trí thức…

Chính đường lối “tả khuynh” theo kiểu Stalin và Mao thực hiện từ năm 1951 này đã “bưng mâm bầy cỗ” cho Mĩ một cơ sở xã hội rộng rãi mà họ chưa từng dám mơ ước : gia đình một ông quan chỉ được tiếng “chống Pháp” vì Pháp đã không chọn mà chọn người khác làm thượng thư bộ Lại, bỗng trở thành nguyên thủ một “quốc gia” với đầy đủ những thành phần xã hội thượng lưu và trung lưu mà phần lớn (nếu không nói là đa số) đều ngả về “phe kháng chiến” nhưng lại bị chính kháng chiến xua đẩy !

Trong những người, năm 1955-56 ở Sài Gòn, không thấy được điều này, may thay, có ông Ngô Đình Diệm. Với tầm nhìn bảo thủ của một ông quan xa lạ với thế kỉ XX (với cả xu hướng đổi mới của Giáo hội Công giáo dẫn tới Công đồng Vatican II), xa lạ với xã hội Việt Nam, ông tổng thống của “đệ nhất cộng hòa” đã tự cưa chân ngai vàng của mình, đàn áp những người kháng chiến, đàn áp cả những giáo hữu Nam Bộ thuộc xu hướng tự do…  Ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sở dĩ đã tập hợp được khá rộng rãi các thành phần xã hội ở miền Nam, liên kết được với phong trào Phật tử, khơi dậy được phong trào đô thị… có thể nói chính là nhờ chính sách ngu muội của các chính quyền Sài Gòn hơn là nhờ sự sáng suốt của Đảng cộng sản.

Nói như vậy có cường điệu lắm không ? Tôi chỉ xin nêu ra hai thí dụ để bảo vệ cho luận điểm này : một điều may thay không xảy ra, và một điều không may đã xảy ra. Điều không xảy ra : đầu năm 1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã có chủ trương phát động “cải cách ruộng đất toàn diện và triệt để” (với ý đồ dễ đoán : phát huy sức mạnh của nông dân, chủ lực của cách mạng, chuẩn bị tổng tấn công năm 1968). Những cán bộ Ban nông thôn (xem hồi kí của ông Nguyễn Thành Thơ) và những người như ông Trần Bạch Đằng kiên quyết phản đối, Cụ Hồ gửi điện vào “can chú Thanh”, cuối cùng tướng Thanh đã từ bỏ ý nghĩ này. Một ý nghĩ rất “triệt để mao-ít”. Các nhà văn chính trị dự tưởng (politique fiction) có thể hình dung ra tình hình Việt Nam sau cuộc “cải cách ruộng đất triệt để và toàn diện” ở miền Nam năm 1967 với hơn nửa triệu quân Mĩ, Úc, New Zealand. Còn điều đã xảy ra (khi đất nước vắng bóng quân đội Mĩ) : xin mời độc giả tìm đọc những chương về “cải tạo công thương nghiệp” do ông Đỗ Mười trực tiếp tiến hành với sự ủy nhiệm của tổng bí thư Lê Duẩn, với những hệ quả như thế nào.

Chiến tranh ủy nhiệm, ý thức hệ ?

Chiến tranh Việt Nam bị lồng vào cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu hai khối tư bản và cộng sản, diễn ra trên bình diện thế giới từ năm 1947 trở đi, là điều hiển nhiên, không cần bàn cãi. Việc tham chiến của Mĩ ở Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1975 không có mục đích thực dân, gắn liền với sự khai thác tài nguyên của Việt Nam, điều đó cũng rõ ràng không kém. Mỹ nhảy vào Việt Nam, kiên quyết biến miền Nam thành “tiền đồn thế giới tự do” đứng trên quan điểm đối đầu quốc tế, ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Xô-Trung mà họ coi Hồ Chí Minh là “tay sai” (“agent” của cộng sản quốc tế). Khi Robert McNamara phát hiện ra sai lầm của mình thì Hoa Kì đã thất trận. Khi Kissinger (tháng 2 năm 1973) trông thấy bốn câu thơ “Nam quốc sơn hà…” của Lý Thường Kiệt ở Viện bảo tàng lịch sử Hà Nội, thì mấy tuần trước đó, ông ta đã phải ký tắt vào Hiệp định Paris, thừa nhận “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” (ông ta cũng đủ dí dỏm để,  đứng trước câu thơ Lý Thường Kiệt, thốt ra lời bình : “Ô, đây là điều 1 Hiệp định Paris”).

Vậy thì, về phía Mỹ, dùng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hòa, hay ồ ạt đưa đại quân sang Việt Nam (dù ông Diệm cưỡng lại) là để đánh Liên Xô, đánh Trung Quốc. Trong ý nghĩa này, chiến tranh Việt Nam là “chiến tranh ủy nhiệm”, “chiến tranh ý thức hệ”.

Về phía đối phương, hiển nhiên, lực lượng chống Mĩ không thể đánh Mĩ nếu không có sự viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc. Và khi Việt Nam thắng Mĩ, người hưởng lợi là cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhất là Trung Quốc. Điều đó cũng rõ ràng.

Sai lầm, nếu có, là nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam do xung đột quyền lợi giữa các cường quốc, người Việt Nam (cả hai phe) là những con bài được “ủy nhiệm” để phục vụ cho quyền lợi và chịu sự chỉ huy của nước ngoài.

Điều đó đúng cho một bên, thiết tưởng không cần phải chứng minh. Nhưng lầm to, nếu nghĩ nó đúng cho cả bên kia. Các công trình nghiên cứu (ít nhất của các tác giả quốc tế) cho thấy : khi Đảng CSVN quyết định tiến hành chủ trương “bảo vệ và xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, phải trầy trật lắm, họ mới tranh thủ được sự ủng hộ (hay đúng hơn, không phản đối) của Liên Xô, và cũng phải khôn khéo ghê gớm, họ mới làm chủ được nhịp độ, cường độ cuộc đấu tranh võ trang ở miền Nam (hơn một lần, nó không “ăn giơ” với tính toán của Mao Trạch Đông mà mục tiêu là hạ bệ Moskva và móc ngoặc với Mĩ). Ít người biết hơn, là : sau Hiệp định Paris, toàn bộ vũ khí sử dụng để đánh bại quân lực VNCH đều đã được tích lũy từ trước, Liên Xô không hề giúp thêm vũ khí thiết bị nào, còn tìm cách ngăn cản. Câu nói của Mao với Phạm Văn Đồng năm 1974 “chổi ngắn không thể quét xa” không chỉ là một lời nói suông).

Yếu tố quyết định

Giải phóng dân tộc, đương nhiên. Nội chiến, không thể chối cãi. Chiến tranh ủy nhiệm, hiển nhiên. Nhưng ba yếu tố ấy, cái nào là quyết định ? Cuộc chiến tranh 1945-75, tính chất cơ bản của nó là gì ?

Thật ra, nếu đồng ý với nhau về cả ba yếu tố, với nội dung của từng yếu tố như kể trên, thì cuộc tranh luận xem yếu tố nào quyết định, mỗi yếu tố đã tác động lên hai yếu tố kia như thế nào, cũng rất quan trọng, nhưng không ngăn cản sự thông hiểu nhau (trong sự bất đồng).

Thành thực mà nói, người viết bài muốn đưa ra một tiêu chí để xem xét sự tương tác giữa ba yếu tố. Đó là : nhìn lại lịch sử cuộc chiến tranh, từ mùa thu 1945 đến mùa xuân 1975, đâu là nơi quyết định các lựa chọn chiến lược, các biện phát tác chiến, các cuộc tổng tiến công ?

Xét từ góc độ ấy, cuộc chiến tranh đã mở đầu từ những quyết định ở Paris và Hà Nội. Khi cuộc chiến tranh lần thứ nhất kết thúc, quyết định đã được lấy từ Moskva, Bắc Kinh, Việt Bắc một bên, và từ Washington DC, London, Paris, thể hiện ở Genève ngày 21.7.1954. Còn toàn bộ cuộc chiến tranh lần thứ nhì, từ năm 1955 đến đêm 29.4.1975, hai trung tâm quyết định, và chỉ có hai trung tâm đó thôi, là Hà Nội và Washington DC.

Hiệp định Paris được ký kết tại đại sảnh đường Khách sạn Majestic sáng ngày 27 tháng giêng 1973 sau gần năm năm thương lượng, chủ yếu là giữa phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Hoa Kỳ. Hơn một tháng sau, ngày 2 tháng 3, cũng tại phòng hội nghị đó, diễn ra Hội nghị quốc tế về Việt Nam, với ông Tổng thư ký LHQ Kurt Walheim, thêm bốn tứ cường (nghiã là đầy đủ ngũ cường đã quyết định ở Geneve năm 1954) và bốn nước thành viên của Ủy ban quốc tế giám sát. Hội nghị long trọng chỉ họp một ngày là xong, mục đích duy nhất là để tổng thư ký LHQ và 12 ngoại trưởng ký vào bản “Định ước quốc tế”, tức là đơn thuần “chứng giám” sự thỏa thuận Viêt-Mĩ. Thời Geneve, cái “thế chiến quốc” ở Genève năm 1954 đã qua rồi.

Từ Hiệp định Paris đến kết cuộc

Cần nói gì thêm sau ngày 27.1.1973 ? Trong khuôn khổ bài viết này, có lẽ chỉ cần nêu hai điểm :

Hiệp định không thể có số phận nào khác hơn là số phận hai năm sau của nó, nghĩa là mục tiêu của nó chỉ có thể thực hiện thông qua một phương thức không do nó quy định. Thật vậy, Mĩ kí kết Hiệp định chỉ cốt để có thể rút hết quân và đón hết tù binh Mĩ một cách an toàn. Một giải pháp chính trị (hai bên miền Nam thương lượng, thành lập chính phủ ba thành phần) không thể đạt được khi mà đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đó là bản án tử hình chính trị. Không những thế, trong việc này, Mĩ và Thiệu thống nhất quyền lợi với nhau : một chính phủ liên hiệp, một cuộc bầu cử tự do, sự tham gia của cộng sản trong một chính quyền dân cử là một điều tối kị, ô nhục hơn cả một chiến thắng quân sự của cộng sản. Không đời nào nước Mĩ của Nixon-Kissinger chấp nhận một chính quyền “cộng sản” thành lập qua bầu cử. Không đời nào có thể để cho một Salvador Allende xuất hiện ở Dinh Độc Lập. Không phải ngẫu nhiên mà chưa đầy 8 tháng sau, Mỹ đã lật đổ tổng thống Chile và đẩy đất nước này vào một thảm họa kéo dài hơn hai thập niên. Cùng lắm, Mỹ có thể ngậm quả bồ hòn là sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thông qua thất bại quân sự, sau một “khoảng thời gian vừa phải” (a decent interval). Hai năm, trong ngôn ngữ cynic của Kissinger, là một thời gian “decent”.

Người ta có thể phản biện : nếu chính quyền ông Thiệu chịu thi hành Hiệp định chăng nữa, nếu một chính quyền ba thành phần được thành lập đi nữa, thì chẳng chóng thì chầy, cộng sản cũng làm một cú đảo chính như ở Tiệp Khắc năm 1947 chứ sao ? Bằng chứng là, sau ngày 30.4, cứ xem cộng sản đối xử ra sao với thành phần ba, cứ xem chính sách “cải tạo” thế nào ! Lý luận này không phải không có cơ sở (ông Đỗ Mười chắc không phản đối), nhưng hơi bị yếu, ở một điểm : cái có thể sẽ xảy ra không bao giờ biện minh cho một điều đã xảy ra. Vả lại, một quá trình diễn ra trong hòa bình, trong tự do ngôn luận (tương đối) là một trường học cho mọi lực lượng trong một xã hội chưa bao giờ có dân chủ thực sự.

Vả lại, đây là một tranh cãi vô bổ. Có ích hơn, đối với mọi người Việt Nam, bất cứ ở đâu, đang gần trời hay gần đất, là : cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung. Cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.

Trong cuộc tìm hiểu ấy, Bên Thắng Cuộc là một đóng góp quan trọng và dũng cảm của nhà báo Huy Đức.

Berlin, 8.2.2013

Nguyễn Ngọc Giao

Nguồn: Diễn đàn

Ghi chú: GS Nguyễn Ngọc Giao, từng là Phó Tổng thư ký Hội người Việt Nam tại Pháp, tham gia phiên dịch cho Phái đoàn VNDCCH tại Hội nghị Paris về Việt Nam.

66 bình luận to “1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc””

  1. […] tới bài viết từ 7 năm trước, nhưng vẫn còn tính thời sự, nhân đọc bài 1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” (Diễn đàn/ BS) của GS Nguyễn Ngọc Giao. Ông đánh giá bài viết “rất đàng […]

  2. nightsea said

    ” dân tộc Việt nam không he có kinh nghiệm lưu vong ..” vì trong lịch sử dân Việt chưa bao giờ lưu vong . Từ Lưu vong chỉ biết đến sau năm 75 nhờ ơn đảng cs dân Việt nới có từ đó trong tự điển của mình

  3. Danngu said

    Ông PNG đã viết :
    Ít người biết hơn, là : sau Hiệp định Paris, toàn bộ vũ khí sử dụng để đánh bại quân lực VNCH đều đã được tích lũy từ trước, Liên Xô không hề giúp thêm vũ khí thiết bị nào, còn tìm cách ngăn cản. Câu nói của Mao với Phạm Văn Đồng năm 1974 “chổi ngắn không thể quét xa” không chỉ là một lời nói suông).
    Thật sự là miến Bắc nhận được :
    Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị – kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn.

    Nguồn :http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/04/050412_vietnamwaraid.shtml
    Trong khi đó miền Nam gần như bị cắt hẳn viện trợ sau vụ Watergate

  4. noileo said

    “Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sỹ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê một cục”.”

    Đoạn văn trên trích từ “ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT” của NGuyễn Khải, một nhà văn cộng sản, đảng viên cộng sản, Đại tá QDND cộng sản”

    Trần Mạnh Hảo, từ rừng Lộc Ninh vào đã viết cảm tưởng của ông như sau :
    « Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi, đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả ra »
    ( Nguyen Van Luc )

    Và hẳn là NGUyễn NGọc Giao phải biết đến những nhận định của Dương Thu Hương, Dương Tường…, và nhiều người khác nữa về cuộc sống văn hóa, sach báo miền nam & VNCH

    Vậy thử hỏi cuộc sống như NK & TMH mô tả trên có gì là bất thường, có gì là sai trái đẻ phải đuọc “giải phóng”, để phải được “giải phóng dân tộc”?

    Và nếu có bọn giặc cướp tàn ác tràn đến tàn phá cuộc sống tử tế trên, do đó người ta phải chiến đấu bảo vệ cuộc sống tử tế như trên, bảo vệ cuộc sống của chính mình, thì có gì là sai trái?

    Rx ràng chiến đấu bảo vệ cuộc sống tự do, bảo vệ cuộc sống tử tế của chính mình, là việc rất bình thường,

    sao lại gọi cuộc chiến đáu để bảo vê cuộc sống tự do, bảo vệ cuộc sống tử tế của chính mình bảo vệ quyền đọc sách, bảo vệ quyền viết sách, bảo vệ cho những cuốn sách khỏi bị đốt phá là chiến đấu cho “một cuộc chiến tranh ủy nhiệm”, là “chién tranh ý thức hệ” ?

    Chỉ có bọn hòa giải đểu, bọn trí thức khuynh tả đểu cáng và Nguyễn Ngọc Giao mới gọi cuộc chiến đấu của VNCH để bảo vệ cuộc sống giá trị, tử tế, bảo vệ cuộc sống của chính mình, là chiến đấu cho một “cuộc chiến tranh ủy nhiệm”, là “chiến tranh ý thức hệ”
    hòng mong đánh đồng cuộc chiến tranh tội ác của bọn cộng […]

  5. noileo said

    NGuyễn NGọc Giao lên án bọn Việt […]

  6. […] Anh S., bạn tôi (Ba Sàm). Bài của Nhà văn Nguyên Ngọc gửi tới nhân đọc bài: Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” (Diễn đàn/ BS). Ngoài ra, còn có bài liên quan của Nhà giáo Phạm Toàn: 1608. Ảo […]

  7. VTH said

    Nếu nói các cuộc chiến tranh từ 1945-1975 là “chiến tranh ỉai phóng dân tộc” thì đây là một kết luận rất ngớ ngẩn, một sự nhiễm độc CS..

    Lịch sử sẽ tiếp tục mổ xẻ phán xét nhưng cần khẳng định chắc chắn rằng các cuộc chiến tranh này đều do CSVN gây ra, dân tộc VN cũng như các dân tộc khác, xung quanh không cần những cuộc chiến này mới có độc lập.

    Bản chất của CS là cướp quyền, là bạo lục CS không bao giờ đủ tri thức để tổ chức đấu tranh cải tạo xã hội bằng con đường dân chủ và dân trí ……nó buộc phải dủng máu người thông qua chiến tranh và đàn áp khốc liệt dân chủ…..

  8. […] tới bài viết từ 7 năm trước, nhưng vẫn còn tính thời sự, nhân đọc bài 1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” (Diễn đàn/ BS) của GS Nguyễn Ngọc Giao. Ông đánh giá bài viết “rất đàng […]

  9. không đủ kiên nhẫn để đọc hết bài của Nguyễn Ngọc Giao ,một mớ hổ lốn,rõ ràng là nội chiên mục đich để áp đăt MÁC-LÊ lên toàn đât nươc

  10. […] Anh S., bạn tôi (Ba Sàm). Bài của Nhà văn Nguyên Ngọc gửi tới nhân đọc bài: Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” (Diễn đàn/ BS). Ngoài ra, còn có bài liên quan của Nhà giáo Phạm Toàn: 1608. Ảo […]

  11. […] tới bài viết từ 7 năm trước, nhưng vẫn còn tính thời sự, nhân đọc bài 1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” (Diễn đàn/ BS) của GS Nguyễn Ngọc Giao. Ông đánh giá bài viết “rất đàng […]

  12. Vô Ngã said

    […] tới bài viết từ 7 năm trước, nhưng vẫn còn tính thời sự, nhân đọc bài 1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” (Diễn đàn/ BS) của GS Nguyễn Ngọc Giao. Ông đánh giá bài viết “rất đàng […]

  13. […] – Phạm Toàn: Ảo tưởng, ảo tưởng, rặt ảo tưởng … dzưng mà rất cần! (Ba Sàm). Bình luận về bài mới đây của GS Nguyễn Ngọc Giao: Từ Hiệp định Paris đến “Bên thắng cuộc”. […]

  14. […] 1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” […]

  15. […] 1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” […]

  16. […] – Phạm Toàn: Ảo tưởng, ảo tưởng, rặt ảo tưởng … dzưng mà rất cần! (Ba Sàm). Bình luận về bài mới đây của GS Nguyễn Ngọc Giao: Từ Hiệp định Paris đến “Bên thắng cuộc”. […]

  17. […] – Phạm Toàn: Ảo tưởng, ảo tưởng, rặt ảo tưởng … dzưng mà rất cần! (Ba Sàm). Bình luận về bài mới đây của GS Nguyễn Ngọc Giao: Từ Hiệp định Paris đến “Bên thắng cuộc”. […]

  18. tam said

    Tôi rất đồng ý với ông Nguyễn Ngọc Giao (NNG) về ý muốn : “cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.”
    Theo tôi :
    Thế kỷ 19: là cao trào của chủ nghĩa đế quốc/thực dân- con đẻ của chủ nghĩa tư bản-. Do đó nổi lên các phong trào đòi độc lập, giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
    Thế kỷ 20: là cao trào của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít- là hệ lụy, là phản đề của chủ nghĩa tư bản, do CN tư bản mà sinh ra- tuy nhiên cọng sản và phát xít đều lợi dụng chiêu bài dân tộc để giành chính quyền, sau đó áp đặt chế độ chuyên chính, độc đảng. Kết cục là họ nhanh chóng bị sụp đổ vào giữa và cuối thế kỷ 20.
    Thế kỷ 21: cao trào của NỀN DÂN CHỦ. CN tư bản tiếp tục tự diễn biến để thích nghi với trào lưu dân chủ; trong khi CN cọng sản – vốn rất phi dân chủ – và các chế độ độc tài khác (quân phiệt, hồi giáo…) đi vào giai đoạn thoái trào tự tiêu vong hoặc diễn biến thành tư bản (đỏ) kèm theo CN dân tộc cực đoan (như Trung Quốc hiện nay).
    Tương lai còn lại của TK 21 sẽ là sự đấu tranh để hình thành nền dân chủ trên toàn địa cầu và các cuộc chiến tranh của phe dân chủ chống lại bọn thực dân mới mang màu sắc dân tộc như China. (ha ha, tớ nói như Sấm…)

    Các nhân vật chính trị của VN trong mấy thế kỷ qua là đều sản phẩm tất yếu của lịch sử, sau này họ sẽ được lịch sử đánh giá công bằng. Còn các cuộc chiến tranh lớn nhỏ đã & sẽ xảy ra hay không còn tùy theo số phận và tính cách của từng quốc gia/dân tộc (đánh nhau vì ý thức hệ hay nội chiến trước hết cũng là do đám lãnh tụ nước đó “máu” chiến tranh mà thôi)

    Tương tự BTC của Huy Đức, bài viết của NNG nói lên quan điểm lịch sử riêng của tác giả và chỉ là một trong những tư liệu tham khảo. Nếu quan điểm lịch sử của tác giả trái với quan điểm của bạn thì cũng là chuyện bình thường, không việc gì phải “sửng cồ”. Tôi ủng hộ sự đối thoại thẳng thắn và phản biện tự do nhưng không ủng hộ việc bêu rếu đời tư của tác giả. Nếu các vị càng đánh ông ấy càng chứng tỏ (theo tôi) là dân VN ta rất “máu đánh nhau”.(toàn hô hào Bắc Tiến, Nam Tiến… không để người ta yên ổn làm ăn chút nào)

  19. mknguyen said

    xin bat chuoc mot cau noi nhe !! “Giai Phong cai gi !! Giai Phong cai con C” Tom lai la thanh qwa cua giai phong la ” An Cuop. An cap , va Noi doc ” chamt het !!! dot com

  20. Vị Nhân said

    Lời bình cuả BBT trong phần điểm tin, lên án cả những người “chống Cộng quá khích” ( lẫn lực lượng ” dư luận viên”) nhắm vào những người “trí thức cánh tả từng ủng hộ VC trong quá khứ” bất kể họ đã có những hành động như “góp phần làm rõ sự thực lịch sử” hay đòi hỏi nhà nuớc CSVN mở rộng quyền tự do, dân chủ. Đặc biệt những người “chống cộng cực đoan” chưa quên được hận thù và tiếp tục trút căm giận lên họ bất chấp lý lẽ…

    Điều tôi tự hỏi có phải NNG là một trong những người mà BBT muốn nhắn gửi độc giả với “tình, ý” trên không? Nếu đúng thì tôi phản đối, bởi chính những “mắc míu”, những kinh nghiệm trong quá khứ với nhóm DĐ,( mà người đã khuất, HTĐ là đại biểu) đã cho phép tôi không có một chút mơ hồ nào về họ! Còn nay, qua bài viết này những ý kiến cuả phần đông độc giả đã nói lên không chỉ “con người” mà còn về tầm hiểu biết và “quan điểm” cuả NNG. Có đúng là “góp phần làm rõ lịch sử” không? Ông ta đang sống ở thời điểm nào và với não trạng nào?

    “Giải phóng”… dân tộc?

    Không có gì mỉa mai, và trâng tráo hơn!!!

    • Lĩnh said

      “phần đông độc giả” nào đấy ông? Mỗi ngày bao nhiêu ngàn người vào đây và bao nhiêu người gửi phản hồi hả ông? Còn nếu biết là chỉ những người cay cú thù hận thì mới thích tham gia chủ đề này thì sẽ càng rõ hơn cái “phần đông” của ông.

      • Khách said

        Chụp lên đầu người khác cái mũ “cay cú thù hận” vì không phản biện được bất cứ còm nào của người ta, Đúng chưa bác Lĩnh? Muốn bảo vệ NNG bác Lĩnh cứ phản biện từng còm. Chơi trò chụp mũ làm sao bảo vệ được sự dối trá?

        • Lĩnh said

          Tiếc là chẳng có cái còm nào trong số cay cú thù hận đó có lý luận để mà phản biện đấy bác ạ. Kể cả bác nữa, từ cái tên “Khach” của bác.

          • noileo said

            Lĩnh đã nói
            12/02/2013 lúc 15:27

            Tiếc là chẳng có cái còm nào trong số cay cú thù hận đó có lý luận để mà phản biện đấy bác ạ. Kể cả bác nữa, từ cái tên “Khach” của bác.

            Một luận điệu bìm bịp cố hữu của bọn CAM, bọn […]

          • hni said

            Khi đuối lý thì quy ra CAM quýt hết.

    • Khách said

      “Giải phóng”… dân tộc?

      Không có gì mỉa mai, và trâng tráo hơn!!!

      —-

      Sự trâng tráo này là điều làm cho thành phần thứ ba bị khinh rẻ. Tôi đồ rằng những người sinh sau đẻ muộn hoặc ở miền Bắc vì không có kinh nghiệm nên không thể nào hiểu/cảm nhận được cái trâng tráo này.

  21. […] Print […]

  22. […] https://anhbasam.wordpress.com/2013/02/10/1606-tu-hiep-dinh-paris-den-ben-thang-cuoc/ […]

  23. […] 1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” […]

  24. Hoa said

    Tưởng ai chứ Nguyễn ngọc Giao Việt kiều Yêu Nước thì không bao giờ khách quan được đâu.Ông VKYN này có gan dám cho đăng bài của mình lên trang ABS để các “dư luận viên ” được còm tự do.Có lẻ ổng muốn “thăm dò dư luận ” xem mình có thể công khai sang Mỹ làm công tác tuyên truyền được chưa đấy.Có lời khuyên là ông nên đóng trụ ở Diễn Đàn Forum và Thời Đại Mới mà thôi vì ở đó chỉ có ông và đồng chí của ông được nói.

  25. Hậu Bối. said

    Tôi đồng ý với ông Nguyễn Ngọc Giao (NNG) về ý muốn :” cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung. Cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.”. Nhưng, những lập luận của ông NNG nhằm chứng tỏ rằng ( nếu tôi hiểu đúng) trong cuộc chiến 54-75, yếu tố ” giải phóng dân tộc” là yếu tố quyết định trong 3 yếu tố: giải phóng dân tộc, ủy nhiệm, ý thức hệ, đối với tôi chưa thuyết phục lắm vì các lý do sau đây:
    – Ông NNG chỉ dựa trên hiện tượng (mà chưa đi sâu vào nội tình bên trong) khi cho rằng:”… Còn toàn bộ cuộc chiến tranh lần thứ nhì, từ năm 1955 đến đêm 29.4.1975, hai trung tâm quyết định, và chỉ có hai trung tâm đó thôi, là Hà Nội và Washington DC.” Tôi nghĩ rằng ông chưa trưng ra đầy đủ những bằng chứng rõ ràng cho khẳng định này, nhất là những bằng chứng có liên quan đến “bên thắng cuộc”. Trong khi theo bài viết của GS Lê Xuân Khoa với những chứng cứ rõ ràng hơn thì ngay từ đầu cuộc chiến đã có sự chi phối mạnh mẽ của Nga và Trung Quốc. Nếu chỉ dựa trên Hiệp Định Paris với khẳng định:…”Trong gần năm năm trời, từ ngày 13.5.1968 đến ngày 27.1.1973, hội trường là nơi diễn ra cuộc thương lượng chính thức giữa Việt Nam ( VNDCCH?) và Mĩ.” để minh chứng cho khẳng định của mình thì, theo tôi nghĩ, ông NNG có vẻ như chỉ dựa vào “thành qủa mà luận đến (sự có mặt) của các anh hùng”.
    – Ông NNG cho rằng: “Việc tham chiến của Mĩ ở Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1975 không có mục đích thực dân, gắn liền với sự khai thác tài nguyên của Việt Nam, điều đó cũng rõ ràng không kém. Mỹ nhảy vào Việt Nam, kiên quyết biến miền Nam thành “tiền đồn thế giới tự do” đứng trên quan điểm đối đầu quốc tế, ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Xô-Trung mà họ coi Hồ Chí Minh là “tay sai” (“agent” của cộng sản quốc tế). “. Vậy thì cuộc chiến 54-75 có mục tiêu giải phóng dân tộc ra khỏi điều gì? Phải chăng , ra khỏi “tiền đồn của thế giới tự do”? Nếu vậy thì bản thân mục tiêu này đã nói lên bản chất của cuộc chiến 54-75.
    Tôi không cho rằng những thảo luận về bản chất của cuộc chiến 54-75 là vô bổ vì ít ra , như ông NNG đã viết, những thảo luận sẽ giúp cho những thế hệ “hậu bối” như chúng tôi hiểu rõ hơn lịch sử cận đại của đất nước và có thể qua đó sẽ hiểu hơn về những con người đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia hoặc điều hành cuộc chiến đầy nghiệt ngã và bi thảm này của dân tộc.

  26. Thanh Gia said

    Cho dù các chú có nói gì thì nói em vẫn ứ đếch thích việc DCS tham quyền cố vị.
    Xin lỗi Basam em “xì-bam” tí

  27. […] 1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc” […]

  28. D.Nhật Lệ said

    Đúng ra,tôi không muốn viết gì thêm về ông NNG nhưng tình cờ tôi mà tôi đã phải nhặt ra 1 trong những cọng rác trong
    một thùng rác nhận định của ngài Việt kiều yêu nước NNG.:
    Trước câu sau là mấy chữ “bưng mâm bày cỗ” cho Mỹ mà ông NNG.cố ý biện hộ cho sai lầm “tả khuynh Stalin Maoist”,
    chứ không phải là do tinh thần giáo điều,cực đoan của bọn tay sai CSQT :
    “…Gia đình một ông quan chỉ được tiếng ‘chống Pháp’ vì Pháp đã không chọn ông ta mà chọn người khác làm thượng
    thư bộ Lại”
    Thưa ngài,Bảo Đại đã bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm,33 tuổi làm thượng thư bộ Lại nhưng sau đó ông NĐD.xin từ chức
    vì Pháp đã không chịu thoả mãn điều kiện ông đưa ra,SAU KHI ông lên làm TT.Bộ Lại (như Thủ tướng bây giờ).
    Lịch sử đã viết rõ ràng rồi,ông ơi ! Việc từ chức thượng thư Bộ Lại của ông NĐD.đã gây chấn động đến mức nhà yêu nước Phan Bội Châu phải làm một bài thơ ca tụng.Được cụ PBC.ca tụng là diễm phúc lớn,không phải ai cũng được đâu nhé !
    Vậy lý do gì mà ông cố tình viết ngược lại sự thực lịch sử như thế được nhỉ ? Chán lên tận cổ thứ…trí ngủ này !

    • Vô liêm sỉ said

      Hơn cả trí ngủ đấy bác. Hãy đọc lại những dòng mào đầu của “ngài”: ” Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX”

      U mê ăn cháo lú cả đám nên “ngài” viết bài này khai sáng đấy bác nhé. :))))))))))

  29. Điêu mẹ bốn said

    Cả người Quốc gia lẫn người CS , giờ này vẫn chưa dám nhìn vào cái sự thật của bản thân mình trong cuộc chiến nên vẫn còn những tranh luận vô bổ .

    Nội chiến và xử dụng Vũ khí của nước ngoài để đánh nhau là một sự thật . Còn việc tiền đồn bảo vệ tự do hay giải phóng dân tộc chỉ là cái để tuyên truyền . Chuyện này chẳng có gì hay đâu mà phải nhai đi , nhai lại , cho phiền phức !

    Cái sai nghiêm trọng nhất cho người VNCH là không đủ can đảm giương cao ngọn cờ giải phóng miền Bắc , chỉ là tiền đồn của tự do , không giúp người miền Bắc thoát khỏi sự Cai trị của ĐCSVN sau năm 54 . Miền Nam ích kỷ chỉ biết lo cho tự do của miền MN , chỉ biết ở thế Thủ để cho CS miền bắc quấy phá . Thua CS miền Bắc là chuyện đương nhiên không chóng thì chầy , sớm hay muộn mà thôi .

    Còn cái sai nhất của người miền Bắc lấn người miền Nam theo CS , là chỉ biết hy sinh tiêu diệt Pháp , tiêu diệt Mỹ Nguỵ , Giải phong MN để giành độc lập . Nhưng mù mờ , ngu ngơ về một về một xã hội CS . Bị ĐCSVN lợi dụng tinh thần yêu nước một cách triệt để , cuối cùng khi giành được độc lập thống nhất , người VN cả hai miền , đều bị chính ĐCSVN biến thành Công Cụ phục vụ cho đcsvn và làm thí nghiệm cho chủ nghĩa xã hội Quốc tế

    Người VNCH thất bại trong năm 75 , bị CS ngược đãi hành hạ tù đày không nên vì thế mà than vãn , đây là quy luật của kẻ thắng và người bại, sau khi chấm dứt chiến tranh , chẳng có gì lạ . Nếu người VNCH nào sau năm 75 , than rằng mình bị CS ngược đãi , thì đây mới chính là điều kỳ lạ cho mai hậu.

    Tuy nhiên , những việc làm của người VNCH không hoàn tất , đã thất bại khi giương cao ngọn cờ chính nghĩa tự do và dân chủ cho dân tộc . Thì giờ đây tại VN , chính những người CS thức tỉnh , những lớp trẻ lờn lên trong xã hội CS , hiểu được giá trị của tự do dân chủ , đang tiếp bước những người VNCH đứng lên trực diện đấu tranh với ĐCSVN đòi hỏi nhân quyền , tự do dân chủ thật sự cho VN .

    Nếu nhìn nhận nhân quyền , tự do và dân chủ , như một chân lý trong xã hội mà dân tộc VN phải vươn tới . Thì Công lao của người VNCH lẫn người CS thức tỉnh cùng những lớp trẻ hiện nay tại VN đứng lên trực tiếp đấu tranh với ĐCSVN , đều giống như nhau , đều chung một mục đích như nhau .

    Thế thì tại sao chúng ta phải đố kỵ , tranh luận và hiềm khích lẫn nhau bởi những chuyện vô bổ ngày xưa , xem ra chẳng ích gì .

    Đúng vậy không ! Xin thưa cùng tất cả các ban trên diễn đàn này ?

    • Đồng chí X said

      Tôi không đồng ý với ông trong câu này:…” bị CS ngược đãi hành hạ tù đày không nên vì thế mà than vãn , đây là quy luật của kẻ thắng và người bại, sau khi chấm dứt chiến tranh , chẳng có gì lạ …” Sau khi chiếm Quebec của Pháp ở Canada, Anh vẫn tôn trọng quyền của dân tộc góc Pháp quân Pháp ra đi trong nghi lể, không hề có trả thù. Sau nội chiến Nam-Bắc ởMỹ, miền Nam không bị dày đoạ, tướng Lee và quân ông ta dược chào đón, ra đi theo nghi lể, đến hôm nay tên tuổi , tượng đài các tướng miền Nam vẫn được nhắc nhở, thuộc vào lịch sữ Mỹ. Các nước Dức, Nhật thua trận trong thế chiến thứ 2 không bao giờ bị dày đoạ. Các nước Đồng minh tạo cầu không vận ” nuôi” dân Bá Linh bị Sô Viết bao vây cô lập. Mỹ đóng quân ở Tây Dức và ta thấy dân Dức như thế nào ngày nay. Tướng MacAthur dược dân Nhật xem như một trong những người hùng của Nhật Bản vì đã tôn trọng dân Nhật và giúp nước Nhật trở lại thịnh vượn sau chiến tranh …. rất nhiều thí dụ…!

    • noileo said

      Nói lên sự tàn ác của bọn […]

  30. Minh said

    NN Giao chỉ căn cứ vào câu ” Chổi ngắn…” của Mao mà nói VC đã chống lại ý đồ của quan thầy mà chủ đông tiến hành chiến tranh ư ?
    Nếu không bỏ ngang đi làm phiên dịch, chịu khó hoc hành thêm chút nữa thì sẽ khá hơn. Một đời mấy lần nhầm mà chưa sáng mắt ra ư ?

  31. D.Nhật Lệ said

    Từng làm thông dịch cho phái đoàn MTGPMN.trong hoà đàm Paris,ông Nguyễn Ngọc Giao ít nhiều cũng đã nhúng tay vào
    tội ác vì góp phần đẩy nước ta và dân ta vào trong gọng kềm của Tàu cộng,kẻ thù truyền kiếp dân tộc.
    Do đó,những nhận định của ông không phải dễ hiểu mà ông cố tình phức tạp hóa một vấn đề đơn giản,nếu không đọc kỹ thì
    không hiểu ông muốn nói gì trong một rừng lý lẽ giả- thật,sai-đúng,phủ định-khẳng định v.v.chằng chịt với nhau.Ông ta thâm trầm ở chổ đó.Điển hình như ông ta đưa ra “chủ nghĩa chống cộng” chẳng hạn.Làm gì có thứ chủ nghĩa này cơ chứ ? Đã thế,
    ông còn lôi cổ báo Nam Phong làm chứng cho ông ta nữa trời ạ ! Của đáng tội,ông chủ báo Nam Phong nếu có nói thì cũng
    đâu phải được mọi ngượi VN.công nhận,huống chi bàn luận chính trị về chủ nghĩa trên bình diện thế giới !
    Thực ra,ông NNG.cố ý đánh tráo nguồn gốc chiến tranh VN.Dựa vào bài này thì ông cho là do Mỹ muốn chống lại khối CS.,
    chứ không phải miền Bắc muốn cộng sản hóa miền Nam.Sở dĩ nói thế là vì ông dưạ vào những diễn biến bên ngoài và chính
    ông cũng chỉ là kẻ ngoại cuộc,bị Cộng sản miền Bắc lợi dụng nhưng ông ta không hề biết vì người CS.che giấu tối đa chân tướng của mình khi thực hiện việc đánh chiếm miền Nam dưới mặt nạ “giải phóng,độc lập,dân chủ” gọi là cách mạng dân tộc,dân chủ,dân quyền nhưng thực chất là khẩu hiệu bánh vẽ v.v.nhưng cũng đã lôi ông vào bẫy để làm lợi cho họ !
    Thế nhưng,viết lan man trên trời dưới đất kiểu khoe khoang kiến thức như vậy thì ông cũng để lộ ra sự thực mà ông đã chối
    bỏ ngay từ đầu khi ông viết : “Việc tham chiến của Mỹ ở Việt Nam từ 1950-1975 không có mục đích thực dân gắn liền với sự khai thác tài nguyên của VN.Điều đó cũng rõ ràng không kém”.Thế thì giải phóng làm gì nữa cơ chứ,sau khi ông đã phân tích
    theo kiểu chơi chữ : chẻ từ chẻ nghĩa trong toàn bài nhận định.. ra vẻ điều khoa học của ông ?

    • Huong Duong said

      Dung la cong san viet nam ‘ co cong” thong nhat dat nuoc,.. Co dieu mia mai la thong nhat trong han thu, thong nhat trong thuong dau,, Sau 30 thang 4 nam 75 biet bao nhieu gia dinh hai mien Nam Bac da phai ly tan vi su tu toi cua che do Cong San viet nam ,, Bay gio chi co thu than cong dui mu nhu Nguyen ngoc Giao moi mo cai mieng thui de ca tung cong on thong nhat cua Cong san Viet Nam,,

  32. giáo sư già về hưu said

    Giải phóng (1945-75) :
    Đảng Cộng Sản VN đã biết lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân VN để dành được thắng lợi cuối cùng : đuổi được Mỹ ra khỏi VN, dành lại độc lập cho quê hượng. Nhưng cái mà ông Nguyễn Ngọc Giao không nói đến là từ sự cướp quyền thô bạo và lưu manh của Đảng CSVN năm 1945, ĐCSVN lại đi đôi với Trung Quốc và sự độc lập của VN không hoàn toàn “độc lập” như ĐCSVN vẫn muốn rêu rao cho người dân hiểu : mất đất, mất đảo và mất biển vào tay Trung Quốc là điều mà VNDCCH đã “cúng dường” cho Trung Quốc để dành được cái gọi là độc lập tự do hạnh phúc ngày nay. Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, nếu giải phóng đất nước và con người được thực hiện, sao lại đẩy hơn 3 triệu quân dân chính miền Nam vào những trại (tù) cải tạo trong đó điều kiện sống biến con người thành những người cùng khốn, một hành động man rợ không Trời Phật Chúa nào chứng giám cho mà những thế hệ mai sau vẫn tiếp tục ngậm ngùi cho những người miền Nam đã không làm gì nên tội.
    Thế thì cải tạo đã tạo ra những gì ? Đọc BTC của Huy Đức, người ta còn thấy chính những người theo cách mạng chân chính từ thưở ban đầu cũng quẩy gánh gửi vợ con lên thuyền bè bỏ xứ ra đi. Giai đoạn giải phóng như vậy không có một kết quả đẹp. Vì sao ? Vì những người mang tên giải phóng là những người mắc bệnh tư duy CS rất nặng, tình người đối với họ không có hoặc không còn nữa.
    Đọc phần hai của BTC mới thấy thật là oan cho một dân tộc, oan đây là oan khiên chứ không phải oan trái. Cả một dân tộc hy sinh cho vài ông thất học (ông thì chỉ là nông dân, ông thì là thợ sơn, ông làm nghề giết lợn, ngay cả ông tổ “cách mạng” VN là ông HCM cũng chỉ mới học xong 5 năm đồng ấu (tức là sơ học yếu lược). Với một sự thất học lớn lao như vậy, các ông Mười, ông Linh, ông Duẩn, ông Chinh, ông Kiệt ông Khải v.v…thi nhau cai trị và xử lý toàn thể dân tộc VN. Trò chơi của các ông cầm quyền sát sinh này đưa đến không biết bao nhiêu sai phạm (xin đọc BTC của Huy Đức phần 2) để rồi chính nhân dân lãnh đủ.
    Ngày nay kết quả của cuộc giải phóng ấy là gì ?
    Như vậy không thể nào gọi chiến tranh đó là chiến tranh giải phóng được. Chiến tranh đó phải được gọi là chiến tranh đô hộ đưa dân tộc VN vào một gông cùm mới của một chính sách độc đảng độc tài độc quyền mà những người dẫn đầu (lãnh đạo) đang tha hồ làm giàu trên xương máu của những cuộc hy sinh vô bờ bến của dân tộc VN.
    Đó là chưa kể tất cả những người trong Bộ Chính Trị VN hiện nay sẽ phải chịu trách nhiệm trước toàn dân về sự mất đất, mất đảo và mất biển, mất vào tay những người hung hăng và ác ôn phương Bắc..

  33. cu said

    Thời cuộc đang đổi thay nhanh chóng. Biến chuyển lớn gần kề.
    Một ‘bộ phận’ lòng thòng của đám dân gọi là ‘trí thức cục cứt’ bỗng dưng thấy lòng trống trãi, đầu óc trống rỗng.
    Như một phản xạ tâm sinh lý, người ta không thể buông xuôi, đành phải viết, phải nói để chống chế, để thanh minh, để biện bạch với đời, và với chính mình, về quãng đời sân si tham hận đã qua.

    Ắt còn thấy nhiều bài viết, sách vở, hồi ký kiểu thế này sẽ được viết, được đăng trong thời gian tới đây.

  34. Pheng said

    “Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia”

    Thống nhất thì còn có vẻ có lý, nhưng nếu nói là giải phóng thì không, vì
    Cho tới bây giờ, ai giải phóng ai thì bắt buộc phải hiểu, chỉ có kẻ khiếm thị, lãng tai hay ít học mới không hiểu.

    Thời buổi ngày nay sao lắm trí thức nội ăn nói càn, như ông DTQ nói đời ông đổ nhờ cuốn sách của Trần dân Tiên

    • HP said

      Hình như bác Pheng chỉ đọc lướt, tác giả nói là ‘giải phóng dân tộc‘ hay ‘giải phóng đất nước‘ theo nghĩa đất nước được ‘tư do với người nước ngoài’ (= người nước ngoài không còn trực tiếp nhúng tay vào việc nước), chứ đâu có nói ‘giải phóng nhân dân‘ tức là mọi người dân được tự do.

      • Giải phóng? said

        Người dân không được giải phóng, vậy theo cách giải thích của bác có nghĩa là dân ta chết mấy triệu người để thay thế thằng thực dân mắt xanh mũi lõ bằng thằng thực dân da vàng mũi tẹt?

        • HP said

          Rủi thay, thực tế hình như là như vậy.
          PS: không phải thằng thực dân mắt xanh mũi lõ không mà cả thằng ‘bạn’ da vàng mũi tẹt nhưng ngồi trên đầu mình nữa.

  35. Nhan said

    Cuộc chiến Việt Nam 60% là chiến tranh ý thức hệ.
    “cách viết sử bóp méo, đầy lỗ hổng” trong sự kiểm duyệt gắt gao. Do vậy “mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử”!
    “Tham nhũng, tiêu cực nhìn ở đâu cũng thấy, sờ ở đâu cũng có” – như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.
    Tham nhũng, tiêu cực như thế là thối nát hay tốt đẹp? Tham nhũng, tiêu cực như thế là lưu manh hay đạo đức – văn minh?

    • Huong Duong said

      Dung quen nguyen ngoc Giao la mot ten than cong, nen bai viet cua no chi to diem, ca ngoi phia mien Bac thang tran
      Co le Ngueyn ngoc Giao nen ghi nho cau noi de doi cua Le Duan” Chung ta danh My la danh cho Lein Xo, danh cho Trung Cong”
      Chinh nghia o cho nao vay ho Ngueyn ngoc Giao ? Hay cau noi da chung to than phan tay sai cua mien Bac doi voi Trung Cong va Lien Xo .. Toi nghiep Nguyen ngoc Giao tim cach chong che cho cai thui tha khong the tha thu ay.
      Noi that voi Nguyen ngoc Giao la cho du Thieu tham nhung , Ky an choi dang diem thi nguoi dan mien Nam duoi che do Thieu- Ky khi an mot con ga trong gia dinh khong den noi dau diem len lut nhu nguoi dan mien Bac duoic he do Ho chi Minh- Le Duan.. Tim cach benh vuc chinh nghia cua mien Bac la chuyen lam khong tuong cua thu nguoi than cong nhu Nguyen ngoc Giao
      Theo Cong san, Nguyen ngoc Giao hoc bai hoc dau tien la doi tra, tim bang moi cach moi gia de benh vuc cho chinh quyen Cong san Viet Nam,. Do la dieu dang khinh bi doi voi mot thang tu nhan la tri thuc, la giao su dai hoc o Phap.
      Con cho de 3 ngay da mo mat, con thu u me lam tay sai cho cong san vn da 37 nam roi nhu ten than cong Nguyen ngoc Giao, mat van chua mo,, Do moi la dieu dang buon va dang khinh bi nhat..

  36. Nếu không "Mỹ cút, Ngụy nhào" said

    Chuyện người Mỹ đem quân vào miền Nam VN là để chống làn sóng đỏ từ Trung Cộng đổ xuống Đông Nam Á là chuyện đã rõ ràng

    Chuyện ông Hồ Chí Minh và đảng CSVn nhận vũ khí từ phe CS Nga và Tàu để “giải phóng miền nam, thống nhất đất nước”, để “Mở cho TQ một con đường đi xuống phía nam” (lời của Mao Trạch Đông nói với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đông và Lê Duẩn – 1959) , ….cũng là chuyện đã rõ ràng, vì trong tài liệu “Sự thật 30 năm quan hệ Việt Trung” (do Hà Nội xuất bản) cũng đã xác nhận câu nói này và cả câu “TQ đánh Mỹ tới người VN cuối cùng” cũng là của Mao.

    Chỉ khác một điều là – để hoàn thành “nghĩa vụ quốc tế cao cả” do phe xhcn giao phó – ông Hồ Chí Minh – đã rất khôn ngoan – chỉ nhận khí tài từ Liên Sô và Trung Quốc, còn xương máu thì ông “phóng tay” dùng “hàng nội địa”.

    Ngược lại, phía VNCH thì – ban đầu – Ngô Đình Diệm, sợ mất chính nghĩa, cũng chủ trương không để quân Mỹ vào miền Nam, đổ máu, mất mạng, chống cộng thay cho mình, nhưng người Mỹ đã không tin vào cái QLVNCH của Ngô Đình Diệm còn non trẻ vì mới thành lập (đa số chỉ huy lại được đạo tào từ thời Liên Hiệp Pháp) …nên Mỹ đã lật đổ NĐ Diệm để tự mình đảm trách một phần lớn công việc Chống cộng thay cho nhân dân miền Nam (như một thứ lính đánh thuê đã không công lại còn mang tiếng) .

    Câu hỏi đã từng được đặt ra là : Nếu miền Nam VN chưa được “giải phóng”, và quân Mỹ vẫn còn “chiếm đóng” miền Nam như đang chiếm đóng Nam Hàn, Nhật Bản, hay như Tây Đức (trước kia)….thì VN có mất Biển đảo vào tay Trung cộng như ngày nay hay không? và VNCH có thật sự là tay sai của đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như Mỹ có thật sự là kẻ cướp nước như những người CS cáo buốc hay không ?

    Câu trả lời không khó, vì tấm gương Nam Hàn, Nhật Bản và Cộng Hòa Liên Bang Đức vẫn còn đó ….Chỉ có kẻ đui mới không thấy .

    Nếu không “Mỹ cút, Ngụy nhào”
    Bố bảo thằng Tầu dám mó Biển Đông !

    Đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào”
    Để bác Hồ rước Tầu vào Biễn Đông
    Cũng nhờ “giải phóng thành công”
    Cho nên Biển Đảo mất không cho Tầu …

    • Vô danh said

      Đúng thế, đúng thế, còn một điều nữa phải bàn là, nếu Mỹ còn chiếm đóng Miền Nam, thì hiện nay Miền Bắc sẽ chẳng khác Bắc Hàn bao nhiêu. Cho nên chúng ta phải thank you và biết ơn sâu sắc những người dân Miền Nam đứng lên đánh đổ chế độ MNCH và tự chui vào cái thòng lọng của chế độ Độc tài miền BẮc.

    • minzunuami said

      Mong rằng Ông NNG đọc những lời trên để hiểu rỏ sự nguỵ biện và sai bét của ông trong lý luận. Phàm ở đời làm việc gì cũng nhìn vào kết quả. Có lẻ nào ông không muốn nước ta được như Nam Hàn, Đài Loan, hay Nhật. Và Ông có hài lòng với những thảm họa mà đảng CSVN đã và mang lại cho đất nước, dân tộc ta không? Với tinh thần trách nhiệm của một người dân thì ông làm gì để sửa đổi nó?Hay là ông vui mừng như một đứa trẻ sau ba mươi năm tự so sánh mình hồi năm tuổi ,rồi rất tự hào và hảnh diện là mình đã lớn và khôn ngoan rất nhiều.

  37. Hung said

    Vi giao su Giao muon chung to cho moi nguoi ve hieu biet va kien thuc cua minh, nhung cang doc thi cang nhan ra ong Giao thuoc truong phi “LU”. de nghi ong Nguyen Phu Trong de bat ong Giao mot chu vu gi do cho xung “tam”

  38. NẮNG HẠ said

    Thôi bác GIAO ơi ,đừng nói nữa .
    trước 30 tháng 4 năm1975 ,những người như bác NGUYỄN GIA KIỄNG là phe cũa bác ,thì được chính phủ cho miển đi lính ,đi du học ,các bác vì việc gì phải phản bội ?còn tôi phải bỏ trường bỏ bạn vác súng ra chiến trường ,.tất cả bây giờ là lịch sử ,sự thật phải là sự thật ,hảy để cho lịch sử viết vậy ,có điều viết phản hồi cho bài viết cũa bác thì tôi thấy rằng ,miền nam là con cờ đã thí ,miền bắc những ngày sắp tới là con cờ phải ngũm củ tỏi ,chỉ có người dân VIỆT NAM là đi qua gian nan cùng khổ để sống còn ,
    … bước chân VIỆT NAM đi qua thế giới
    in dấu chân là động những mồ hôi
    in lịch sữ là tên em rạng rở
    dân tộc tôi nào có tội gì đâu ?
    hơn bốn ngàn năm ũng vì yêu nước
    giữ vững cơ đồ đã một kỳ quan ,…
    một dân tộc không có thồi gian để khôn lớn trưởng thành ,hết thằng này hiếp ,tới thằng khác bắt ,thì trách gì nhau ?
    một dân tộc phải sống giữa chiến tranh ,coi lại lịch sữ được mấy ngày hòa bình ?

  39. độc giả said

    Có ăn theo Bên Thắng Cuộc cũng khéo khéo chút bác NNG ạ. 😉

  40. Vũ Thế Phan said

    [Mấy bác Việt Nam Cọng Hành…]

    – Dân Việt mà đầu năm khai khẩu như Vẹm!

  41. độc giả said

    “Còn cuộc chiến tranh thứ nhì, có yếu tố nội chiến (chúng tôi sẽ phân tích ở một phần dưới), nhưng khách quan mà nói, vai trò của Hoa Kì liên tục từ 1950 đến sáng ngày 30 tháng tư 1975 không thể chối cãi là vai trò của một siêu cường, muốn quyết định số phận của Việt Nam, thông qua những chính quyền mà họ đã tạo dựng và khi cần thiết thì trừ khử, bãi bỏ hay bỏ rơi (mà Mĩ bỏ thì chỉ có rơi, không thể gì khác).

    Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia”.

    Nói như Nguyễn Ngọc Giao, tất cả những lãnh đạo VNCH ngu từ 1954, làm tay sai cho Mỹ từ 1954 đến 1975, bằng chứng đi với Mỹ, làm đồng minh của Mỹ?
    Một tay phe thứ ba nhân dịp này cố chứng minh cho mình thôi NNG ạ.Ông lớn giọng nói đến sự mù lịch sử, sự bi thảm của việc mù lịch sử và bù lại bằng cách biện minh cho sự ngu của mình. Với tôi, chỉ là thế.
    Có nhiều cách để lấy lại chút tiếng cho mình nhưng đừng tung hỏa mù kiểu này. Hèn lắm.

    • độc giả said

      Đọc hết bài của NNG thấy tóat lên ý duy nhất: tội đồ chính từ 1954 đến 1975 là Mỹ. Đúc khuôn những gì cộng sản nói.
      Bravo Nguyễn Ngọc Giao làm thêm cú bợ nữa.

      • nguoidaicat said

        Bác còn “can đảm” đọc hết bài viết.

        Em chỉ đọc đến 1/3 là biết bác giao thuộc “bên” nào rồi, bác ấy đang “cố” ăn theo bác Osin, và đang bênh vực ai, nên thôi không đọc nữa

        Đời vẫn còn có những người “tầm” quá lùn mà vẫn cứ cố “nhón gót”!!!!!!

  42. sad said

    Dân Việt said: “Ông Kiệt nói ngày 30-4 có 1 triệu người vui thì cũng có 1 triệu người buồn. Ông nói thế là sai rồi. Ông cần phải nói lại là ngày 30-4 có 3 triệu người vui và có 1 triệu người buồn.”
    Nay nhìn lại 30/4 : 1 người vui – 10 triệu người buồn.

  43. Dân Việt said

    Mấy bác Việt Nam Cọng Hành suốt ngày hò hét nội chiến nọ kia. Thật nực cười. Dựa vào mục đích tiến hành chiến tranh, cuộc chiến Việt Nam sẽ chia ra làm các tỉ lệ sau: 60% là giải phóng thống nhất đất nước + 20% là nội chiến + 20% là ý thức hệ.
    Ông Kiệt nói ngày 30-4 có 1 triệu người vui thì cũng có 1 triệu người buồn. Ông nói thế là sai rồi. Ông cần phải nói lại là ngày 30-4 có 3 triệu người vui và có 1 triệu người buồn.

    • Vũ Thế Phan said

      [Mấy bác Việt Nam Cọng Hành…]

      – Dân Việt mà đầu năm khai khẩu như Vẹm!

    • Khách said

      Ông Dân Việt phân bổ tỷ lệ mục đích của cuộc chiến rành rẽ như trên không ai chấp nhận được.
      Mục đích cuối cùng của CS la xây dựng chế độ “chuyên chính vô sản”(CSCN) ở đất nước Việt Nam, do vậy cuộc chiến VN là cuộc chiến 100% vì ý thức hệ. Mặt khác Mỹ cũng sợ CN CS lan tràn sang nước khác theo thuyết Domino.
      Đảng CS VN đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân + vũ khí của Nga Sô, Tàu Cộng để thực hiện mục đích riêng của họ.
      Thật bất hạnh cho dân tộc VN.

    • Binh said

      Bố này dạng nói liều rồi, nhét chữ vào miệng ông VV Kiệt. Từ đâu ra mấy con số đó, láo toét! Nội cái nickname là làm nhục cho người Việt rồi!

    • Đồng chí X said

      Nguỵ biện, lấp liếm !Thế theo Dân Việt, câu nói này cung sai luôn hở: “Hệ thống tuyên truyền của đảng CSVN toàn những cái lưỡi “gổ” chuyên nói lấy được, nói láo mà không biết ngượn mồm, nói láo như phường “vô học” (Hồi ký Rồng Rắn; Trung Tướng Trần Độ/Phó chính uỷ quân Giải Phóng /PCT/Quốc Hội/CHXHCN/VN ) ???!!!

Bình luận về bài viết này