BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

Phần 8: NHẢM VĂN

NHẢM VĂN

Ra đời ngày 29 tháng 3 năm 2005 và bùng nổ ở Việt Nam từ nửa đầu 2006, mặc dù chưa bao giờ lọt vào danh sách những mạng xã hội nổi tiếng thế giới như MySpace, Facebook hay Friendster, nhưng Yahoo! 360 là nơi thân thiết nhất, “ngôi nhà chung” đối với các blogger Việt. Cho đến trước khi sập, Yahoo! 360 chắc chắn là mạng xã hội được ưa chuộng nhất và phổ biến nhất Việt Nam. Đây là nơi chứng kiến đủ hỉ, nộ, ái, ố của cộng đồng blogger Việt: từ hiện tượng hình thành các “hot blogger” tới tâm lý ngưỡng mộ, tôn sùng những người nổi tiếng trên mạng, hay phản ứng dữ dội với các bài viết cực đoan, gây tranh cãi. Và cuối cùng là phong trào sử dụng blog Yahoo! 360 để phổ biến những bài viết có nội dung chính trị.

Dù đóng cửa do kết quả hoạt động kinh doanh không ra lãi của yahoo hay vì nguyên nhân nào khác thì sự kiện “Yahoo! 360 sập” vẫn là nỗi buồn lớn với blogger Việt Nam – những người dùng chung thủy nhất của yahoo. Bởi vì dù thế nào đi nữa, Yahoo! 360 cũng mang lại không ít điều tích cực: cổ vũ phong trào viết văn (dẫu có khi chỉ là vài dòng tâm sự cá nhân), khởi xướng trào lưu “văn học mạng”, và quan trọng nhất, là cầu nối cho rất nhiều mối quan hệ xã hội, phong phú và dân chủ hóa việc cung cấp và xử lý các thông tin. Trước khi có Yahoo! 360, chưa bao giờ mà cộng đồng mạng Việt Nam lại liên kết với nhau mạnh mẽ như thế.

Nhưng blog có phải báo chí không? Với tôi thì không, vì nếu đúng thế thì blogger nào cũng có thể được coi là nhà báo cả, trong khi nhà báo sở hữu những kỹ năng riêng, bí quyết nghề nghiệp riêng mà blogger không có được. Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam, đã xuất hiện những blog uy tín chẳng kém báo mạng. Sự kiện blog Hà Kin từng nhận 26.000 lượt truy cập một ngày (năm 2006) là minh chứng: Con số này tương đương lượng người đọc trong ngày với một bài viết trên một tờ báo điện tử lớn.

Và trước khi có Yahoo! 360, chưa bao giờ mà các nhà báo, các tờ báo ở Việt Nam lại phải để ý tới cái gọi là “cộng đồng mạng” thế. Dẫu trước Yahoo! 360, đã có văn hóa forum (diễn đàn), với những diễn đàn nổi tiếng như Tathy Thăng Long, nhưng chỉ từ khi Yahoo! 360 xuất hiện, cộng đồng mạng mới trở thành một lực lượng có ảnh hưởng đối với báo chí “chính thống”: Đó là nơi cung cấp nhiều nguồn tin, nơi hình thành các luồng dư luận đánh giá về nhân vật này sự kiện kia, nơi bình phẩm về chất lượng một bài báo, nơi mang lại các mối quan hệ cho nhà báo, thậm chí là nơi xây dựng hoặc phá bỏ thương hiệu (dẫu chỉ là trên mạng) của một nhà báo, một tờ báo. Sau khi Yahoo! 360 đóng cửa, cộng đồng blogger Việt gần như tan rã, tản mát sử dụng các mạng xã hội khác nhau: Blogger, Multiply, WordPress, Youme, Facebook… Nhưng dần dần, họ đã lấy lại được sức mạnh khi trước.

Nhìn lại truyền thông Việt Nam những năm 2006-2010, sẽ là thiếu sót nếu chỉ nhắc tới báo chí “chính thống” mà bỏ quên một nền truyền thông đầy sôi động của các blogger, các nhà “dân báo”.

Vì vậy, tôi cho rằng blog và mạng xã hội không phải là báo chí, nhưng đó chắc chắn là một loại hình truyền thông đại chúng, cũng như truyền hình, phát thanh, xuất bản, báo và tạp chí vậy. Và, có một thực tế là, thời trước, ở nơi nào mà báo chí chính thống càng kém phát triển thì thông tin vỉa hè, “phi chính thống” càng lên ngôi. Thời nay, nếu báo chí chính thống không chứng tỏ được uy tín, sức nặng của nó, thì đến lượt truyền thông Internet (mạng xã hội, diễn đàn, video sharing v.v.) trỗi dậy.

Vậy thì những gì tôi viết trên blog cũng là một phần nhỏ của truyền thông, đúng như vậy rồi. Nhỏ và có lẽ nhảm nhí nữa (trong trường hợp của tôi), nên tôi gọi chúng là “nhảm văn”. Tuy vậy, thú thực là chúng cũng phản ánh một vài suy nghĩ không nhảm nhí của tôi.

 
 

Tình yêu thời bão giá

Y mới có người yêu. Cô ta xinh hay xấu, lành hay ác, tuổi tác ít hay nhiều, làm nghề ngồi một chỗ hay chạy loạn ngoài đường, là mối tình thứ mấy của y… chuyện ấy chẳng có gì đáng nói. Điều đáng nói là y có tình duyên mới đúng vào lúc cả nước đang rơi vào vòng xoáy điên cuồng của một cơn bão mạnh cấp 11, giật trên cấp 12: bão giá.

Trời hại y, con tim đang vui trở lại, lòng dạt dào muốn yêu, thì bão giá nổ ra. Hàng hóa gì cũng tăng giá, trừ hàng hóa sức lao động của y. Lẽ thường, với một người nghèo, chi tiêu sẽ dồn vào ăn là chính. Điều này đúng cho cả một gia đình lẫn một đất nước: Nhà nghèo tốn tiền ăn phần nhiều chứ mấy nhà tốn vào tiền mua vé xem phim với xem thi hoa hậu. Đứng trên tầm vĩ mô mà nói, khi đất nước nghèo, chi tiêu của dân chúng đổ hầu hết vào ăn uống, còn chuyện làm đẹp, giải trí, giáo dục, nâng cao đời sống tinh thần… phải để sau, cứ theo thứ tự ấy mà ưu tiên.

Y cũng thế. Dạo trước bão giá, sau khi bán hàng hóa sức lao động của mình, y có thể dùng tiền ấy để ăn uống, tậu thiết bị ngoại vi cho con laptop cưng, mua giày, cắt tóc, mua sách báo truyện đọc cho dễ ngủ mỗi đêm. Từ khi bão giá nổ ra, y chẳng còn mua được gì, suốt ngày chỉ thấy lo ăn. Đã thế lại đèo bòng thêm một cô người yêu đúng vào lúc này, quả là trong cái may có cái rủi.

Chẳng hiểu người khác yêu đương thế nào chứ với y, mối tình nào cũng làm y lõm về tài chính. y quan niệm: làm thằng đàn ông đi ăn uống với phụ nữ dứt khoát là phải trả tiền. “Bất khả tri” thì được chứ “bất khả chi” là một điều không thể chấp nhận. (Chính cái ý nghĩ nặng nề ấy giết chết y, chứ thật ra cô người yêu kể cũng thuộc dạng biết điều, cô ta muốn chung lưng chia sẻ tiền ăn uống với tình nhân lắm. Khổ là cứ mỗi khi cô ta toan rút ví thì đều bị y lấy cái lưng to cồ cộ chặn lại, đứng chắn giữa cô ta và người bán hàng).

Mà giá cái gì cũng tăng chóng mặt, giời ơi. xưa một ly trà Lipton có 5.000 đồng mà bây giờ lên 12.000. xưa vé xem phim Vincom có 55.000 đồng/ người, giờ vọt lên 70.000 đồng, thêm tiền vé gửi xe bị tương lên 10.000. Mỗi lần giành trả tiền với người yêu, y cố lấy vẻ mặt hào hứng hoặc tệ nhất cũng là lạnh lùng bình thản. Nhưng trong lòng y xót, y đau, và nhất là y buồn, y nhớ. Vốn người hoài cổ, y nhớ tiếc cái thời cấp ba của y, với mối tình đầu. Đó là đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Thời ấy hình như cái gì cũng ngon hơn, rẻ hơn. phở 3.000 đồng/bát. Bánh mì pa-tê 2.000 đồng/cái, bánh mì không nhân 1.000 đồng. Với 10.000 đồng thầy u chu cấp, y và tình nhân đầu tiên có thể lang thang đi chơi khắp Hà Nội cả ngày mà vẫn no đủ. Thời ấy nay còn đâu?

Rồi miên man nhớ cái thời ấy, y lại nhớ đến mối tình đầu của y, thầm chép miệng: “Sao hồi xưa mình trong sáng thế nhỉ?…”. Cô người yêu đi bên cạnh chẳng hiểu quái gì, nhìn y âu yếm. y cũng nhìn cô âu yếm không kém.

Các nhà kinh tế phân tích tình hình sao đó, y không nhớ, nhưng đại ý là thế này: “Thị trường nó lạ lắm nhé, nó tự điều chỉnh được hết. Khi nào lạm phát xảy ra thì dân chúng sẽ tự biết cách thắt lưng buộc bụng, giảm chi tiêu cá nhân đi. Mà nói thật ra lạm phát đây là do dân ta ăn tiêu xa hoa quá đấy, bây giờ phải nhịn miệng đi là đúng rồi, còn cãi gì?”.

Y vốn dân kỹ thuật, chẳng hiểu gì về kinh tế – cái môn khoa học mà y không biết là nên xếp vào xã hội hay tự nhiên nữa. Nhưng y nghe mang máng thế thì cũng tự hiểu: phải biết tiết kiệm chi tiêu. Trong lúc hàng hóa sức lao động của y không lên giá, mà lại vẫn phải đảm bảo “khả chi” mỗi lần đi ăn đi uống với bồ, thì y chỉ còn cách nhịn ăn tiêu ở những chỗ khác.

Giống như giáo Thứ của cụ Nam Cao khi xưa, nay y tự bảo y rằng: y sẽ bỏ cái lệ 10.000 phở mỗi sáng đi. y sẽ tự cắt tóc để khỏi phải ra hàng. y sẽ ít đú với bọn thằng X thằng Z để tránh những lúc hứng đi ăn hàng hay uống nước (trà) chanh.

Tất cả những món tiền ấy, góp lại chẳng đủ cho y và bạn gái đi chơi, uống nước cả tuần đó ư?

 
 

Ngày Tết, lạc quan nói chuyện khủng hoảng

Thế giới và Việt Nam đã và đang chật vật đương đầu với khủng hoảng kinh tế. Ngay ở Mỹ – nền kinh tế lớn nhất, ảnh hưởng của khủng hoảng cũng dữ dội tới mức được sánh ngang với thời kỳ đen tối 1929-1933. Thế nhưng, nói một cách AQ thì “được” trải qua khủng hoảng có lẽ cũng là điều hay…

Cho đến giờ, chúng ta vẫn chưa xác định một cách chính thức là Việt Nam có đang trải qua khủng hoảng kinh tế không, hay chỉ là “chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới”, hay thậm chí khủng hoảng chưa tới. Trong lịch sử kinh tế nước nhà, tới giờ, chỉ mới có thời kỳ 1986 được chính thức ghi nhận là khủng hoảng kinh tế (mà cũng là sau này mới ghi lại, chứ tại thời điểm đó, nó không được đề cập tới như một cuộc khủng hoảng).

Vì thế, nếu coi tình hình kinh tế hiện nay – bão giá, thất nghiệp gia tăng, đầu tư chững lại, xuất khẩu lao đao… – là khủng hoảng, thì đây là cuộc khủng hoảng kinh tế thứ hai được ghi nhận ở Việt Nam. Biến cố hoặc sự kiện xã hội nào lớn và hiếm gặp thì đều mang ý nghĩa lịch sử. Và như vậy, khủng hoảng lần này cũng mang tính lịch sử.

Mượn phép thắng lợi tinh thần của AQ mà nói, thì được sống trong những khoảnh khắc, những ngày tháng lịch sử, âu cũng là một cái may, một cái hay, bất kể sự kiện ấy là tích cực hay tiêu cực.

Tích cực, chẳng hạn như thời khắc cả thế giới bước vào thiên niên kỷ thứ ba. Như khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Như khi đội tuyển Việt Nam chiến thắng Thái Lan để giành ngôi vô địch bóng đá Đông Nam á (AFF Cup 2008).

Tiêu cực, như thời kỳ lạm phát phi mã 1986, tới mức chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Bà Kim Chi, sinh năm 1936, nhà ở khu tập thể “lắp ghép” (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), kể: “Hồi đó, chính tôi chứng kiến một người bán cá tươi, khi ở bên này Cầu Khỉ, rao giá 16 đồng một lạng. Sang bên kia cầu, qua đường Giải phóng, nghĩa là chỉ 10 phút và khoảng hai cây số sau, họ đã nâng giá lên 17 đồng!”. Giá cả tăng không phải theo ngày, mà là theo giờ, thậm chí trên từng cây số.

Hơn 20 năm sau, những ngày tháng bão giá trở lại, kéo dài từ nửa cuối năm 2007 tới gần hết 2008 mới chuyển sang giảm phát.

Bi quan vì khủng hoảng

Năm 2008, lạm phát chưa tới mức ngựa phi, nhưng cũng “đạt” hai con số. Chưa có thống kê con số công ty phá sản, nhưng nhìn Liên doanh Orion – Hanel “xin được chết” sau một thời huy hoàng mà kinh.

Cũng chưa có thống kê chính thức về tỷ lệ thất nghiệp, nhưng cứ trông số nhân viên bị cắt giảm khỏi các công ty tư nhân, và số lượng đơn, email xin tuyển dụng ngập mặt bàn và hộp thư điện tử của các giám đốc nhân sự, đủ thấy tình hình căng thẳng thế nào. anh Tô Tuấn, phó Giám đốc một công ty in ấn ở Hà Nội, cho biết: “Mình là công ty tư nhân, quy mô nhỏ, mỗi lần đăng tuyển trên mạng Vietnamworks. com thường chỉ nhận khoảng 30-40 email phản hồi. Thế mà vừa rồi, chỉ trong một buổi sáng, gần 200 email xin việc gửi về, nghẽn cả mạng”.

Hai tháng cuối năm, nền kinh tế giảm phát. Nhưng giảm phát lại không phải do những nguyên nhân tích cực – như hiện đại hóa công nghệ, chi phí sản xuất giảm; mà do cầu suy giảm – từ nhà sản xuất đến người dân đều tự nguyện và triệt để thi hành “thắt lưng buộc bụng”, và phần nào là hậu quả của chính sách thắt chặt tín dụng và đầu tư.

Và, nói là giảm phát, làm người dân cứ dài cổ chờ đợi những mặt hàng thiết yếu giảm giá. Nhưng đợi mãi, đợi mãi… Đi chợ mua thức ăn, thấy giá cả chỉ lên chứ chưa bao giờ xuống cả. Đến mức nhiều người than vãn: “Hàng hóa gì cũng tăng giá, lương thì không”.

Thật ra điều này dễ hiểu. Với một người nghèo, chi tiêu sẽ dồn vào lương thực thực phẩm là chính. Do người dân tập trung phần lớn thu nhập vào chuyện… ăn, do các bà các chị phải dành một phần lớn thời gian vào việc đi chợ mua thức ăn, cho nên cứ thấy giá cả lên mãi, chứ thật ra ở nhiều lĩnh vực, giá sản phẩm đã và đang giảm (mà họ đâu có biết, nên vẫn cứ bi quan).

Lạc quan từ khủng hoảng

Nói một cách AQ, thì đời người mấy khi được chứng kiến những sự kiện, biến cố quan trọng của xã hội. Mấy khi trải qua những cuộc khủng hoảng kinh tế lớn. Lúc ấy thì khó khăn, chật vật, nhưng sau này nhìn lại, biết đâu chúng ta lại chẳng thấy… vui, nhiều kỷ niệm (đẹp hoặc xấu)?

Và, so với cuộc khủng hoảng đầu tiên (năm 1986), chắc chắn rằng lần này chúng ta có lý do để cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Hơn 20 năm về trước, Việt Nam hãy còn đóng cửa với thế giới bên ngoài. Thông tin – truyền thông không phát triển, vai trò của báo chí nhạt nhòa trong đời sống xã hội. Người dân khi ấy chẳng thể biết “khủng hoảng kinh tế”, “khủng hoảng tài chính toàn cầu” là thế nào, “mở cửa”, “hội nhập” là cái chi. Đương nhiên, hồi đó ta không thể thấy hình ảnh một anh xe ôm vắt vẻo trên xe, một chị bán trà đá thu lu quán cóc, bàn tán với khách qua đường: “Sắp tăng giá điện rồi, thấy tivi hôm qua/ báo sáng nay bảo thế”.

Càng không có chuyện báo chí đưa tin và bài phân tích, bình luận về “gói kích cầu”, “cắt giảm đầu tư công”, “tăng giá điện”, “giảm giá xăng”, chuyên gia kinh tế a nói thế này, Bộ trưởng Bộ x bảo thế kia v.v.

Tóm lại, nhờ thông tin tràn ngập, chúng ta có một cảm giác rằng dường như cả toàn xã hội, từ lãnh đạo cho chí dân thường, đều đang sát cánh bên nhau trong cuộc chiến chống khủng hoảng. Cảm giác này thật khác với thời 1986, khi mỗi cơ quan, mỗi gia đình, thậm chí mỗi cá nhân, đều như những ốc đảo, một mình chiến đấu với lạm phát phi mã, đời sống khó khăn, trong tình trạng không biết “ở trên” đang làm gì, ở ngoài đang làm gì và như thế nào…

Thông tin dồi dào thì đôi khi cũng gây nhiễu loạn. Nhưng thông tin luôn mang lại sự hiểu biết. Đó dù sao cũng là một nét tích cực của cuộc khủng hoảng thời hội nhập này so với lần trước. Để về sau chúng ta có thể nhớ lại nó như một khía cạnh của sự đổi mới và tiến bộ. Cũng như để chúng ta nhìn lại “đêm trước đổi mới” cách đây hơn 20 năm với sự khoan dung và cảm thông hơn, mặc dù những ai đã trải qua thì đều biết thời kỳ ấy khủng khiếp như thế nào.

Còn bây giờ, đầu xuân năm mới, cứ phải lạc quan…

 

Những chàng Z

Câu chuyện tôi kể sau đây có thể khiến một số người trong chúng ta tức giận, chí ít cũng không cảm thấy thoải mái; một số người buồn, thậm chí đau khổ; một số người cười nhạt; một số chẳng hiểu gì. Nhưng dù sao thì tôi cũng cứ kể nhé, và xin chấp nhận mọi phản ứng bằng cảm xúc từ phía người nghe.

Trước khi bắt đầu, có nhẽ cần đôi lời dẫn nhập. xã hội dân sự ở Việt Nam chưa kịp phát triển, nhưng (mẹ khỉ) cái lũ lắm chuyện là bọn viết lách ấy, đã có thú lập hội lập nhóm rồi. Cánh nhà báo luôn bị coi là chiếu dưới trong làng viết, nhưng cũng đú, cũng thích kết thành bè thành phái, bày ra các nhóm nào Dê Trời, nào Vịt Đực, nào Lương Sơn Bạc, nào Châu Chấu, nào Cào Cào v.v.

Hội nhà báo không thẻ, hay là nhà báo tự phong (self- proclaimed journalists) chúng tôi cũng hứng chí lập một nhóm, gọi là Chi Bộ. Các thành viên của Chi Bộ có thói quen gọi nhau bằng các loại mã số, kéo dài suốt từ Z1 cho đến Z131. Nhân vật chính trong câu chuyện tôi kể dưới đây dĩ nhiên có tên riêng, nhưng cho phép tôi gọi anh ta bằng tên chung là Z vì biết đâu anh ta có thể đại diện cho vài người trong chúng ta (tôi hy vọng thế).

Thôi nào, ta bắt đầu kẻo muộn.

Trong làng báo ở xứ Việt kia, có một kẻ tên là Z. Như tuyệt đại đa số nhân vật chính diện trong các tác phẩm văn học của chúng ta, Z rất đẹp trai, thông minh và tốt bụng, nên được người người yêu quý. Đến tuổi vào đại học, Z thi đỗ Học viện Quan hệ Quốc tế. Không hiểu trời đất run rủi thế nào mà khi ra trường, Z trở thành một trong số hàng nghìn phóng viên đang hành nghề trên đất Việt.

Z vốn thông minh, tự biết mình không được đào tạo bài bản về báo chí nên ra sức tự học. Sẵn có chút tiếng anh, lại đá thêm tí tiếng pháp, Z ngày đêm lùng sục tìm các tài liệu về báo chí, hì hụi đọc, dịch, rồi khẩn trương áp dụng vào thực tế. Z những muốn làm cái gì cũng sâu hơn người khác một bậc, cao hơn người khác một trình. Gần một thế kỷ trước, nhà văn Nam Cao đã từng viết thế này, chính là viết về người như Z:

“Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn…”. (26)

Ông tổ nghề báo không hoàn toàn phụ Z. Z cũng làm ra được nhiều tác phẩm có chút ít giá trị, theo nghĩa sạch nước cản và nếu ai đó có xem thì chắc cũng sẽ nhớ được một lúc, vì như đã nói, Z vốn thông minh. Nhưng vấn đề của Z là không có mấy ai xem các tác phẩm của Z cả, tại Z toàn làm cho hết Người Bảo vệ pháp luật, Nông thôn @, Điện Lực, Dầu Khí, Dân chủ Cơ sở, đến mùa World Cup lại làm cộng tác viên đắc lực cho tờ Tin nhanh Nông nghiệp.

Z làm cả truyền hình nữa, hết Mua sắm 24 giờ rồi lại Nông nghiệp 360 độ, thiếu chút nữa làm cả chương trình chống HIV/AIDS với tên gọi “Sex 24×7”. Z đẹp trai là thế, có tài ăn nói, chịu khó chịu khổ lên hình quần quật, thế mà ra ngoài đường vẫn chẳng ai biết Z là ai. Z tự biết mình không tài vượt thiên hạ, khốn nỗi là nhà báo, mà trước hết cũng là một thằng đàn ông, nên Z thấy bức bối lắm. Hội nhà báo của Z cứ mỗi lần họp chi bộ với nhau, quanh đi quẩn lại lại nói chuyện nghề, rồi chỉ một lát là anh em đã thấy Z to tiếng khi nói về các tác phẩm báo chí đoạt giải của những x, những y nào đấy:

– Mẹ, bài đó viết như kít thế mà cũng được giải. Sặc giọng nịnh bợ. Mà nói thật, không nịnh mấy ảnh thì có mà ăn giải rút!

Có hôm Z lại bảo:

– Em Tuyết Hạnh vừa được anh tổng biên tập đôn lên thư ký tòa soạn. Mình làm cùng em ấy hồi trước, mình biết. Khốn nạn, tài em hèn, sức em mọn, được mỗi cái vốn tự có dồi dào, hị…Nó lên là chết anh em ở đó rồi.

Cả đám nhao nhao phản đối:

– Ông khinh người vừa thôi. Hồi trước nó không có năng lực, bây giờ nó có thì sao? Làm sao ông biết được? ông là ông tư duy rất không biện chứng đấy nhá! Ghen tị hả?

Z không cãi lại được, đành chỉ ngồi thở dài. Kể ra chúng nói đúng, Z cũng hơi có phần ghen tị. Càng ngày Z càng thấy mình giống cái nhân vật được Nam Cao mô tả kia. Có chút Tây học vào người, Z làm cái gì cũng muốn đạt tới tầm chuyên nghiệp của nó. Z vốn khinh ghét những tên nhà báo ăn tục nói phét, nhiều khi chỉ có mỗi cái việc là nghe người ta phát biểu rồi chép lại cho đúng mà cũng không nên hồn, tệ hơn nữa còn cố tình dựng chuyện để viết bài theo ý mình. Chính chúng làm xấu mặt những nhà báo trong trắng như Z, khiến Z mang tiếng lây – “nhà văn nói láo, nhà báo nói điêu”. Z cũng khinh luôn, ghét luôn cả cái lũ nhà báo xuống cơ sở vòi tiền trợn mắt, ăn tiền tưởng chết (vì nghẹn). Nhưng Z cũng phải công nhận, chúng có uy thì mới dọa được cơ sở sợ xanh mắt lên mà nôn tiền ra òng ọc như thế. Còn loại lìu tìu “Nông nghiệp 360 độ” như Z, có đi dọa lồi cả mắt cũng chẳng đứa chó nào sợ.

Không biết bao nhiêu lần Z muốn đầu tư công sức để làm ra một cái phóng sự thuộc loại “đỉnh cao khó vượt”, nhưng vấn đề là thời gian và tiền. Ngày nào Z cũng phải có cái tin gì đấy gửi cho tòa soạn, cứ phải chạy đua kịch liệt với thời gian. Z như điên lên vì phải xoay tin. Z còn điên lên vì người yêu cứ nhèo nhẽo, lúc nào cũng “anh đang ở đâu đấy? Tóm lại là anh có đi ăn với em tối nay không, để em còn biết đường mà hẹn người khác?”… không để yên cho Z tập trung làm gì cả. Z như điên lên vì khi xem nhiều tác phẩm của đồng nghiệp, Z biết mình có thể làm tốt hơn, nhưng mất công lắm, mà Z còn lúc nào để làm gì nữa đâu, mà làm có để cho mục đích gì đâu? Tác phẩm Z tâm đắc thì chẳng ai biết tới. Tác phẩm Z đổ huyết đổ lệ đổ tiền túi vào thì không được đăng vì có vấn đề. Z ức, chỉ biết lẩm bẩm: “Mẹ, có vấn đề thì mới nên chuyện mà viết, chứ không vấn đề thì biết viết cái éo gì?”. Trong lúc hậm hực, Z đánh liều gửi bài ra nước ngoài, thì lại thấy được đăng chềnh ềnh trên báo. Và tiền, nỗi đau muôn thuở của Z là tiền. Nhuận bút cộng lại tưởng là khá, nhưng kiếm ra bao nhiêu Z nướng bấy nhiêu vào ăn nhậu với quần chúng ở dưới cơ sở. Trông Z đẹp trai ngời ngời, ăn nói khéo léo, mà đến lúc trả tiền lại chạy làng thì còn ra cái gì. Vậy nên vì quan hệ, Z phải chi khá tiền. Nhục! Z tự an ủi, thôi coi đó như khoản đầu tư, tính toán làm gì. (Mà đấy là Z còn chưa có một gia đình phải nuôi, lại cũng ít phải chi tiền vào khoản trang phục, trang sức, hóa mỹ phẩm… như các đồng nghiệp nữ đấy, không thì còn túng nữa).

Thế rồi Z đổi tính nết dần. Z trở nên cau có, gắt gỏng. Bạn bè bảo Z yêu nghề vừa thôi, stress mẹ nó rồi. Z thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Z nhớ nhung một cái gì rất xa xôi… những mộng đẹp ngày xưa… một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Z lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”. Và Z nghĩ đến cái tên mình đang mờ dần đằng sau những tên khác ở những tòa báo và đài truyền hình “có đất” hơn… rồi Z ra về, thờ thẫn. (27)

Một ngày nọ đi phỏng vấn làm cái tin còi, Z may mắn gặp một người được coi như đại gia trong làng kinh doanh ở Việt Nam (kinh doanh cái gì thì ai cũng biết mà thành ra ai cũng không biết). Z nghe tiếng người này đã lâu, vốn từng mê mẩn nhiều câu nói câu viết của người này, đại khái về giá trị, con người, công bằng xã hội v.v. Mãi lần này đi làm tin mới có cơ gặp, Z thầm cảm ơn nghề báo cho mình tiếp xúc với những thiên tài như thế.

Đại gia quả không hổ danh đại gia, nói chuyện với Z toàn bàn những vấn đề hết sức vĩ mô. Người này có thói quen động tới cái gì cũng phân loại, phân hạng, thành đủ thứ miền, tầng, tỷ như “xét về lĩnh vực thông tin, nguồn tin tốt nhất ở Việt Nam là từ giới lãnh đạo, tốt thứ nhì là từ giới quản lý, tốt thứ ba là từ những người làm nghề, tốt thứ tư mới là bọn nhà báo bẩn thỉu”. Z ngồi nghe, lặng người, rồi bỗng nhớ tới thân phận làm báo của mình mà muốn hỏi đôi câu. Z hỏi:

– Như nhà báo chúng em thì được chia thành mấy loại? Đại gia nheo mắt nhìn Z, rồi bảo:

– Xét về trình độ, anh phân chia các cô các chú thành ba loại. Loại thứ nhất là loại “TRONG VAI”, tức là các nhà báo “trong vai một người có con đi học xa”, “trong vai một người đi mua hàng”, “trong vai một cô gái bán hoa”, tóm lại là trong vai cái chết tiệt gì đấy.

Loại thứ hai là loại nhà báo “CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐÂY?”. Đó là loại bức xúc, có tinh thần đấu tranh, đi đâu cũng thấy hừng hực muốn bút chiến.

Z vốn thông minh, hiểu ý ngay, đế thêm:

– Kiểu như là “Cơ quan chức năng ở đâu mà không vào cuộc?”, “Thiết nghĩ đã đến lúc…”, “Hỡi những người có lương tri”?

Đại gia gật gù:

– Chính xác. Còn loại thứ ba là loại nhà báo “VẤN ĐỀ KINH PHÍ”. Đó là loại quen khề khà: “Vấn đề kinh phí thì ở đâu nó cũng thế thôi anh ạ. Chuyện này phức tạp, đòi hỏi một tiếng nói có trọng lượng, đa chiều, có sức thuyết phục. Mà như thế vấn đề kinh phí cũng bị đội lên…”.

Z nghe đại gia liệt kê xong hết ba loại, đã buồn lại buồn thêm, bèn hỏi:

– Anh, em xin thề với anh là em chưa bao giờ có trong đầu khái niệm “trong vai”, “chúng ta phải làm gì đây”, hay “vấn đề kinh phí”. Như thế thì em là loại gì?

Đại gia cười hềnh hệch mà rằng:

– À ừ, còn chú nữa nhỉ? Chú thuộc loại nhà báo thứ tư mà anh vừa nhận ra. Loại này mới hình thành từ khi báo chí Tây mon men vào thị trường truyền thông Việt Nam, tức là vào khoảng năm 2000. Loại này dính tí hơi Tây, có tố chất để trở thành nhân tài, nhưng cũng có máu làm loạn. Nếu không có sự hỗ trợ từ một hệ thống, loại này chỉ thành giặc, còn tố chất của chúng thì cứ mãi là tố chất, cũng như Việt Nam ta mãi chỉ có nội lực. Đó là LOẠI NHÀ BÁO ĐÉO AI BIẾT ĐẾN!

Z nghe xong, rụng rời lửa đốt. Chỉ trong khoảnh khắc Z ngộ ra tất cả mọi điều – những uẩn khúc, những xót xa, những khúc mắc, những… ẩn ức có trong người từ bao lâu nay. Z quỳ sụp xuống dưới chân đại gia, chắp tay vái lấy vái để:

– Sư phụ ơi, sư phụ ơi… Sao đến giờ con mới gặp Người? Chỉ có sư phụ là nhìn ra vấn đề của con. xin sư phụ nhận của con một lạy này, cho con được tôn Người làm sư phụ!

Đại gia xua tay:

– Đừng làm thế, ta không thích! Z vẫn nức nở không nguôi:

– Sư phụ, sư phụ. xin Người đi làm truyền thông, xin Người mở tạp chí, mở đài TH đi, con xin về đầu quân cho Người, dẫu gan óc lầy đất cũng nguyện một lòng theo Người, không quên ơn Người.

Đại gia cười:

– Anh cũng muốn giúp chú lắm, nhưng anh vốn không ở trong ngành truyền thông, mà ngành của anh thì chú làm gì có chuyên môn mà làm quân của anh. Thôi chú hãy về đi, cứ yên lòng rồi giông tố sẽ qua.

Đại gia lựa lời an ủi mãi, Z mới gạt nước mắt, đứng lên ra về. Từ lúc gặp người ấy, Z mới thực hiểu ra nguồn cơn của mọi vấn đề. Z không giã từ nghề báo, nhưng cũng không còn buồn nữa, thấy lòng nhẹ nhàng hơn hẳn. Z lấy làm biết ơn ông ta lắm.

Thế rồi một thời gian sau, Z nghe nói vị đại gia ấy bị thất sủng, đang trên con đường đi tới sự phá sản. Z sửng sốt, không hiểu sao người này vốn nổi tiếng cơ trí mưu lược, về cuối đời lại điên như thế. Z ngơ ngẩn hồi lâu, rồi cũng chặc lưỡi: “Thôi, may mà mình không về đầu quân cho ổng. âu cũng là cái digital!”.

26. Truyện ngắn “Đời thừa” (1943) của nhà văn Nam Cao (1917-1951)

27. phỏng theo truyện ngắn “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao.

 

Ngày Beatles(1)

Tháng Mười hai. Tháng Mười hai có ngày gì, bạn biết không? Giáng sinh, rồi 12 ngày đêm Hà Nội 1972. Còn nữa, cái ngày mà những người yêu nhạc Beatles coi là “ngày của bọn mình”: 8-12.

Hồi nhỏ, như mọi đứa trẻ thuộc thế hệ 7x, tôi lớn lên giữa một “thế giới âm nhạc”: Nhà không có cassette hay loa, đài gì, nhưng không lo thiếu nhạc, vì hàng xóm tứ phía xung quanh ai cũng rất hào hứng mở nhạc to hết cỡ. Đúng là một sự giao thoa văn hóa quy mô lớn. Các buổi trưa, chiều, tôi thường mò ra ngồi một mình ở máy nước đầu xóm để hưởng cái sự giao thoa văn hóa ấy.

Từ bên phải, cassette nhà này rỉ rả: “Từ ngày yêu em, anh hứa rất nhiều. Hứa rằng cả đời chí yêu mình em”.

Bên trái da diết: “Chiêu Quân nàng ơi, trỗi chi khúc bi ai não nuột, sương chiều nay lạnh buốt…”.

Một nhà khác: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi? Để một mai tôi về làm cát bụi…”.

Cái đài Orionton của một nhà nào đó cố át đi tất cả bằng các giai điệu vui vẻ như “Đường hành quân đi giữa mùa xuân”, và những ca khúc đến giờ không còn mấy ai nhớ, như “Tính tôi thích thể thao” (hình như tác giả là nhạc sĩ Đỗ Nhuận?), hoặc một bài chế giễu thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự: “phố tôi có một anh chàng mặt mũi khôi ngô, hàm răng trắng tinh, mắt thì sáng, mà lại hay cười… anh chàng đẹp trai mà, nhưng ai ngờ chỉ thích ăn chơi…”. (Không hiểu đến giờ, còn ai biết gì về những tác phẩm này không?)

Rồi còn quan họ Bắc Ninh. Dân ca Nam Bộ: “Lý đất đồng”, “ru con”, “Lý con sáo”. Nhạc xanh của Liên xô: “Sông Volga”, “Đôi mắt huyền”, “Cây bạch dương”, “Cây thùy dương”, “Cây liễu”…

Tóm lại, tôi cứ để cho đủ loại nhạc đánh nhau trong đầu. Cho đến một ngày, hình như là năm lớp 2, trong đủ làn điệu âm thanh sôi nổi tứ phía, tôi nghe nổi lên một giai điệu – tuyệt đẹp, bằng một thứ tiếng không ai hiểu được.

(nhạc dạo…) “I get high when I see you go by, my, oh, my…”

Ngay sau đó là một bản khác cũng hay và lạ không kém.

Tôi nhảy từ trên tường xuống đất, chạy băng tới ngôi nhà có thứ âm nhạc đó phát ra. Vốn là một đứa trẻ nhút nhát, nhưng tôi cũng đủ can đảm để lắp bắp hỏi anh hàng xóm, trống ngực đập thình thình: “Bài gì thế ạ?”. anh hàng xóm cởi trần mặc quần đùi, vừa xỉa răng vừa quài tay lấy cho tôi cái vỏ băng cassette, đen sì, trên đó có ảnh chụp vài gương mặt đàn ông, và tên các bài hát. anh không nói một lời (do không biết phát âm tiếng anh), chỉ cho tôi tựa của ca khúc mà chúng tôi đang nghe: “Nichelle”. (Thật ra là “Michelle”, vỏ băng bị in sai, báo hại tôi mãi mấy năm về sau vẫn gọi nó là bài “Nichelle”). (28)

Đó có phải là lần đầu tiên tôi nghe nhạc Beatles? Không chắc, vì sau này tôi còn được nghe nhiều giai điệu Beatles rất quen thuộc, tưởng như tôi đã nghe chúng từ lâu lắm rồi. Nhưng từ lần đó, tôi biết đó là những bài hát tiếng anh, của một ban nhạc tên có chữ B ở đầu. Và tôi bắt đầu thèm được hát những bài đó. phải biết tiếng anh thì mới hát được. Vào thời gian ấy, nhiều trường ở Hà Nội vẫn chỉ dạy tiếng Nga, nên nếu học tiếng anh, nghĩa là tôi phải đạp xe 7 cây số để đi học tại một trường cấp II có dạy tiếng anh. Và không bao lâu sau tôi đã trở thành trùm đi học muộn của lớp. Chẳng sao, tất cả chỉ vì một mong ước rất trẻ con: một ngày nào đó sẽ nghe và hát được lời những ca khúc của cái bọn gì ấy.

Trong suốt thời gian này, anh hàng xóm tiếp tục đầu độc cả khu bằng những sản phẩm độc hại của chủ nghĩa tư bản. anh chỉ có mỗi một băng Beatles thời kỳ 1966 – 1969 ấy thôi, nên tôi cứ liên tục được nghe “Get back”, “Hey Jude”, “Here There and everywhere”, “I Will”, “Let It Be” (thách người nào mới học tiếng anh mà nghe và hiểu được nghĩa của cụm từ này đấy!), “Something”… khoảng gần 30 bài. Mãi về sau này anh mới tiếp tục với các bài hát khác như “put your Hands on My Shoulders”, “you Mean everything to Me”, “We are the World”… Lạ một điều là anh không hề biết tiếng anh, không hiểu vì sao anh lại thích Beatles và nhạc quốc tế đến thế.

May mắn cho tôi là Beatles dùng một thứ tiếng anh đơn giản đến mức tôi không cần phải học đến mấy năm mới hát được những câu đầu tiên. Lớp 7 bắt đầu một quá trình tôi vật lộn với cái cassette nhà hàng xóm để nghe và chép lại các bài rõ tiếng nhất. Bắt đầu một quá trình mượn sổ bài hát của bạn bè để chép các bài hát Beatles với những hàng chữ tiếng anh sai chính tả, sai ngữ pháp nhoe nhoét. Trên vở và giấy nháp, xen giữa những dòng chê bai thầy cô giáo kiểu như “giảng bài như cơm nguội, ghét thế” đã là những từ tiếng anh rất long lanh: “I get high when I see you go by, my, oh, my…”.

Và tôi lớn lên cùng nhạc Beatles…

28. Bài hát có câu mở đầu “I get high when I see you go by, my, oh my…” thật ra là bài “It’s only Love”, một nhạc phẩm Beatles, ra mắt lần đầu năm 1965.

 

Ngày Beatles (2)

Đúng là tôi đã lớn lên cùng Beatles. Tôi đã hát Beatles suốt những buổi trưa mùa đông lạnh, kẽo kẹt đạp xe từ trường về nhà, đi qua hết con phố này đến con phố kia. Đã nghe nhạc Beatles vào những ngày cuối xuân đầu hạ, khi mây trời ánh lên một màu vàng hồng, báo hiệu mùa hè sắp về.

Tôi đã nghe nhạc Beatles vào những đêm Noel trắng, khi sương mờ phủ lên những tán cây xanh thẫm ở Hà Nội. Hay là khi trời chiều đỏ rực, tôi rì rầm hát “across the universe”, “Here, There and everywhere” mà tưởng như có hình bóng Paul McCartney bập bùng guitar giữa những đám mây vàng.

Tôi đã hò hét “Twist and Shout”, “Don’t Let Me Down”… trong những đêm 8-12 năm xưa, trên cái sân đầy cát ở Đại học Tổng hợp. Bụi bốc mù mịt. Sinh viên ôm choàng lấy nhau, ôm luôn cả anh bạn người anh đi cùng tôi, gào thét: “Stand by me”, “Imagine there’s no country” trong một điệu nhảy điên cuồng, để rồi khi về anh bạn hỏi tôi: “Chẳng hiểu sao đến bây giờ thanh niên Việt Nam vẫn còn nhảy disco kiểu thế kỷ 15?”. Tôi chỉ muốn lắc đầu: “Ben thân mến ơi, anh làm sao hiểu được. anh có biết vào những năm 60, thời hoàng kim của Beatles, khi cơn sốt Beatles tràn ngập phương Tây và các chàng trai cô gái anh sống với những giai điệu rực lửa, thì Việt Nam còn đang làm gì và như thế nào không?”.

Tôi đã hát thầm Beatles khi lang thang đi tìm việc. Khi ngồi trên xe khách rời Hà Nội mà nước mắt tự nhiên ứa ra: “Doesn’t have a point of view. Knows not where he’s goin’ to. Isn’t he a bit like you and me?”. Đã rên rỉ: “From this moment on I know exactly where my life would go. Seems like all I really was doing was waiting for you” khi ngồi co ro dưới chân cầu thang, bên một cái ống nước hoen rỉ, chờ Tổng biên tập duyệt đăng bài viết đầu tiên, thực sự của mình.

Nhạc Beatles là thứ âm nhạc cực kỳ trong trẻo, như Mozart của thế kỷ 20. Cái hay của nó chính là ở tinh thần yêu đời, trong sáng và rất đời thường toát ra từ giai điệu, ca từ và cách hòa âm. Sau Beatles, chẳng thiếu gì nghệ sĩ với chất giọng và kỹ thuật biểu diễn hơn hẳn họ, nhưng không một ai có được tinh thần đó nữa. Và họ luôn là người đi đầu, là những nghệ sĩ đổi mới không ngừng. Không cần phải là con nghiện Beat thì mới nhận ra sự khác biệt của Beatles qua từng thời kỳ: ngây thơ như khi mới bắt đầu (1962-1965) với những “Anna”, “Misery”, “Love Me Do”, “please please Me”; nồng nàn và rực lửa như thời 1965-1968 với “It’s Only Love”, “Things We Said Today”, ”You’re Gonna Lose That Girl”; già dặn, phá phách và có màu sắc triết lý, gây ảo giác vào thời kỳ 1968 – 1969 với “Strawberry Fields Forever”, “Lucy in the Sky with Diamonds” (29), “The Inner Light”, “Across The Universe”… Nhạc Beatles đầy sức sống và tràn ngập tình yêu, tưởng như ai đang yêu mà nghe Beatles thì càng yêu mãnh liệt hơn.

“Something in the way she moves
attracts me like no other lovers.
Something in the way she woos me
I don’t want to leave her now…”

Frank Sinatra đánh giá “Something” là “bản tình ca đẹp nhất mọi thời đại”. Không biết nói thế thì có hơi quá không, tuy nhiên với tôi, không từ gì mô tả “Something” thích hợp hơn là “lả lướt và quyến rũ”, đúng là “attracts me like no other lovers”. Đó là thứ nhạc khiến người ta không thể không nhảy múa, nói một cách khác là khiến cho “đá cũng phải nhảy lên”, trong một niềm “vui bất tuyệt”. Đã bao giờ bạn ngồi bất động được khi nghe Beatles hát chưa?

“Close your eyes
and I’ll kiss you
Tomorrow I’ll miss you
remember that I’ll always be true.”

Bạn sẽ muốn ngước mắt lên trời và hòa giọng cùng Beatles: “It only makes me feel sooooo free…”. Bạn sẽ có cảm giác rất muốn sống, rất muốn vươn lên “làm cái gì đó” (cái gì thì chẳng biết nữa), rất muốn sáng tạo, muốn tận hưởng cuộc sống với đủ màu sắc của nó. Nhạc Beatles là thứ âm nhạc, một cách tinh tế, tôn vinh sự sáng tạo. Ngay cả phim của họ cũng vậy, dù ngô nghê như “a Hard Day’s Night” hay trẻ con như “yellow Submarine”. “Chiếc tàu ngầm màu vàng” – câu chuyện về cuộc phiêu lưu “giải cứu thế giới khỏi lũ yêu quái Blue Minies” của bốn chàng trai Beatles – có gợi cho bạn nhớ về cái thời bạn còn thích cầm bút chì, bặm môi vẽ nguệch ngoạc những nhân vật “chẳng ra cái giống gì” trong trí tưởng tượng của bạn?

Băng qua những biển ma quỷ, xứ sở hạt tiêu, trở về quá khứ, dùng âm nhạc đánh tan yêu tinh… dường như không có một giới hạn nào cho sự sáng tạo của trẻ con, và “yellow Submarine” đã tái hiện đúng sự điên rồ ngây thơ ấy.

Người lớn chúng ta liệu có bao giờ còn mong ước:

“I’d like to be under the sea in the octopus’ garden with you.”

Hay là nhìn thấy cô gái có cặp mắt “kính vạn hoa” trên nền trời lấp lánh kim cương. Một ảo giác đầy những hình ảnh rực rỡ sắc màu. Có tờ báo Việt Nam từng đăng bài kêu gọi thanh niên “cảnh giác với các bài hát có thuốc độc”, trong đó “Lucy in the Sky with Diamonds” đứng đầu bảng với cái tên viết tắt thành LSD, và ca từ mô tả cảm giác lâng lâng khi say ma túy. Tôi không hiểu có phải thật như thế, nhưng không quan trọng. Tiếng guitar buồn bã như rơi từng giọt, những hình ảnh mơ màng “ngồi thuyền bồng bềnh trôi trên sông”, “nền trời màu mứt”, “cô gái có ánh nắng trong đôi mắt màu kính vạn hoa”… khiến tôi nghĩ bản thân bài hát này đã là một thứ ma túy rồi.

29. Hai bài “Strawberry Fields Forever” và “Lucy in the Sky with Diamonds” đều được phát hành từ năm 1967, nhưng chất nhạc có những nét giống các ca khúc Beatles giai đoạn 1968-1969 nên tôi đã nhầm lẫn khi xếp loại.

 

Ngày Beatles (3)

Không khác gì một thứ ma túy, có lẽ thế. Khi bạn buồn, bạn làm gì? Đàn ông thì uống rượu, hút thuốc, phụ nữ đi mua sắm, hoặc ăn uống. Vào những năm tháng ấy, cách đây đã rất lâu, khi buồn, khi vui, khi cần cảm hứng, tôi đều nghe nhạc Beatles.

Trước mỗi lần chuẩn bị đi làm tin, nhất là với những vụ hơi khó với mình, tôi sẽ rất muốn dùng một “liều” “Hey Jude”, “Twist and Shout”, “Ticket to ride”… Vì (khổ thế!), sau bao nhiêu năm, sao tôi vẫn còn cái cảm giác ấy khi nghe nhạc Beatles, cái cảm giác muốn vươn lên để làm một điều gì đó…?

Mỗi khi đi viết về (thuật ngữ của hội báo chí là “xuống cơ sở về”), đờ đẫn và thẫn thờ, tôi lại mở máy tính, cắm tai nghe, nhẹ nhàng bật “Things We Said Today”, “There’s a Place”, “I’ve Got a Feeling”… nghe cho thỏa.

Và khi buồn, tôi cũng nghe Beatles, để rồi nhận thấy một điều khủng khiếp: nó chẳng khác gì ma túy hay rượu! Vì nó làm cho người ta hưng phấn lên lúc đó, như một cơn say, để rồi khi tỉnh thì lại buồn. Không bao lâu sau tôi đã phải tự bảo mình: không được, thế này thì hỏng.

Tôi bỏ nghe nhạc Beatles từ đó.

Tháng ba và tháng tư năm 2005. Các bạn yêu nhạc Beatles chắc còn nhớ, có một ban nhạc “giả Beatles” đã tới Việt Nam biểu diễn. Họ là một nhóm nhạc Úc, có tên “The Beatles”. Tối 8-4, họ biểu diễn tại Hà Nội, và tôi tự nhận với sếp rằng mình là người thích hợp nhất ở tòa soạn vào lúc đó để làm một phóng sự về đêm nhạc của The Beatles.

Chúng tôi đến Cung Thể thao Quần Ngựa nửa tiếng trước giờ biểu diễn. Đó là một đêm đầu hè, trời bắt đầu hâm hấp nóng. Làm phóng viên, đưa tin về những sự kiện hoành tráng như liveshow của một diva hay một ca sĩ nổi tiếng thế giới nào đó sang Việt Nam, bao giờ cũng có hứng hơn, dễ hay hơn và nói chung là “oai” hơn. Nên tôi không tránh khỏi chạnh lòng khi nhìn khán phòng lèo tèo vài trăm khán giả, ghế trống huếch trống hoác (trước đó, vụ Beatles sang Việt Nam còn vướng một số vấn đề về khâu tổ chức). Tuy nhiên, ngay lúc đó, trong đầu tôi đã có một ý nghĩ rằng “mình làm bài này là cho chúng mình, những Beatles-lovers, vì chỉ có người yêu nhạc Beatles mới đến cái chốn này”, và ý nghĩ ấy làm tôi phấn khích. (Một niềm tin ngây thơ, nhưng hình như nhiều người trong hội nhà báo luôn cần những thứ như thế làm động lực, và đấy là nguồn gốc cho các bi kịch của những kẻ không bao giờ khôn được. Than ôi, không biết đã và đang có bao nhiêu phóng viên lao vào một “trận chiến” với những suy tư lãng mạn như thế?)

Nhà báo không bao giờ là người trong cuộc mà chỉ là kẻ đứng ngoài ghi chép. Tuy nhiên, họ càng hiểu, càng sống với cái giới mà họ đang theo dõi, thì viết sẽ càng gần với sự thật hơn. Đêm đó là đêm tôi hiểu hơn bao giờ hết điều ấy, bởi vì tôi đã làm phóng sự với tư cách một người yêu nhạc Beatles, sống giữa “giới” Beatles fan. Nhiều người cho rằng nghề vệ sĩ, bảo vệ là khổ, vì trận đấu bóng sôi nổi đang diễn ra thì các “đồng chí” ấy lại phải quay lưng vào sân cỏ mà hướng mặt vào khán giả. Cá nhân tôi cho rằng về mặt này, nhà báo cũng không sung sướng gì hơn. Trong lúc tất cả mọi người đều đang say sưa thưởng thức âm nhạc của các nghệ sĩ (hoặc ít nhất cũng tỏ ra là như thế), thì làm phóng viên, nghĩa là bạn phải vừa nghe và xem biểu diễn, vừa ghi nhớ thông tin, vừa quan sát khán giả để hiểu phản ứng của họ, và rình rình phỏng vấn… Cứ khi nào bạn thấy một anh chàng không ngồi mà đứng khoanh tay, ngay sát sân khấu, mắt liếc ngang liếc dọc, rất có thể anh chàng ấy là nhà báo đấy.

Nhưng đêm đó, nhạc vừa nổi lên được 5 phút, tôi đã quên khuấy mất mình là cán bộ, và xông luôn vào đám đông quần chúng nhảy múa điên cuồng. Và tôi sung sướng, sung sướng vì chưa bao giờ mình đi làm tin mà hiểu “cái giới ấy” đến thế, vì chưa bao giờ mình đi làm tin mà thoải mái và “phê” đến thế. Không có gì phải ghi nhớ, vì tất cả đã ngay lập tức “chui” luôn vào đầu tôi. “I Saw Her Standing There”, “It’s Only Love”, “If I Fell”, “Penny Lane”, “All You Need Is Love”, “All My Loving”, “I Wanna Be Your Man”… Ba chục bài hát mà tôi đã từng nghe không biết bao nhiêu lần những năm xưa. Từng nốt nhạc, từng nhịp trống, từng lời hát… tôi có thể hiểu ngay lập tức The Beatles giống và khác The Beatles như thế nào. Ban nhạc Úc này đã bắt chước đến cả giọng nói của The Beatles, giọng Liverpool đặc sệt. (Để hiểu sự khác nhau giữa tiếng Anh Liverpool và tiếng Anh London, bạn hãy thử so sánh tiếng Nghệ An với tiếng Hà Nội – cái này hoàn toàn không có ý phân biệt địa phương). Nên chúng tôi nhanh chóng bỏ qua những đoạn quảng cáo quá lố:

– John (hỏi Paul): Chào Paul, anh đến Việt Nam bằng phương tiện gì thế?

– Paul: Chào John. Tôi đi bằng máy bay của Vietnam Airlines. Tuuuuu tuuuuuuuu…

Nhưng ngay cả lúc đang “twist and shout” thật lực, tôi vẫn cảm thấy một điều gì đó rất khó diễn tả. Người ta nói rằng khi nào ký ức lướt qua trong đầu như một cuốn phim, đó là khi ta sắp chết. Hình như chuyện này xảy ra thường xuyên với dân làm truyền hình và điện ảnh. Hai giờ đồng hồ, ba chục bài hát, như một hành trình dẫn tôi đi ngược trở lại với quá khứ.

“Someday when I’m lonely, wishing you weren’t so far away
Then I will remember things we said today…”.

Sao tôi nhớ ngày mới đi làm báo, tôi viết mail thông báo cho anh bạn người anh ở London, và nhận được một e-mail trả lời mà nếu anh ta không phải người nước ngoài, chắc là tôi sẽ muốn trừng mắt lên… mắng thẳng vào màn hình: “Này, anh xỏ tôi đấy à?”. e-mail đầy những từ hân hoan, vui mừng chúc tụng: “Chúc mừng bạn đã gia nhập hàng ngũ những người mà tiêu chí cao nhất cho đạo đức của họ là nói sự thật. Chúc mừng bạn đã trở thành một thành viên trong lực lượng quyền lực thứ tư. Hãy dùng khả năng viết của bạn vào việc góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam khác…”. Sau này, thỉnh thoảng tôi vẫn mở cái e-mail ấy ra xem lại và nhe răng cười.

“Doesn’t have a point of view
Knows not where he’s goin’ to
Isn’t he a bit like you and me?”.

Sao tôi nhớ những lúc ngồi vạ vật chờ đợi: chờ nhân vật xuất hiện, chờ phỏng vấn, chờ duyệt bài. Những lúc lang thang giữa đám đông hàng trăm người mà cảm thấy hình như chỉ có mỗi mình mình, bé nhỏ và ngơ ngác, không thuộc về nơi nào cả – “knows not where he’s goin’ to”. Lang thang vô định như bất kỳ một nowhere man nào.

“And anytime you feel the pain, hey Jude, refrain, don’t carry the world upon your shoulders…”.

Có phải tôi đang như thế không, đang “mang cả thế giới trên vai mình”? Hình như lúc đó tôi đã ôm mặt mấy phút, vẫn nghe những giai điệu rực sáng của Beatles xói vào tai. Chúng như gợi lại một cái gì rất xa, hay là đã mất. Chúng tôi đã mơ, chúng tôi đã sống, với đầy những mong ước và ảo tưởng như thế đấy, sống bằng lòng nhiệt tình – nhiệt tình như trái tim của bất kỳ người nào yêu nhạc “Beatles”…

Mãi cho đến khi cậu đồng nghiệp quay phim đứng sau lưng giật áo tôi, hỏi rất to để át tiếng nhạc:

– Chị, có định phỏng vấn không?

– Có, có chứ.

À nhỉ. Mình quên mất. Những hình ảnh vụt tắt và tôi nhớ ra việc cần phải làm, rằng phải chuẩn bị phỏng vấn, phải mang hình về dựng ngay trong đêm, vì ngày mai là giỗ 49 ngày bố mình rồi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mệt mỏi vì nhiệm vụ phỏng vấn như lúc ấy. phóng viên và quay phim mở túi, lôi micro ra, lủi thủi đứa cầm mic đi trước, đứa vác máy theo sau.

Đưa mắt nhìn quanh, đầu óc bắt đầu tính xem vị trí nào là thích hợp để chặn được một thành viên của The Beatles, nên phỏng vấn anh nào trong bốn anh, nên hỏi những câu gì, nên tóm khán giả nào trong đám khán giả…

Tôi chọn Neil Rankin, người đóng giả tay trống Ringo Starr, và không khó để có một cuộc phỏng vấn “độc quyền”, đơn giản vì chẳng có phóng viên nào ở đó. (Các câu hỏi được sắp xếp không theo thứ tự thực tế.)

– Các anh làm nghề gì?

– Tôi là giáo viên, “John” làm nghề thiết kế web…

– Anh nghĩ thế nào khi làm bản sao của The Beatles? (Tôi nhấn mạnh từ “replica” – bản sao, để xem “chúng nó” có biết nhục không).

– Tôi thấy hạnh phúc, vì được làm công việc mình yêu thích, vì được sống với niềm đam mê nhạc Beatles của mình, vì được mọi người yêu quý…

Tôi những muốn cúi đầu xuống và văng tục: “Tổ sư sướng thế!” Nhưng anh ta nói đúng, sao lại phải chịu sức ép “nhục, đồ bắt chước, không sáng tạo”? Hình như hạnh phúc đến với họ cũng dễ, cứ làm việc gì mình thích là được. “Ringo giả” không biết rằng anh ta đã làm tôi ghen tị.

Như tôi đã từng ghen tị, nhiều lần trong đời.

 

Lá cờ thêu 6 chữ vàng

Hôm nọ họp chi bộ, có đồng chí nhắc nhở mình: “Khẩn trương đọc giúp tôi tài liệu mang mã số AT275. Dẹp hết mọi định kiến nhá, cứ đọc thôi. Đồng chí bây giờ thì còn thích được cái gì nữa”.

Ớ ra một lúc rồi mới tặc lưỡi, nhà ấy nói đúng, đã lâu tôi chẳng còn cảm giác thích cái gì đến phát điên lên. Giống cái chuyện ngồi xem phim, trong khi mọi người cười nghiêng ngả thì tôi tay chống cằm, mặt cau có nhìn màn ảnh. Hết phim, cả rạp đứng lên ra về, còn tôi vẫn ngồi yên lặng, trầm ngâm cho đến khi có một bàn tay vỗ mạnh vào vai: “Dậy!”. Buồn thật, mình đứt dây thần kinh thích thưởng thức rồi.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là sở thích của tôi không mang tính đại chúng, có thể khẳng định dứt khoát là như thế. Trên thực tế, cuộc họp chi bộ diễn ra thật sôi nổi và chúng tôi đã tìm ra được một công thức để đưa nền xuất bản của Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, với thật nhiều tác phẩm bét-xen-lờ.

Sau đây tôi xin vui mừng tiết lộ công thức để làm sách bét-xen-lờ. Chúng tôi gọi nó là “lá cờ thêu 5 chữ vàng”, bởi nó gồm có 5 từ mà các nhà xuất bản, nhà sách, soạn giả, dịch giả, biên tập viên, nhân viên marketing v.v. (tóm lại là giới làm sách) nên ngay lập tức ghi vào vạt áo cho nhớ. Công thức được đưa ra dựa trên kết quả một cuộc khảo sát nghiêm túc thị trường sách Việt Nam và các cuốn bét-xen-lờ. Nó cho thấy, tựa đề của tác phẩm muốn trở thành bét-xen-lờ phải có ít nhất 1 trong 5 “từ khóa” sau đây:

  • § Tình (Chuyện tình New York; Tình ơi là tình)
  • § Đĩ (Xin lỗi, em chỉ là con đĩ)
  • § Đàn bà (I am đàn bà)
  • § Yêu (Lê Vân yêu và sống)
  • § Thương (Oxford thương yêu)

Áp dụng công thức này, ngay sau đây chúng tôi sẽ đưa ra một tựa đề đảm bảo ăn khách, coi như ấn định sẵn tít sách, chỉ còn chờ người viết hộ cho cái nội dung bên trong. ai có nhã ý viết, xin liên hệ ngay với tôi. Tựa đề tác phẩm (chắc chắn là bét-xen-lờ) đó như sau:

* Chuyện tình của người đàn bà yêu thương con đĩ ấy, mình quên, còn một tác phẩm nữa cũng được bán rất chạy trong năm 2006-2007, là cuốn Thế giới phẳng. Chạy đến nỗi cụm từ “Thế giới phẳng” đã trở thành một thuật ngữ rất được ưa dùng. Vậy là ta phải sửa thêm một chút nữa vào tựa đề cuốn sách would-be-bestseller nói trên, thành ra:

* Chuyện tình của người đàn bà phẳng yêu thương con đĩ, hoặc

* Chuyện tình của người đàn bà yêu thương con đĩ phẳng

Đầu bài là như thế ạ. Bây giờ ai muốn viết sách bét-xen-lờ thì xin vui lòng liên hệ với tôi. Không liên hệ qua điện thoại di động. Bản thảo không sex, nhầm, không đạt không trả lại.

 

Văn hóa đọc và văn hóa nghe nhìn

“Gần đây có một bộ phận dư luận cho rằng văn hóa đọc ở Việt Nam đang bị văn hóa nghe – nhìn lấn át. Tôi hết sức phản đối luận điểm ấy. Nói thế nào nhỉ… tôi… tôi nghĩ thật ra chẳng có cái văn hóa quái nào ở ta phát triển cả”. (trích một ý kiến)

Chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng giao thoa giữa văn hóa đọc và văn hóa nghe – nhìn, đó là khi cơn sốt Chuyện tình New York và bộ đĩa CD đi kèm bùng phát. Sự kiện này không hiểu sao lại làm tôi nghĩ nhiều đến văn hóa nghe – nhìn, rồi đến những ngày còn gù lưng toét mắt vì tập đàn guitar. Có học mới thấy mình thiếu giáo dục đến mức nào. Nhiều hôm thầy trò đánh vật, ông nghệ sĩ già cáu kỉnh quát:

– Giời ơi, đàn thế ààààà, hả, hả? Khổ quá, cháu chẳng hiểu gì Chopin cả!

Tôi phải cố kiềm cái tính lố bịch để không chọc lại:

– Khổ quá, bác chẳng hiểu gì cháu cả!

Lần khác bác cháu lại vò đầu bứt tai với một bản Adagio mà theo bác là kiệt tác, còn theo tôi là rất khó nghe. Giai điệu của nó, tôi thấy cứ hết lên lại xuống, hết xuống lại lên, đến mệt. Đánh nát cả tay mà tiếng đàn vẫn tách biệt như thả gạch xuống gỗ (tục gọi là “đóng cọc”), tôi thú nhận: “Cháu chịu thôi, cháu không mê nổi cái bài này” (lẽ ra nên dùng từ đúng hơn để bác khỏi tủi: không cảm nổi bản nhạc này). Bác thương tình an ủi: “Thôi, không sao, phải là người từng trải mới chơi được cháu ạ”. Tôi miệng thì vâng dạ, trong bụng nghĩ thầm: “Chơi đàn thì liên quan quái gì đến chuyện người ta có từng trải hay không”. phải rất lâu sau này tôi mới hiểu được rằng bác nói đúng.

… Một đêm nhạc guitar. Người nghệ sĩ già biểu diễn đúng bản adagio mà tôi đã tập ngày nào.

Từng giọt nhạc rơi rơi. Khán phòng tối thẫm, chỉ có một khoảng sáng đọng lại ở trên sân khấu nơi ông ngồi ôm đàn.

Khoan, từ từ, đoạn này để mình dùng ngôn ngữ của nhà báo để tả: Mái tóc bạc cúi xuống trên phím đàn. rưng rưng, rưng rưng… Có cô bạn trẻ thốt lên: “Hay quá! Lâu lắm không được nghe bản nhạc nào hay như thế!”. Dường như phần tinh túy của mỗi bản nhạc được hòa trộn giữa tài năng và giây phút của những xúc cảm thăng hoa. Đã không còn hình ảnh của người nghệ – sĩ – biểu – diễn, mà chỉ còn tiếng đàn hòa với tiếng lòng… Những cảm xúc. Những trải nghiệm…

Phía sau lưng tôi, mấy cái ghế chợt cọt… kẹt… cọt… kẹt… Các thanh niên ngồi trên ấy đang cựa mình, chắc mỏi quá. rồi một giọng nam trung nổi lên vang dội ngay trên đầu tôi – một thanh niên trong số đó đã vươn người đứng dậy:

– Mẹ, nhạc đéo gì mà cứ phập phà phập phù thế nhể?

Tôi cắn chặt môi để khỏi cười phá lên. Sau tiếng cười bị ép phải trở thành tiếng khùng khục. phập phù, chà, thật không còn từ nào mô tả đúng hơn. Bác thấy chưa, bác cứ nói bản Adagio ấy là kiệt tác đi, thanh niên chúng cháu chỉ tóm lại bằng bốn từ “phập phà phập phù” là xong, đâu cần phải vật vã.

Hết chương trình, tôi ra về. Vừa đi tôi vừa nghĩ xem nên viết về buổi biểu diễn âm nhạc này thế nào. Tôi mở máy tính, vào mạng và thấy đồng nghiệp đã kịp chăng một cái tít to tổ chảng trên báo điện tử: “Đêm nhạc hội guitar – ngọn lửa tình yêu guitar rực cháy”.

 

Không dốt vì quá dốt

Đi xem “Cây Sáo Thần” công diễn lại, chúng tôi hân hạnh được là hai trong số hai chục khán giả Việt Nam có mặt trong Nhà Hát Lớn tối hôm đó. Hai chục là làm tròn, thật ra tôi đếm được có 14 người “có vẻ Việt” trên cả ba tầng, còn lại khán phòng Nhà Hát Nhớn đêm ấy tinh Tây là Tây. Giờ nghỉ giải lao, trước mắt tôi không còn một bóng Việt. Cay nhất là lúc nhân vật Papageno chạy từ dưới ghế của khán giả lên sân khấu: Đèn bật sáng chiếu vào Papageno đang lom khom chạy lên, chiếu rõ mồn một luôn cả một nữ khán giả Việt Nam cũng đang lom khom chạy ngược chiều với Papageno để ra cửa exit. Con mụ người Pháp (chắc thế) ngồi cạnh tôi nhìn thấy hình ảnh ấy bèn cười lên rinh rích.

Tuy thế, khán giả rặt là Tây thì cũng có cái hay, khi vở diễn kết thúc, họ cũng biết vỗ tay và huýt sáo tương đối lâu rồi mới ra về.

Không trách khán giả Việt Nam được, không bao giờ trách được. Trong mọi tình huống, thú vị nhất, sướng mồm nhất vẫn là đổ tiệt lỗi cho nền giáo dục của ta, nói sâu xa là do xã hội, nói sâu sắc là do cơ chế. Có bao giờ chúng ta được thưởng thức những tiết học âm nhạc mà làm chúng ta muốn đàn, muốn hát đến độ “đá cũng phải nhảy lên”? Có bao giờ trong tiết họa, chúng ta bị thôi thúc phải cầm lấy cọ vẽ và bảng màu đến độ không vẽ không chịu nổi? Đã giáo viên nào làm cho chúng ta hiểu được, dù chỉ rất mơ hồ, về cái đẹp – cái đẹp của âm nhạc, của vật lý, của toán học, của ngôn ngữ?

Không trách khán giả được. Câu chuyện về “taste of beauty” (không biết nên dịch sang tiếng Việt là gì – thị hiếu, hay khiếu thưởng thức?) đã làm khổ chúng tôi trong rất nhiều trường hợp. Có những lúc bị đẩy vào thế phải quyết định: “Như thế có phải là hay, là đẹp không?”, tôi cảm thấy thật sự lúng túng. Còn nhớ hôm đi làm phóng sự về “lần đầu tiên công diễn Cây Sáo Thần ở Việt Nam” (tháng 9 năm 2006), tôi nhận yêu cầu đi quay đột ngột từ sếp. anh biết tôi đã học guitar cổ điển và luôn tỏ ra là người thích âm nhạc, nhưng không hiểu sếp có biết lúc đó trong tôi có một nỗi sợ không? Sợ – sợ không hiểu gì, không thấy hay, không cảm nhận nổi cái đẹp của opera, không biết phải nói gì trong 5 phút phóng sự. Kinh nhất là khi không biết mà vẫn phải viết/nói về nó, phóng viên rất có nguy cơ tán nhảm.

Một nhà báo nước ngoài mà nghe tôi thú nhận “30 tuổi mới lần đầu tiên đi xem opera”, chắc phải thấy sửng sốt hoặc thương hại lắm. Không kịp ăn tối, chỉ còn nửa giờ để đi xe từ cơ quan lên Nhà Hát Lớn, tôi vừa nói chuyện với cậu quay phim (cái đó gọi là “trao đổi công việc”), vừa cố trấn tĩnh, không để cậu ta biết mình đang run vì đói quá và vì sợ quá.

– Lát nữa quay cho chị, em cố… cố… (nghĩ một lúc không biết diễn đạt ra sao)… Cố gắng nếu cắt cảnh, đừng có cắt lúc bọn nó đang ngân “o, o, o” nhé. Chờ nó ngân hết câu hãy cắt.

– Được rồi, chị.

– À, với lại… nghe bảo là vở này đầu tư công phu lắm, lát nữa đặc tả giúp chị mấy cái trang phục, thiết kế sân khấu của nó. Kim tuyến, lông chim gì cũng được.

Thực tế không như thế, trang phục của các diễn viên trong vở opera này rất đỗi bình thường. Thiết kế sân khấu thì chắc chắn là khá nhất từ ngày đình chiến đến nay, đơn giản vì đây là vở opera đầu tiên trên sân khấu Việt Nam kể từ hồi đó tới giờ. phần âm nhạc, cụ Mozart sáng tác nói chung dễ nghe nên tôi cũng thấy phê phê là. May đấy, chứ cụ mà lại “táng” toàn những giai điệu kiểu như bản adagio của Handel thì chắc là người phóng viên trong tôi cũng phải bật khóc.

Tôi – gần ba xịch, học guitar cổ điển 5 năm (khoe thô tí), từng được/bị giao viết về văn hóa nhiều lần – mà còn xôi thịt thế, lấy tư cách gì mà chê những khán giả trẻ măng, tóc nhuộm vàng xuộm, miệng hát ngân nga: “Không đau vì quá đau”, “ngay cả bạn của anh em cũng không chừa”… Tôi không trách phóng viên đã nhiệt tình phê bình: “Hát opera mà không dùng micro, tệ quá, khán giả sao mà nghe được”. Một phóng viên khác lại viết: “Tiếp sau đợt công diễn ở Hà Nội, đoàn sẽ đưa Cây Sáo Thần đến với công chúng tại khắp các tỉnh thành trong cả nước”.

Đấy là lần công diễn đầu. Đến lần hai thì không còn một bóng báo, đài nào trong nhà hát, số khán giả Việt Nam lên tới những gần hai chục, làm tôi có lúc cứ tưởng như mình đang ở trong một dạ hội phương Tây.

Và cả bây giờ nữa. Mỗi khi buộc phải ra quyết định “như thế có phải là hay là đẹp không?”, chúng tôi lại lúng túng, khổ sở. Bởi vì chúng tôi không biết. Chúng tôi không ở trong một môi trường có thẩm mỹ hoặc được hướng dẫn về thẩm mỹ, thẩm âm, thẩm vân vân… Chúng tôi chỉ có thể phán một cách rất cảm tính “thik cái này, hehe”, “hem thik cái kia, hix hix…”, hoặc trừu tượng hơn một chút thì “well, trông nó (bức tranh chẳng hạn) có cái gì đó chưa ổn, hơi thiếu tính liên kết”. (Các nhà báo kiêm phê bình nghệ thuật là vô địch về những kiểu nhận xét như thế). Đôi khi tôi muốn kêu lên: “Tôi không thể viết được, vì tôi chẳng hiểu cái quái gì cả. Tôi không quyết định được, vì tôi mù tịt và tôi ghét nói phét! Nhưng đó có hoàn toàn là lỗi của chúng tôi không?”.

Thiếu tính liên kết! phải nói là rất thiếu tính liên kết!

 

Sức ép lên những người anh hùng

Người ta cứ hay nói mấy cô chú teen là “đang ở độ tuổi thèm thần tượng”, nhưng tôi nghĩ hình như con người dù ở tuổi nào cũng đều có nhu cầu có thần tượng, không cứ thế hệ trẻ. Thần tượng của mỗi người có thể khác nhau, nhưng nhìn chung đều chia sẻ một số đặc điểm: anh hùng (can đảm), tài ba (thông minh, học giỏi, nhiều sáng kiến), và trẻ đẹp. Chính vì thế mà trong những nhóm người có khả năng trở thành thần tượng của xã hội thì các anh hùng trong chiến tranh là một nhóm ứng cử viên quan trọng.

Chiến tranh là khoảng thời gian khắc nghiệt của xã hội, hay nói một cách văn học thì đó là “hoàn cảnh điển hình để các cá nhân bộc lộ con người mình” – ai sợ chết, ai không sợ chết đều lộ ra cả. Vì vậy, các anh hùng trong chiến tranh dĩ nhiên là đạt được phẩm chất đầu tiên: can đảm. Nếu không thì, ngoài họ, còn ai dám hy sinh cho cách mạng?

Tương tự, chiến tranh cũng là khoảng thời gian đòi hỏi người ta phải thông minh, tuy rằng kiểu thông minh có thể khác thời bình (hơi khác hay là rất khác thì tôi không rõ, nhưng chắc chắn là phải khác). Các anh hùng nhiều khả năng là đều đáp ứng được điều kiện thứ hai. Người có khả năng cãi nhau tay đôi với mật thám pháp. Người có tài nhại tiếng động vật – chó, mèo, hổ, báo, sư tử… như một giao liên nào đó (tôi quên tên). Người giỏi võ như anh Hồng Quang (30). Người lại hát hay thêu đẹp như chị Võ Thị Sáu…

Riêng phẩm chất thứ ba thì có một chút lấn cấn: trẻ đẹp.

Dường như trong vô thức, tất cả chúng ta đều mặc định anh hùng là phải trẻ đẹp. Có hình ảnh nào lãng mạn cho bằng hình ảnh Triệu Tử Long mặt trắng môi đỏ tả xung hữu đột giữa trận tiền? Hình ảnh em gái hậu phương đứng như quê hương trong cánh rừng ào ào lá đỏ, bụi Trường Sơn nhòa trời lửa? Hình ảnh Nguyễn Viết xuân đứng thẳng, đôi mắt như lửa sôi, với câu nói bất hủ: “Nhằm thẳng quân thù, bắn!”? v.v. Chúng ta thèm được thấy họ đẹp, đẹp rực rỡ như mặt trời trên chiến trận. Chúng ta thèm được thấy Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Khương, Tư phùng (tức chị Sứ), Võ Thị Sáu đẹp sắc sảo, mặn mà, duyên dáng biết bao.

Trước tình hình đó, trước nhu cầu đó, các cây viết, đặc biệt là nhà báo – những “thư ký của thời đại”, “thư ký của lịch sử” như thời đại và lịch sử vẫn tôn vinh – không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải làm đẹp cho các anh hùng anh thư. Không tin bạn cứ mở những bài báo viết về thương binh liệt sĩ ra thì sẽ thấy: Trăm phần trăm những người anh hùng đều có đôi mắt trong, gương mặt hiền lành, nụ cười đôn hậu v.v. Các nữ anh hùng, nếu sinh ra ở miền biển, sẽ có làn tóc dài mượt, làn da mặn mòi rám nắng và nét cười đằm thắm. Nếu sinh ra trên núi, các chị sẽ có nước da trắng như trứng gà bóc, đôi môi hồng đào, giọng hát trong veo của chim sơn ca v.v.

Thực tế nhiều khi chẳng chiều “lòng người đọc ý nhà báo” gì cả.

Có bữa ngồi tán phét với mấy người bạn về chủ đề làm phim tài liệu lịch sử, tôi càu nhàu: “Sao có mỗi Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Trỗi với Nguyễn Viết xuân là đẹp trai nhỉ?”. Đám bạn mắng cho một trận: “Điên à? Đẹp thì người ta đã đi thi hoa hậu, ai làm cách mạng cho mày?”.

Thì biết thế rồi, đã hẳn rồi, mình có nói gì quá đáng đâu. Nhưng tôi vẫn cứ… tiêng tiếc, vẫn cứ thèm được thấy các liệt sĩ đẹp ngời ngời như cách chúng ta được hướng dẫn để hình dung về họ. Suy cho cùng đó là một thứ áp lực, một gánh nặng, một sức ép đè lên những người anh hùng của chúng ta. Cuộc sống mãi mãi là như thế.

30. Hồng Quang, tên thật là Nguyễn Văn Trạch, sinh viên Đại học Luật Hà Nội, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động cách mạng và làm liên lạc cho xứ ủy Bắc Kỳ những năm 1939-1940, bị bắt và hy sinh trong nhà lao Hải Dương vào ngày 6 tháng 7 năm 1941. Tại Hải Dương ngày nay, có đường Hồng Quang, cầu Hồng Quang và một ngôi trường mang tên Hồng Quang.

 

Lý thuyết trò chơi trong chuyện Vàng Anh

Mấy hôm nay, cứ ló đầu vào YM (31) là tôi nhận được message (32): “Mọi người ơi đừng phát tán clip của Thùy Linh (33) nữa nhé”, “Hãy ở bên Thùy Linh trong lúc này”, nghiêm khắc hơn một chút thì là: “Bọn nhà báo súc vật, hãy biết học làm người trước khi làm báo”, v. v…

Chuyện này đã được đào xới kỹ trong cộng đồng blog, nhiều người cũng phát biểu quan điểm rồi. Bây giờ tôi xin phép thử áp dụng một lý thuyết rất nổi tiếng trong kinh tế học – Game Theory (Lý thuyết Trò chơi) – vào chuyện phát tán clip sex của T.L.

Giả sử có bạn và tất cả những người còn lại, gọi chung là “mọi người”. Bạn và mọi người có hai lựa chọn, là phát tán hoặc không phát tán clip đó. (Hành động phát tán được hiểu là gửi file đó cho [một] người khác và/hoặc cho [một] người khác xem file đó). Các điều kiện khác đều bình thường, loại bỏ tất cả các tình huống bất thường như: bạn là họ hàng ruột thịt của T.L., bạn không ở độ tuổi quan tâm đến lĩnh vực này, bạn có cái thú tích trữ các đoạn phim sex để âm thầm xem một mình và tưởng tượng như chỉ có mình bạn sở hữu nhân vật trong phim, không thể chia sẻ người tình trong mộng với bất cứ ai…

Với tất cả những điều kiện bình thường đó, chúng ta có bốn trường hợp:

– Trường hợp 1: Mọi người đều phát tán file, và bạn không phát tán. Thì rõ là việc bạn không phát tán chẳng có ý nghĩa gì, đằng nào thì T.L. cũng đã thân bại danh liệt rồi.

– Trường hợp 2: Mọi người đều phát tán file, và bạn cũng thế. Thì việc bạn gửi cho vài người 1 file hình có dung lượng 7M chẳng ảnh hưởng gì đáng kể đến hệ thống mạng nói chung, cũng như không làm hại thêm bao nhiêu danh phận của T.L.

– Trường hợp 3: Mọi người không phát tán file, và bạn phát tán. Điều đó chứng tỏ: bạn chính là thủ phạm tung file này lên mạng, hoặc bạn là một trong những người đầu tiên mà thủ phạm gửi file này, rất có thể là kèm theo lời nhờ vả “gửi cho ai thì gửi, cho nó chết… mẹ nó đi”. Và vì là bạn thân của thủ phạm và được nhờ vả, nên bạn sẽ phát tán file đó, hoặc bạn sẽ suy nghĩ như trường hợp 1 và 2.

– Trường hợp 4: Bạn và mọi người không ai phát tán file. Điều đó chỉ có thể có khi: file đó không tồn tại, hoặc pháp luật có quy định những hình thức phạt cực kỳ thảm khốc cho hành động phát tán file phim sex (khoét mắt, chặt tay, v. v…), và pháp luật rất nghiêm minh (nghĩa là có hiệu lực đàng hoàng, chứ không phải có luật mà không ai thi hành). Cái giá phải trả quá đắt so với cảm giác thoải mái bạn có được khi chia sẻ file đó với người khác, dẫn đến không ai dám phạm luật.

Trường hợp 4 này rất ít khả năng xảy ra ở Việt Nam. Các trường hợp 1, 2, 3 khả dĩ hơn. Tóm lại, điều tôi muốn nói ở đây là: Trong mọi trường hợp, một người bình thường sẽ luôn có xu hướng phát tán file phim sex của T.L.

Nào, bây giờ ta hãy tự vấn lương tâm xem có đúng mình đã “chia sẻ” file đó cho ít nhất một người khác không nào. Đúng là phải học làm người trước khi làm báo cũng như làm bất cứ cái gì khác, có điều đã là người thì chắc chắn chúng ta sẽ hành xử như trên thôi.

Tôi còn nghĩ tới một chuyện khác nhân việc nhận được các message nói trên. Không rõ độc giả, khán/thính giả (sau đây xin gọi chung là audiences) Việt Nam chính chuyên từ bao giờ thế nhỉ? Hồi mới bước chân vào nghề báo, tôi và một cô bạn có lần bị “sếp” dập cho một trận tơi bời vì cái tội “coi thường” độc giả, lý do đơn giản bởi chúng tôi khó chịu nhận thấy trong danh sách các bài được đọc nhiều nhất trên báo điện tử, Top 10 bao giờ cũng rơi vào những tác phẩm mang những cái tít như “Nổ mông Britney Spears” hay là “Madonna lại khỏa thân lần nữa?” (sự thực của câu chuyện là ở đâu đó trên thế giới, người ta phát hành bộ tem Madonna khỏa thân). Có những bài gần như chắc chắn 100% là sẽ vào “top hit”, ngay từ khi đang viết: “Cảnh diễn viên tắm suối trong phim “Lục Vân Tiên” bị tung lên mạng”…

Thật ra đó không phải đặc thù của audiences Việt Nam mà là đặc điểm chung của audiences toàn thế giới. Trong lý thuyết báo chí, “Tây” họ dạy: một trong những yếu tố làm nên sức hút của tin tức là titillation component, nghĩa là tin đó chứa “yếu tố kích dục”. yếu tố kích dục không nhất thiết phải là sex, hoàn toàn và trực tiếp, mà có thể chỉ liên quan xa gần. Ví dụ (ví dụ thôi nhá), tôi có những bài viết đặt tít thế này chẳng hạn: “Công an quận Đống Đa vây bắt hơn trăm gái mại dâm”, hay “Thời trang áo tắm 2007: hai mảnh lên ngôi”. Tôi linh cảm rằng những bài đó sẽ được nhiều người đọc.

Vụ Thùy Linh vừa rồi cũng vậy. Tôi lại cũng có linh cảm mơ hồ rằng trong vài ngày vừa qua, những từ tiếng Việt được Google Search đón nhận nhiều nhất là “Thùy Linh”, “Vàng Anh” và “sex”. Còn gì thú bằng tay ta download hoặc play cái clip đó, miệng ta thì cứ chửi “bọn chim ăn xác thối” đưa tin, góp phần phát tán phim sex và hủy hoại cuộc đời T.L.

Dĩ nhiên, không phải tất cả audiences đều mua/đọc báo vì “yếu tố kích dục”. Nhưng đó là xu hướng tâm lý chung. Ta cũng có một niềm an ủi, là audiences không thích việc nhà báo lạm dụng họ. Nếu audiences ý thức được rằng nhà báo đang cố tình đánh vào “thị hiếu thấp hèn” thì họ sẽ phản ứng. Tuy nhiên cái ý thức đó và phản ứng đi kèm với nó lại còn tùy vào trình độ của audiences. Như ở Việt Nam thì ý thức chưa rõ ràng mà phản ứng cũng yếu. Nói cách khác, audiences toàn thế giới giống nhau về cơ bản, nhưng mức độ thì có thể khác nhau.

Với vụ Vàng Anh, Dân Trí không đưa tin đầu tiên thì báo khác sẽ đưa. Báo chí sẽ còn đăng tải những tin tương tự, bởi vì có cầu thì mới có cung.

Nghe thì tàn nhẫn vậy, nhưng audiences là thế và báo chí là thế. Nếu một ngày đẹp trời nào đó, lũ “chim ăn xác thối” chúng tôi nhận được phản ứng dữ dội và quyết liệt từ audiences (tẩy chay, đốt tòa soạn, bắt trói tổng biên tập, đánh thẳng lên tận Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương…), thì chúng tôi xin chuyển ngay sang các đề tài khác, như “Sự phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam”, hay là “Chất trí tuệ Đức trong vở Bà tỷ phú về thăm quê”, sang hơn chút nữa thì là “Tính Đảng trong các tác phẩm văn học phương Tây hiện đại”. Chuyển ngay ạ, không cãi!

31. YM: Yahoo Messenger – dịch vụ trò chuyện qua mạng (chat) do Yahoo cung cấp.

32. Message: tin nhắn trên yahoo Messenger

33. Ngày 12 tháng 10 năm 2007, diễn viên, ca sĩ Hoàng Thùy Linh (vai chính trong loạt phim truyền hình Nhật ký Vàng anh) dính vào một vụ scandal khi một đoạn phim quay cảnh quan hệ tình dục giữa cô và bạn trai bị phát tán và lan truyền trên mạng Internet.

 

Bài học đầu tiên

Hồi mới loạng choạng những bước đầu trong nghề tạm gọi là báo chí, tôi và các anh chị em bạn bè đã được Tổng biên tập cung cấp cho một khóa đào tạo cơ bản về báo chí.

Tất cả những gì anh Tổng biên tập dạy đều rất hay, rất căn bản, giá trị, hữu ích, v.v… nhưng điều ấn tượng nhất mà tôi nhớ lại chỉ được tóm gọn trong bốn từ: Nếu sai, phải nhận.

Nếu sai, phải nhận!

Nghĩa là nhà báo cũng như tờ báo phải có thái độ đó và cách hành xử đó. Đã sai là nhận trách nhiệm, nhận lỗi, và xin lỗi. Không có chuyện nói tránh đi thành “nói lại cho rõ” chẳng hạn.

Tôi thích thái độ và cách hành xử ấy. rất đàng hoàng.

Thế rồi những năm đầu làm nghề, tôi áp dụng triệt để bài học đầu tiên. Cứ sai là nhận, không cần ai phải phát giác, tố cáo. Thậm chí nhiều khi quá lên còn nhận thay người khác. Nhận hết, nhận tuốt. Có nặng nề gì một câu nói: “Đó là lỗi của em”.

Thế mới chết. Một thời gian sau, tôi mới thấy mình dại. Bởi vì xung quanh chẳng ai làm thế cả. Không ai làm như anh dạy cả, anh Tổng biên tập ơi!

Tôi biết dại, từ đấy bèn im không nhận nữa. Nhưng thỉnh thoảng nhớ lại quá trình tiến hóa của mình mà thấy hay hay là, xin tóm tắt thế này:

– Khi mới làm nghề, tôi luôn thấy: nếu sai phải nhận.

– Sau vài năm, tôi thấy: nếu sai thì im đi, đừng nhận.

– Sau vài năm nữa, tôi thấy: nếu sai thì không nhận cũng không im, mà phải ngay lập tức đổ cho “thằng” hay “con” khác.

Tất nhiên không phải lúc nào cũng dễ đổ cho “thằng” hay “con” khác. Song đã có một bửu bối rất tuyệt để áp dụng trong các trường hợp nhạy cảm: Đổ tại “chúng ta”. Cứ nói là tại “chúng ta”, trúng thì trúng chả trúng thì thôi.

Sâu xa hơn nữa thì đổ tại cơ chế. Hoặc cụ thể hơn nữa thì đổ tại “quân” của mình ấy. Mà “quân” mình kém là do sao? Do trình độ kém. Trình độ kém là do sao? Thì lại do cơ chế! Triết học một tí thì nói là do văn hóa dân tộc.

Văn hóa đổ vấy.

 

Ngụy biện về mũ bảo hiểm

Ngày 15 tháng 12 năm 2007 chứng kiến một sự kiện trọng đại: Toàn dân đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng phương tiện xe gắn máy. Vào thời điểm này mà kẻ nào mở miệng chống đối chủ trương chung thì cách mạng ắt sẽ như một làn sóng quét sạch nó đi.

Giả sử tôi rên rỉ:

– Mình vừa làm tóc quăn. Đội mũ bảo hiểm sẽ làm tóc của mình xẹp lép như con tép!

– Mình vốn có vẻ mặt lố bịch, mình sợ đội mũ bảo hiểm sẽ làm mình trông chững chạc.

Thì thể nào cũng bị một xô nước tuyên truyền hắt thẳng vào mặt: Tất cả chỉ là ngụy biện! Hãy đội mũ bảo hiểm!

Ừ thì đội vậy.

Đội thì đội nhưng tôi thấy không phục, không phục. Tức thì không tức nhưng nghĩ nó cay: Các nhà kinh tế, các học giả về chính sách công đâu hết rồi, lên tiếng đi chứ! Giá mà bây giờ toàn bộ sinh viên các trường kinh tế – chính sách xã hội kéo nhau xuống đường tuần hành “Say no to mũ bảo hiểm” thì tôi sẽ vô cùng tự hào được có bốn năm rưỡi ngồi trên ghế Đại học Ngoại Thương.

Nói phét vậy, chứ báo chí còn phải im hơi lặng tiếng thì các nhà kinh tế làm được gì? ai có ý kiến phản đối lúc này khác gì một con lừa có cá tính, tự nhiên lại cất lên một nốt nhạc ngang như cua trong bản nhạc hùng tráng.

Phải cái… tức thì không tức nhưng nghĩ nó cay, chẳng gì thì bộ tóc mới của tôi cũng có phải rơm rác đâu. Thôi mình xin phép làm con lừa có cá tính một lúc vậy.

1

Không hiểu sao (các) tác giả của chủ trương đội mũ bảo hiểm này cứ cố đánh đồng việc giảm tỷ lệ chấn thương sọ não do tai nạn giao thông với việc giảm tỷ lệ tai nạn giao thông. Đúng là đội mũ bảo hiểm thì có thể, với một xác suất cao, hạn chế nguy cơ bị chấn thương sọ não khi gặp tai nạn giao thông thật, cũng như ăn gạo lứt giúp làm giảm nguy cơ bị ung thư.

Nhưng chính vì thế, việc đội mũ bảo hiểm chỉ nên được tuyên truyền, khuyến khích thay vì trở thành một thứ chính sách bắt buộc trên diện rộng. Cùng lắm thì chúng ta chỉ bị ép phải xem thật nhiều đoạn phim quảng cáo, nghe thật nhiều bài hát “mũ bảo hiểm ca”, kiểu như: “anh tặng em chiếc nón bảo hiểm quê mẹ, mang hình bóng quê hương…”. Hip-hop hơn một chút thì là: “Helmet! Helmet! oh ze ze!…”. (34)

Nếu chỉ vì mũ bảo hiểm có thể làm giảm nguy cơ bị chấn thương sọ não mà các nhà làm chính sách bắt dân chúng đội, thì tôi thấy hơi lạ – sao tự nhiên các bác lại quan tâm sâu sắc đến một chuyện tương đối nhỏ (so với vô vàn chuyện khác nghiêm trọng hơn) như thế?

Cứ nhân rộng cái mô hình chính sách này ra toàn quốc, chẳng bao lâu nữa ta sẽ có thật nhiều chính sách tương tự. Ví dụ, tôi đề nghị báo đài khẩn trương tổ chức một chiến dịch quảng bá cho chính sách toàn dân ăn gạo lứt.

– Mình sợ ăn gạo lứt không đủ chất, mình sẽ không đủ sức làm việc mất.

– Mình không thích ăn gạo lứt, chán lắm! Tất cả chỉ là ngụy biện. Hãy ăn gạo lứt!

Vì ăn gạo lứt làm giảm xxx% nguy cơ ung thư.

2

Có là con lừa có cá tính thì cũng hiểu rằng tỷ lệ chấn thương sọ não ở Việt Nam cao do tỷ lệ tai nạn giao thông cao, mà tỷ lệ tai nạn giao thông cao thì không phải do dân chúng ngu dốt không chịu đội mũ bảo hiểm, mà do cơ sở hạ tầng (chất lượng đường xá) và do số phương tiện giao thông “cá thể” (tức xe gắn máy) quá nhiều – cái này hơi hơi gần nghĩa với “ý thức của người tham gia giao thông còn thấp”. Nói một cách dài dòng, còn nhiều người ngồi xe gắn máy đi đường thì còn nhiều tai nạn giao thông, bởi xét về mặt tâm lý, một người điều khiển xe gắn máy có xu hướng vượt đèn đỏ, phóng nhanh vượt ẩu v.v. nhiều hơn một người điều khiển ôtô, và càng nhiều hơn một người điều khiển máy bay. Tất nhiên, tai nạn giao thông do ôtô và máy bay gây ra thì thường mang tính thảm họa, đó là mặt tiêu cực của vấn đề.

Tần suất gây tai nạn thấp hơn nhưng tính chất tai nạn thì nghiêm trọng hơn.

Các tác giả của chính sách đội mũ bảo hiểm sẽ bảo: ở nhiều nước trên thế giới, dân chúng đi xe đạp cũng đội mũ bảo hiểm. Ngay như xứ Malaysia và Thái Lan ở gần ta, dân chúng ra ngoài đường đội mũ nhiều lắm, Việt Nam mình chẳng có lẽ lại không đội? Nhưng đường xá của họ kể ra cũng tốt, mà tham gia giao thông đa số là ôtô, lũ người đi xe máy xe đạp có một nhúm thôi, với lại ở bên đó không có nạn ăn cắp vặt như ở Việt Nam. Do đó, việc đội mũ bảo hiểm với họ thuần túy là sự lựa chọn cá nhân, hãy cứ hành xử sao cho có lợi cho họ.

3

Nhưng các bạn tin tôi đi, đảm bảo là sau ngày 15 tháng 12 năm 2007, tỷ lệ chấn thương sọ não do tai nạn giao thông, theo công bố của các cơ quan báo chí, sẽ giảm chóng mặt. Các nhà báo ắt hẳn tự biết mình sẽ phải làm gì. Quần chúng nói chung là nông nổi lắm. Hỡi dân chúng, ta thương mi…

Trên thực tế, tôi thiết nghĩ tỷ lệ chấn thương sọ não chắc chắn sẽ giảm, nếu khi tham gia giao thông các bạn đảm bảo được là: mũ bảo hiểm bền, không cản trở thính giác, không cản trở thị giác, không cản trở chuyển động của các khớp cổ, cơ mặt…

4

“Kinh tế học bao gồm việc xem xét không chỉ những tác động ngắn hạn mà cả những tác động dài hạn của bất kỳ một chính sách hay biện pháp kinh tế nào; nó bao gồm việc theo dõi những tác động đó không chỉ đối với một nhóm cá thể nhất định mà với mọi nhóm trong xã hội.

90% các luận chứng kinh tế sai lầm trên thế giới – những luận chứng đang gây nhiều tổn hại cho nền kinh tế toàn cầu – đều là hậu quả của việc bỏ qua bài học này. Chúng đều mắc một trong hai lỗi hoặc đôi khi cả hai: hoặc chúng chỉ tính đến các tác động tức thời của một chính sách hay biện pháp kinh tế, hoặc chúng chỉ xem xét các tác động này trên một nhóm cá thể nhất định và bỏ qua các nhóm khác”.

Đây là những dòng trích trong tác phẩm kinh điển “Hiểu kinh tế qua một bài học” (Economics in One Lesson, 1946) của một nhà báo Mỹ, Henry Hazlitt. Trong trường hợp Việt Nam, những lời ấy nay quả nhiên ứng nghiệm: Chính sách “toàn dân đội mũ bảo hiểm” đã và sẽ khiến nhiều cửa hiệu Nón Sơn phá sản! Nói như một nhà điều hành vĩ mô, những nhóm cá thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi chính sách này sẽ còn mở rộng (nhưng nhất thời tôi không nghĩ ra và không dám nói liều).

5

Ngụy biện một hồi cho bớt tức vậy thôi, ngày 15 tháng 12 tôi vẫn đội mũ bảo hiểm ra đường vì thứ nhất sợ công an phạt, thứ nhì sợ tai nạn giao thông làm chấn thương sọ não. Chẳng gì thì tôi cũng có kinh nghiệm ngã đập đầu xuống đường một lần rồi. Cái mạng chưa bị trời lấy đi nhưng kể ra cũng… đau phết đấy bà con ạ.

Lời kết: Các đồng chí ạ, tôi nhắc nhiều lần rồi: Nhà báo phải làm gương cho dân. Đội mũ bảo hiểm vào đi!

34. Helmet, tiếng anh nghĩa là mũ bảo hiểm, mũ sắt bảo vệ đầu (của bộ đội, lính cứu hỏa v.v.).

 

Loại giặc thứ tư

Ngày 22 tháng 12 năm 2007. Tổng kết tình hình thực hiện chính sách “toàn dân đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, môtô”, sau một tuần: Thắng lợi! Đó là hai từ chuẩn xác nhất được dùng để đánh giá tình hình chiến dịch. Có thể nói chiến dịch bước đầu đã thắng lợi to lớn, thành công vượt quá mức mong đợi, thực sự tạo nên một cuộc cách mạng về nhận thức, một nét văn hóa mới của người tham gia giao thông…

Bác Hồ từng dạy, ở Việt Nam có ba thứ giặc là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nay ta học tập Bác, xác định thêm một thứ giặc nữa, gây hại không kém ba thứ kia, đó là giặc bướng. Bọn này hết sức nguy hiểm, chúng chống phá ta từ trong ra ngoài, từ những chuyện nhỏ như tăng giá xăng dầu đến những chuyện lớn như bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên mọi tuyến đường. Chúng làm bạn đồng hành thân thiết, tiếp sức cho cả giặc đói, giặc dốt lẫn giặc ngoại xâm.

Chính vì vậy, dù chiến dịch “đội mũ bảo hiểm” đã thắng lợi bước đầu, nhưng tôi vẫn đề nghị tất cả các đồng chí: Chúng ta vẫn cần nâng cao cảnh giác, không một phút nào lơ là, ngơi nghỉ đấu tranh chống bọn giặc bướng. Cần làm mạnh tay hơn nữa, xử lý quyết liệt các trường hợp không đội mũ bảo hiểm hoặc đội chỉ có tính chất đối phó. Đề phòng bọn giặc bướng có lắm mưu mô, thủ đoạn hòng qua mặt cán bộ, ta cần nêu rõ: Tất cả mọi người đã ngồi lên xe gắn máy và/ hoặc môtô là phải đội mũ bảo hiểm, mũ phải buộc dây, mặt phải tươi tỉnh. Cái này là để đấu tranh với các trường hợp giặc bướng lý luận:

– Ơ, ơ các anh ơi, tôi chỉ đi ăn sáng từ bên này sang bên kia đường thôi mà.

– Ấy, tôi tưởng đi đường làng thì cần gì đội mũ bảo hiểm.

– Ô hay, tôi chẳng đội mũ đây là gì, chỉ có không buộc dây thôi. (y như cái thằng nào trong cái chuyện gì ấy nhỉ, cầm đèn đi ngoài đường mà lại không thắp đèn, quan lại phải ra lệnh: “ai đi đêm phải cầm đèn, đèn phải thắp, đèn tắt phải thắp lại”).

Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm ta còn diệt được. Chẳng lẽ với giặc bướng ta lại bó tay hay sao?

Trong tuần đầu thực hiện “đội mũ bảo hiểm”, phải nói là các chiến sĩ công an đã có nhiều sáng kiến rất hữu hiệu để tìm và diệt giặc bướng. Các anh kiên trì và nhẫn nại phục kích ở những nơi bất ngờ nhất, ví dụ các tuyến đường trong khu tập thể, đường làng đường xã… các điểm mà bọn giặc bướng không thể ngờ tới. Theo nguyên tắc, cứ ngồi lên xe máy/môtô là phải đội mũ bảo hiểm rồi, thế nên khi đi trong ngõ, trong khu tập thể, trong làng… bọn giặc bướng không đội mũ là sai luật rõ ràng. Chúng bị đánh úp, thảy đều trở tay không kịp.

Ngay ngày đầu thực hiện chính sách, M. đã làm xấu mặt giới phóng viên khi bị dân quân xã bắt tại trận với đầy đủ tang vật, là chiếc mũ bảo hiểm vứt trong giỏ xe thay vì úp vào đầu. Tính chất nghiêm trọng của vụ việc càng tăng thêm khi hắn khệnh khạng xuống xe, tự xưng là nhà báo xuống xã để làm việc với ủy ban nhân dân về tình hình thực thi chính sách đội mũ bảo hiểm. Hắn vỗ vai các anh dân quân: “Các đồng chí nghiêm túc thế này là tốt, tôi khen. Bây giờ xin các đồng chí chỉ đường cho tôi vào làm việc với ủy ban nhân dân xã”. Các anh dân quân tuy kiên định cách mạng nhưng chưa có bản lĩnh đối phó với giặc bướng nên cuối cùng đã thả cho hắn đi.

Chi bộ dứt khoát sẽ yêu cầu M. tự kiểm điểm thật nghiêm khắc. Về phần tôi, kiếp sau dứt khoát tôi sẽ làm công an giao thông. Mà sẽ cứ nhằm vào bọn nhà báo mà phạt thật lực. Càng làm nhà báo, càng phải phạt!

 

Khi nhà kinh tế khóc

Vài năm nay, nếu có ai hỏi tôi muốn mình là gì, thì câu trả lời là: Tôi muốn là một nhà báo có tư duy của một nhà kinh tế.

Cái này có lý do nguyên thủy của nó. Thật tình tôi rất yêu thích môn kinh tế học (dù đã phải trải qua tới gần 5 năm mòn mỏi ở đại học để nhà trường chà xát tình yêu của sinh viên đối với cái môn khoa học rất trí tuệ ấy). Bốn năm rưỡi đại học không tiêu diệt nổi sự yêu thích của tôi với kinh tế học (thế mới gọi là kỳ tích tôi lập được), và sau đấy đi làm báo thì lại càng thích kinh tế học hơn (thế mới khổ). Nhưng tôi cũng tự biết là với trình độ hết sức có hạn của mình thì chẳng thể nào trở thành nhà kinh tế được, nên đành vui lòng làm báo vậy, với một mong muốn là mình sẽ là “một nhà báo có tư duy của một nhà kinh tế”.

Kinh tế học thật sự là môn học rất hay đấy bà con ạ. Đừng để ý tới những gì các trường đại học khối khoa học xã hội ở xứ ta dạy vội, cứ tin lời tôi cái đã nào. Nó vừa như toán học, vừa như xã hội học, vừa như tâm lý học, lại vừa như triết học ấy, rất là vi diệu. Mà trong cuộc sống, nhất là khi làm báo, nếu áp dụng kiểu tư duy như một nhà kinh tế thì nhiều khi chúng ta sẽ thấy rất bình thản, không có gì mà phải bức xúc cả. Ví dụ chúng ta sẽ biết ngay là vấn đề biến đổi khí hậu của thế giới sẽ chưa thể được đồng bào Việt Nam để tai để mắt tới, cho dù VNN – tờ báo điện tử hàng đầu đặt trụ sở ở Việt Nam – có cố đẩy nó lên tin nổi bật, top story đến thế nào đi chăng nữa. Chúng ta sẽ biết là cứ phải từ từ đã, khi nào Việt Nam gia nhập đội ngũ các nước khá giả về kinh tế cái đã, thì câu chuyện môi trường cùng những thứ tương tự (trong kinh tế học có cái gọi là chi phí ngoại sinh – externalities – mọi người nhỉ?) mới được quan tâm đến.

Đại khái thế, còn nhiều ví dụ khác cho thấy nếu tư duy như nhà kinh tế thì ta sẽ bình thản hơn, ít bức xúc hơn.

Ấy thế mà… (sụt sịt)

Ấy thế mà có những thứ nhà kinh tế chẳng thể nào cắt nghĩa nổi.

Ví dụ nhé, tính tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một nước chẳng hạn. Về nguyên tắc là phải hết năm tài chính mới bắt đầu tính được, và việc tính phải kéo dài một thời gian (thì làm sao mà roẹt một cái có ngay kết quả được). Nhưng mà không hiểu Việt Nam mình làm thế nào ấy, lạ lắm, cứ cuối năm là có ngay con số mức tăng trưởng GDP của năm. Nhà kinh tế tư lự mãi, chẳng hiểu tính toán thế quái nào…

Lại nữa. Nếu GDP hàng năm đều có tăng (mà tăng cao chứ đùa đâu, có năm tới 7%, kể cả thế giới khủng hoảng GDP ta vẫn tăng), thì mức sống của người dân nói chung là phải thay đổi theo hướng tăng chứ nhở? Thế mà nhà kinh tế thấy hình như nhiều người dân thành thị và nông thôn nghèo hẳn đi. Không phải do dân số tăng nhanh quá đâu, tỷ lệ tăng dân số ở Việt Nam thấp hơn mức tăng GDP kia mà.

Tất nhiên bên cạnh những người nghèo đi thì nhiều người giàu lên, mua nhà mua đất, mua cả ôtô. Nhưng mà lại lạ nữa, về nguyên tắc, ai có thu nhập cao hơn tức là phải có năng suất lao động gia tăng, hoặc thời gian lao động gia tăng. Thế mà nhà kinh tế thấy nhiều người có làm lụng gì vất vả hơn đâu nhỉ, thậm chí nhiều vị đi làm còn thong dong, sáng ra khỏi nhà rõ muộn, chiều 4-5 giờ đã hối hả lo đi nhậu. Thời gian lao động ít đi, chắc chắn là ở Việt Nam chưa có ai bị chứng “workaholic” (nghiện việc) như người Nhật Bản cả. Nói về năng suất, thì chắc công việc văn phòng cũng không có biến động lớn về năng suất. Hay là… chả lẽ máy tính của họ tăng tốc độ xử lý nhanh thế, gấp tới mấy trăm lần máy thường?

Chắc chả phải. Thế sao họ lại giàu lên gấp mấy trăm lần thế? Chả biết.

Nhà kinh tế thấy hàng nhập lậu từ Trung Quốc lan tràn khắp Việt Nam, và một loạt tờ báo mở chiến dịch “chống hàng Tàu”. Cô ta nghĩ: không được, không được, xét trên quan điểm kinh tế thì không thể vì chống hàng nhập lậu mà đóng cửa thị trường được. Nhà nước phải xem lại chính mình – mình đã thắt chặt luật pháp chưa, mình đã có biện pháp “xử lý quyết liệt” với hàng nhập lậu chưa? Chỉ riêng việc nghiêm chỉnh thực hiện luật pháp cũng đã giúp ngăn chặn đáng kể hàng lậu rồi, chưa cần phải phát động phong trào “người Việt dùng hàng Việt”, “tẩy chay các chú”. Làm như thế vừa không hiệu quả, vừa tác động xấu tới phong trào quốc tế vô sản.

Nhưng nhà kinh tế cũng sớm nhận thấy là hàng lậu cứ ê hề ra. Một hãng mỹ phẩm cao cấp của châu âu mà có sản phẩm bán rẻ gần bằng bèo ở Hà Nội, chắc hẳn là hàng Tàu rồi. Qua tìm hiểu, đấu tranh, khai thác, nhà kinh tế (không phải công an đâu nhé) biết mơ hồ rằng quả thật đó là hàng Trung Quốc làm giả, và có một đường dây vận chuyển hàng ấy về thẳng Hà Nội.

– Sao công an không ngăn chặn? – Nhà kinh tế sửng sốt.

– Hỏi ngu nhở? Công an không đứng ra bảo kê thì dễ hàng ấy về tận thủ đô cho cô à? – người ta mắng nhà kinh tế, kẻ đang đứng thộn mặt.

À, ra vậy. Nhà kinh tế đã hiểu. Nhưng cô ta lại nhớ ra, hồi tháng 6 năm 2009, có hai anh thường dân ở đâu đó thấy bức xúc trước tình hình an ninh không tốt, bèn giả làm công an đi trừng trị kẻ xấu. Hai anh thay giời hành đạo chưa được hai tháng thì đã bị công an bắt, rồi chưa đầy một tháng sau đã bị đem ra khởi tố, nhanh chóng đến không ngờ. Chứng tỏ công an mình giỏi phết đấy chớ. Thế mà cứ thấy nói đến chống buôn lậu, chống hàng giả, hàng nhái, y như rằng lại thấy kêu “lực lượng mỏng”.

Thì ra đây là vấn đề “phân bổ nguồn lực” không hợp lý đây mà. Lực lượng công an dồn hết vào những việc xã hội chưa cần, còn việc cần thì chưa thấy công an đâu. Nhà kinh tế đau xót nghĩ vậy.

Lại còn cái này nữa mới lạ chứ. Theo nguyên tắc kinh tế thì ai nắm giữ lợi thế khan hiếm, người đó phải có sức mạnh độc quyền, nói nôm na là khả năng chi phối thị trường, ít nhất cũng là khả năng làm giá cho chính mình. Thế mà nhà kinh tế thấy, có những người nhé, chuyên môn rất khá nhé, giỏi cả tiếng anh tiếng pháp nhé, viết lách, dịch thuật rất tốt nhé (thị trường nhân công của mình nói chung là năng lực viết và nói, trình bày ý kiến, rất tệ), lẽ ra phải có lợi thế khan hiếm chứ. ấy vậy mà mức thu nhập của họ một tháng chỉ ngang anh chàng ngồi nghiêng ngửa ở chợ lao động kia thôi (mà không thể nói là anh chàng phu hồ đó có lợi thế khan hiếm được!).

Thế là thế quái nào nhỉ? Nhà kinh tế không sao trả lời được.

Và thế là, nhà kinh tế trong tôi òa khóc!

 

Lời than vãn của một phóng viên

Mấy hôm nay tôi đang phải tự nhìn lại, xem mình có đang khe khắt, đòi hỏi cao quá ở nền báo chí nước nhà không – trong khi tôi không hề ở cương vị lãnh đạo, quản lý, và do vậy chả có tí tư cách nào để nghiêm khắc đối với lực lượng chiến sĩ trên mặt trận văn hóa-tư tưởng cả.

Sau vài buổi suy nghĩ, đến hôm nay thì tôi chính thức thừa nhận: rõ ràng là nhiều người trong chúng ta, trong đó có tôi, đòi hỏi quá cao ở báo chí, và nhất là đang giữ một cái nhìn hết sức bi quan. Thật chẳng nên chút nào. Cái này nhà văn Nam Cao nói từ lâu rồi: “Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản”.

Tất nhiên là điều gì cũng có lý do của nó. Vừa rồi tôi có may mắn được tham dự một hội nghị quốc tế rất lớn ở Việt Nam, với tư cách phóng viên. phải nói là cứ mỗi lần sánh vai cùng các phóng viên nước ngoài, nhất là phương Tây, trong các sự kiện như thế này, là một lần mặc cảm tự ti trong tôi lại trỗi dậy bừng bừng.

Không tự ti làm sao được khi mà, các bạn cứ tưởng tượng, tại mỗi cuộc phỏng vấn (ở họp báo chính thức hay là “quây đánh úp” bên lề, ngoài hành lang, xó xỉnh nào đó), có một hiện tượng phổ biến thế này: phóng viên Tây tranh thủ hỏi nhân vật tất cả những gì mà họ có thể hỏi được, từ tranh chấp lãnh thổ ở khu vực biển xyz, vấn đề lạm phát ở nước này, tới bầu cử ở nước kia, nhân quyền ở nước kia nữa, quan điểm của nước nọ về những chuyện như thế v.v., tóm lại là chúng tận dụng cơ hội để moi đủ thông tin từ nhân vật, “dùng như phá”. Trong khi ấy, phóng viên ta nói chung (vâng, “nói chung” thôi ạ, nghĩa là cũng có những ngoại lệ) thường ưa thích hỏi các câu như là: “Ông/ Bà đánh giá thế nào về vai trò chủ tịch ASEAN của Việt Nam trong năm qua?”. Có trường hợp, một học giả nước ngoài đang trả lời phỏng vấn về các vấn đề chính trị khu vực và thế giới, một phóng viên của ta chĩa micro vào hỏi: “What do you think of Vietnamese ladies?” (ông nghĩ gì về phụ nữ Việt Nam?). ông học giả tí nữa tụt huyết áp.

Một lần bí nhân vật quá, tôi đè phóng viên Tây ra hỏi:

– Ông đánh giá thế nào về vai trò chủ tịch ASEAN của Việt Nam trong năm qua?

Hắn nhìn tôi, khủng khỉnh:

– Đã bao giờ các bạn không thành công chưa?

Tôi phải điều chỉnh lại hắn ngay, không thể chấp nhận thái độ ấy và sự sai lệch về nhận thức ấy.

– Không phải thế. Chúng tôi có thất bại chứ. Nhưng thất bại luôn là tạm thời.

Hắn gật đầu:

– Đúng vậy. Và cuối cùng các bạn luôn chiến thắng.

Tôi bỏ qua cho hắn. Tuy nhiên tại các cuộc phỏng vấn, những câu hỏi kiểu “ông/ bà đánh giá thế nào về…/ nghĩ gì về…” vẫn luôn vang lên.

Tất nhiên là tôi muốn tìm kiếm những câu hỏi khác, hay hơn, thú vị hơn, đa dạng hơn, sâu sắc hơn, nhất là khi một nhân vật nổi tiếng trên chính trường thế giới đã có mặt tại Việt Nam: Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. Chúng tôi thảy đều muốn tranh thủ cơ hội nhiều năm có một này để hỏi bà ngoại trưởng nhiều câu giá trị. Nhưng mà, nhưng mà, nhưng mà… đến đây mới kinh hoàng nhận thấy là… không hiểu người khác thế nào, chứ tôi chẳng biết hỏi bà cái gì cả.

Trước giờ họp báo, trong lòng hoang mang lo sợ, tôi thì thào trao đổi với một vài phóng viên khác và được biết là mọi người đều có chung tình trạng đó với tôi: chẳng biết hỏi Hillary cái gì. Mà kể ra cũng khó thật. Hàng trăm phóng viên đến từ hàng chục, hàng trăm cơ quan báo đài trong nước và nước ngoài, xúm xít cả vào một cuộc họp báo không đầy một giờ đồng hồ, hỏi thế nào được, hỏi gì mà hỏi.

Nhưng một thực tế đáng báo động, không thể chối cãi, là, khi chúng tôi ngồi tưởng tượng với nhau: “Giả sử cho mày được ngồi cùng với bà Hillary Clinton, một mình mày thôi, và một mình bà ấy, trong một căn phòng, khoảng hai tiếng đồng hồ, thích hỏi gì thì hỏi, báo đăng tuốt. Mày sẽ hỏi bà ấy những gì?”. Chúng tôi đều tịt mít.

Đã tưởng tượng thì tưởng tượng luôn thể. Khi nhà báo không biết hỏi gì thì hãy tìm đến những người mà nhà báo luôn phải dựa vào, những người mà vì họ, nhà báo phục vụ: độc giả. Tôi nói với các bạn rằng, nếu bí quá, trước khi vào phòng phỏng vấn, tôi sẽ ra đường gặp một vài khán giả để nhờ họ gợi ý.

Tôi nghĩ tôi sẽ ra ngoài đường, gặp một thanh niên, cái cậu tóc nhuộm vàng xuộm, vừa ngồi ở quán game online ấy. Khiếp, người đâu mà tay chân cứ gọi là nhoay nhoáy, mình đứng sau lưng cậu ta ngó vào màn hình mà hoa hết cả mắt. “Địt… địt…” – cậu vừa nhấn chuột, vừa nhấn mạnh tiếng ấy từ trong mũi. Chờ mãi cậu ta mới ra ngoài đường. Tôi sẽ vội vã chặn cậu lại, hỏi cậu quan tâm, muốn biết điều gì về Hillary Clinton, và tôi sẽ đặt câu hỏi với bà ấy, một lát nữa đây.

Cậu thanh niên hẳn là sẽ đứng đực, trợn mắt nhìn tôi hoa chân múa tay, giải thích đi giải thích lại. rồi cậu bỏ đi sau hai từ cộc lốc:

– Đéo biết.

Hỏng. Cháy vở. Tôi lắc đầu, quyết định phải tìm người khác. Tôi sẽ ra đường, chờ một toán nhân viên đi ra từ một công sở lịch sự nào đó. Nhân viên văn phòng chắc hẳn là tao nhã hơn, hiểu biết hơn. à, đây, kia rồi, mau mau…

Một toán thanh nữ và phụ nữ xuất hiện trên hè phố. Tôi sẽ vội vã bám theo họ, làm thân với một chị có vẻ mặt hiền lành nhất trong số họ, năn nỉ, nhờ vả chị vận động cả nhóm giúp.

Chị ấy sẽ đỏ mặt lên, rồi bảo: “Thôi, chị chả biết hỏi gì đâu”.

“Thì chị cứ cố đi mà. Chị giúp em. Chị thích biết cái gì ở Hillary Clinton?”.

“Thì… bà ấy có xinh không?”

“Ơ… em không biết, em chưa gặp mà. Chắc cũng giống như trên ti-vi”.

“Hỏi xem bà ấy hay mặc đồ gì?” – một chị nói chen vào.

“Không, hỏi bà ấy nghĩ gì về tà áo dài Việt Nam ấy” – một chị khác, mạnh dạn hơn.

“Nhanh gọn nhất là hỏi xem một ngày của bà ấy như thế nào” – một chị khác nữa, đặt câu hỏi có vẻ báo chí nhất.

Ừ, kể cũng hay. Nhưng mà… chưa đủ. Hỏi thế thì dễ quá, các báo khác tranh cướp hết phần mất.

“Tiếp đi chị, nữa đi chị” – tôi năn nỉ.

Bây giờ chúng tôi đã có vẻ thân nhau hơn. Các chị gợi ý cho tôi hỏi thêm nhiều, ví dụ Hilary nghĩ gì về Việt Nam, về món phở Việt, ấn tượng đầu tiên của bà ấy khi đặt chân đến đây, v.v. Nhưng có vẻ vẫn thiêu thiếu, vẫn chưa đi đúng trọng tâm…

“Hay là hỏi xem một tuần bà ấy “làm nhau” với chồng mấy lần, há há há…” – các chị cười rú lên.

…..

Thế này thì dùng thế nào được. Tôi quyết định tìm tới nhà một học giả.

“Hỏi xem quan điểm của Mỹ về Trung Quốc. Hỏi xem Mỹ có định sử dụng Việt Nam để cân bằng quyền lực và ảnh hưởng ở Đông Nam Á, làm bàn đạp chống Trung Quốc không…”.

Chết. Chết dở. Tôi chắp tay lạy: “Bác, bác bình tĩnh. Bác xem thế nào chứ đặt câu hỏi thế thì bài cháu làm sao mà đăng được”.

“Kìa, thế sao mày bảo cứ hỏi thoải mái, thích hỏi gì thì hỏi, đăng tuốt?”.

À nhỉ, tôi quên. Đề bài ra điều kiện là “thích hỏi gì thì hỏi, đăng tuốt” mà. Quán tính của cuộc đời bị buộc dây khiến người ta dù được cởi trói rồi mà vẫn cảm thấy vương vướng… Tôi vừa đưa tay xoa cổ, vừa nói với bác: “Vâng, cháu quên mất.

Bác cứ tiếp tục đi ạ”.

“Hỏi xem Mỹ nghĩ thế nào về chính sách tỷ giá, tài nguyên môi trường của Trung Quốc. Địa vị của Trung Quốc đã, đang và sẽ thay đổi như thế nào và ảnh hưởng ra sao tới Việt Nam? Mỹ dự đoán quan hệ Việt-Trung sẽ ra sao…”.

“Ấy, bác ơi” – tôi khổ sở – chúng ta đang nói về Mỹ cơ mà”.

“Thì đấy, hỏi về Mỹ thì đấy, những vấn đề liên quan tới Trung Quốc bây giờ là quan trọng nhất. Trung Quốc là một siêu cường đang nổi lên, đóng một vai trò ngày càng lớn trong khu vực và trên thế giới… blah blah blah….”.

Tôi ra về, chẳng thu được gì.

Đấy, các bạn, nhiều bạn cứ chê báo chí, cứ mắng phóng viên ngu dốt. Tôi chả dám cãi. Nhưng mà các bạn có khi nào thông cảm với bi kịch của chúng tôi không: Thật tình là bây giờ nếu có được tự do đặt câu hỏi và chọn đề tài để viết, chúng tôi cũng chả biết hỏi gì viết gì ấy chứ, và sau đó thì biết độc giả nào sẽ đọc?

“Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi”.

HẾT

Bình luận về bài viết này