BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

Posts Tagged ‘Lê Duẩn’

12.447. NHÀ LÝ LUẬN

Posted by adminbasam trên 18/04/2017

FB Nguyễn Thông

18-4-2017

Lê Duẩn (đang đứng phát biểu), một trong những nhà lý luận hàng đầu ở Việt Nam. Ảnh: internet

Cũng giống như ở các nước lăn bánh xe vào vệt đường chủ nghĩa xã hội, những nhà lãnh đạo bộ máy cầm quyền Việt Nam rất thích lý luận. Theo họ, lý luận có tác dụng như ánh sáng (câu cửa miệng của họ là: dưới ánh sáng nghị quyết của đảng), như ngọn cờ, đưa đường chỉ lối, là điều kiện đầu tiên và tiên quyết, quyết định mọi thành bại trong thực tiễn. Không có lý luận cách mạng, sẽ không có phong trào cách mạng, họ khẳng định vậy.

Chính vì thế, người cộng sản phải xây dựng cho bằng được những nhà lý luận. Phong trào cộng sản quốc tế đến nay mặc dù đã lụi tàn, hấp hối, đang thở hắt ra chút sinh khí yếu ớt cuối cùng nhưng sử sách có lẽ còn nhớ ít nhiều đến tên tuổi của Karl Marx (Các Mác), Lenin (Lê Nin), Dimitrov, Mao Trạch Đông, Suslov, Hồ Chí Minh… những nhà lý luận “sáng chói” của đường lối này. Ai mà đi chệch một chút sẽ bị cả đám đông lên án là xét lại, bị tẩy chay, bị cô lập, cả khối không thèm chơi, như “tên phản bội” Tito nước Nam Tư thời thập niên 60-70. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Đảng CSVN | Thẻ: , , | 1 Comment »

12.296. THÊM VỀ LÊ DUẨN ĐỂ KHỎI NHẦM

Posted by adminbasam trên 09/04/2017

Nguyễn Đình Cống

9-4-2017

Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa III), tháng 7 năm 1961. Ảnh: VTC

Vừa qua ở Quảng Trị đã tổ chức long trọng lễ kỷ niệm lần thứ 110 ngày sinh ông Lê Duẩn, cố TBT ĐCSVN. Nhân dịp này một số diễn văn và bài báo đã ca ngợi ông hết lời. Chỉ xin trích vài đoạn:

 “Tổng Bí thư Lê Duẩn là người lãnh đạo kiệt xuất, đồng thời là nhà lý luận xuất sắc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam… Đồng chí đã có những đóng góp quan trọng, góp phần đưa lý luận cách mạng Việt Nam lên tầm cao mới….. Cuộc đời đồng chí là một nhân cách lớn về lẽ sống và đạo lý làm người, một tấm lòng bao dung, độ lượng đậm lòng nhân ái cao cả. … Đồng chí Lê Duẩn – người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lý luận xuất sắc, một tư duy lớn của cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ quốc tế cộng sản trong sáng đã cống hiến suốt cuộc đời mình cho Đảng, cho dân tộc… Đó là tầm cao trí tuệ, tài năng tổ chức, phương pháp cách mạng khoa học, sáng tạo…”.  Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng CSVN | Thẻ: , | 3 Comments »

11.759. LÊ DUẨN, TRUNG QUỐC VÀ TỘI ÁC CHIẾN TRANH

Posted by adminbasam trên 23/02/2017

Phạm Trần

23-2-2017

Tổng Bí thư Lê Duẩn và các con trai Lê Hãn, Lê Kiên Thành, Lê Kiên Trung (1978)

Ông Lê Duẩn và con trai Lê Hãn (bìa phải), Lê Kiên Thành, Lê Kiên Trung. Ảnh chụp năm 1978. Nguồn: Tư liệu gia đình.

Chưa bao giờ tên ông Lê Duẩn, nguyên Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam được nói đến nhiều như trong dịp kỷ niệm 38 năm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Hoa (17/02/1979 – 17/2/2017), nhưng không phải để ca tụng lập trường chống Tầu của ông mà để công khai nói lên sự nhu nhược của lớp lãnh đạo bây giờ trước âm mưu thôn tính Việt Nam của Bắc Kinh.

Cảm nhận này đã được rút ra từ nội dung các cuộc nói chuyện của hai người con trai ông Lê Duẩn là Tiến sỹ thương gia Lê Kiên Thành và Thiếu tướng Lê Kiên Trung, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an với báo chí Việt Nam, kể cả báo An ninh Thế giới của Bộ Công an. Tuy nhiên trong những phát biểu đề cao tinh thần lúc nào cũng phải cảnh giác với Trung Quốc của cha mình, hai ông Thành và Trung đã không xóa được trách nhiệm lịch sử đẩm máu của ông Lê Duẩn đối với nhân dân Việt Nam Cộng hòa trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân và sau ngày 30/04/1975. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Chủ quyền đất nước, Chiến tranh VN, Đảng CSVN | Thẻ: , , , , | 6 Comments »

9767. Lê Kiên Thành Kể Về Người Chị Lê Vũ Anh, Con Gái Lê Duẩn

Posted by adminbasam trên 27/08/2016

Kim Trang

27-8-2016

Maslov cầm di ảnh vợ, Lê Vũ Anh. Nguồn: tư liệu gia đình Maslov

Maslov cầm di ảnh vợ, Lê Vũ Anh. Nguồn: tư liệu gia đình Maslov

Vừa đọc xong bài viết của Thảo Nguyên về chuyện cô con gái rượu của Lê Duẩn. Từ hải ngoại và là một nạn nhân cộng sản, tôi xin có đôi lời cùng ông Lê Kiên Thành.

Những ai sinh ra và lớn lên ở Miền Nam trước 1975, đều biết rằng những “lãnh tụ” miền Bắc, từ HCM, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Duẩn v.v…, là những người có máu lạnh, hiếu chiến, sẵn sàng nướng hằng triệu thanh niên miền Bắc vào cõi chết cho một chủ nghĩa phi dân tộc. Đối với hằng triệu nạn nhân của cộng sản, giả thuyết cho rằng chính Lê Duẩn góp phần vào cái chết của Lê Vũ Anh cho sự nghiệp của ông ta là một giả thuyết hoàn toàn có thể xảy ra.

Nhưng ở đây chỉ xin đề cập đến những điểm thú vị khác để những thế hệ trẻ sinh ra và đang lớn lên ở VN hiểu được rằng, trước 1975 đã tồn tại ở miền Nam một chế độ cởi mở, tiến bộ VNCH, khác hẳn miền Bắc CS phong kiến, khép kín, giáo điều.

1) Thập niên 60, 70 ở miền Nam, phụ nữ Việt lấy chồng ngoại là chuyện thường tình. Xã hội miền Nam hoàn toàn chấp nhận và có luật pháp bảo vệ. Còn miền Bắc thì, chính Lê Vũ Anh xác nhận, du học sinh nữ bị bắt gặp có bạn Liên Xô sẽ bị đuổi về nước, bị cho là phản bội. Phản bội cái gì thì không thấy đề cập đến. Phản bội dân tộc hay phản bội Đảng? Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng CSVN | Thẻ: , , , | 2 Comments »

9749. Về câu chuyện tình của con gái Tổng Bí thư Lê Duẩn với viện sĩ khoa học Nga

Posted by adminbasam trên 26/08/2016

CAND

Thảo Nguyên

26-8-2016

Bà Bẩy Vân, phu nhân Tổng bí thư Lê Duẩn và hai cháu ngoại. Ảnh: CAND/ Lê Kiên Thành

Bà Bẩy Vân, phu nhân Tổng bí thư Lê Duẩn và hai cháu ngoại. Ảnh: báo CAND/ Lê Kiên Thành

Từ lâu, tôi đã hiểu rằng, một gia đình như gia đình tôi, thì hầu như sẽ chẳng có gì là của riêng; mọi niềm vui và nỗi buồn đều bị người ngoài nhìn theo cách của họ, hiểu theo cách của họ… Nhưng việc ai đó nghĩ rằng, cha tôi – vì lợi ích chính trị của mình, có thể hi sinh tính mạng của người con gái mà ông hằng yêu quý, thực sự khiến tôi đau đớn đến tận cùng…

LTS: Dù quen biết với Tiến sĩ Lê Kiên Thành đã lâu và từng có nhiều cuộc trò chuyện thẳng thắn về Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn, nhưng tôi chưa một lần hỏi về câu chuyện tình của con gái TBT Lê Duẩn là Lê Vũ Anh và người chồng Nga, bởi tôi tôn trọng sự riêng tư; mà bất cứ gia đình nào cũng có quyền giữ cho mình sự riêng tư đó. 

Nhưng những ngày này, khi mà dư luận xôn xao về đoạn hồi ký của Viktor Maslov (người con rể Nga của TBT Lê Duẩn) được lưu truyền trên mạng, trong một buổi làm việc, Tiến sĩ Lê Kiên Thành đã lần đầu tiên chia sẻ với tôi về câu chuyện đó. Và tôi đã xin phép được viết lại những gì ông kể, với tinh thần tôn trọng và trung thành với sự thật mà tôi được nghe!

1. Khi còn bé, tôi và em trai không bao giờ thực sự hiểu được lý do vì sao mình phải xa mẹ. Trong trí óc non nớt của mình, chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng chúng tôi phải sống với ba vì mẹ đi công tác xa.  Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng CSVN | Thẻ: , , , | 6 Comments »

9740. Rà soát lại bản dịch “Maslov – Giành lại các con” của Cao Kim Ánh

Posted by adminbasam trên 26/08/2016

Nhật Đình

25-8-2016

Đám cưới Lê Vũ Anh và Maslov. Nguồn: tư liệu gia đình Maslov.

Đám cưới Lê Vũ Anh và Maslov. Nguồn: tư liệu gia đình Maslov.

So với bản tiếng Nga trên 7day.ru thì nhìn chung bản tiếng Việt dịch đúng với những gì được kể lại. Dịch giả đã rất tài tình tra ra được tên những người Việt Nam trong câu chuyện – một việc không dễ dàng và đòi hỏi công sức tra cứu lớn. Nhất là dịch ra, tra ra được cả những từ tác giả viết sai âm tiếng Việt như Mai thực chất là Muội, Bay Vanh thực chất là Bảy Vân. Dịch giả cũng chuyển ngữ thành công những từ dân gian chung của phe XHCN như “враждебные голоса” là “đài địch”.

Phần chi tiết tôi đã có một bản word track change sửa cả lỗi chính tả. Ở đây tôi chỉ xin nêu một số điểm thú vị đã bị bỏ sót.

она на коленях у Мао Цзэдуна được dịch là “nàng quỳ gối bên Mao Trạch Đông”. Nếu đúng từng chữ thì dịch thế cũng ổn. Nhưng tiếng Nga cả cụm từ có nghĩa là “nàng ngồi trong lòng Mao Trạch Đông”. Mà thực tế cũng không thấy cháu thiếu nhi nào chụp ảnh quỳ trước Mao Trạch Đông cả. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng CSVN | Thẻ: , , | 7 Comments »

9724. Hồ Chí Minh, nhân vật hữu danh vô thực

Posted by adminbasam trên 24/08/2016

Trọng Đạt

24-8-2016

Hồ Chí Minh cùng các cố vấn quân sự TQ tại căn cứ Việt Minh ở Bắc Việt năm 1950. Từ trái: Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, Lê Văn Lương, La Quý Ba. Nguồn ảnh: picture.china.com.cn

Hồ Chí Minh và đàn em, cùng các cố vấn quân sự TQ tại căn cứ Việt Minh ở Bắc Việt năm 1950. Từ trái: Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, Lê Văn Lương, La Quý Ba. Nguồn ảnh: picture.china.com.cn

Huyền thoại Bác

Sau ngày 30-4-1975, quân đội Bắc Việt tràn vào Sài Gòn, có lần tôi được chuyện trò với mấy anh bộ đội rất trẻ, có lẽ là học sinh bị động viên. Các anh này lễ phép, nhã nhặn, vui vẻ, họ kể chuyện về Bác Hồ, nào là Bác về Hà Nội sau Hiệp định Geneve phải ở nhà khu công nhân mấy năm, Bác để dành lương mới làm được nhà sàn, họ thi nhau nói về Bác một lúc lâu rồi một anh bảo.

“Chuyện của Bác thì nói bao nhiêu ngày, nói một tháng cũng không hết”

Năm 1975, tại trại cải tạo Long Thành, một hôm đẹp trời nhà thơ nổi tiếng Hoài Thanh tới Hội trường nói chuyện với chúng tôi về đề tài “Sự nghiệp văn thơ của Hồ Chủ Tịch”. Ông thi sĩ già không ngớt lời ca tụng thơ văn của Bác. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Chiến tranh VN, Hồ Chí Minh, Đảng CSVN | Thẻ: , , | 2 Comments »

Bản dịch hoàn chỉnh, bài “Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?”

Posted by adminbasam trên 22/08/2016

Đôi lời: Sau khi đăng bài Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc? ngày 16-8-2016, phát hiện gần 1 trang tiếng Nga đã không được dịch, nên trang Ba Sàm đã nhờ người quen kiểm tra lại. Hiện đã có bản dịch mới của dịch giả Cao Kim Ánh, thấy trang 11 bản tiếng Nga bị dịch thiếu trước đây, đã được dịch đầy đủ, cũng như các phần khác trong bài đã được dịch lại. Xin được đăng lại bản dịch mới này để hầu bà con.

____

Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga Viktor Maslov

Tác giả: Viktor Maslov

Dịch giả: Cao Kim Ánh, 2015

Sửa chữa: tháng 8-2016

Maslov và vợ, Lê Vũ Anh. Ảnh: tư liệu riêng của Maslov

Maslov và vợ, Lê Vũ Anh. Ảnh: tư liệu riêng của Maslov

Cõ lẽ tất cả đã khác đi, nếu như tôi biết được từ đầu Lê Vũ Anh là con gái của ai. Khi sự thật được khám phá thì đã quá muộn. Tôi đã yêu mê muội, và không thể dứt khỏi nàng được nữa.

Chúng tôi gặp nhau ở Khoa Lý MGU, nơi Anh học tập. Trước lúc gặp Anh tôi đã là giáo sư, tiến sĩ khoa học toán – lý và là tác giả của lý thuyết được biết đến ở nước ngoài dưới tên gọi “Maslov-type index theory” (lý thuyết chỉ số kiểu – Maslov). Lý thuyết này được ứng dụng rộng rãi trong toán học trừu tượng, và cả trong cơ học lượng tử, hóa học lượng tử và quang học. Chỗ làm chính của tôi là Viện chế tạo máy điện Moskva – MIEM, nhưng Khoa Lý vẫn là nơi ruột thịt: tôi đã có thời học tập và giảng dạy ở đó.

Bao nhiêu năm đã trôi qua … Cả một đời người. Nhiều sự kiện và ấn tượng bật ra từ ký ức, và nàng công chúa lộng lẫy thoáng hiện ra ở cuối hành lang hôm ấy cho đến lúc này vẫn như đang hiển hiện trước mắt. Một cô gái không quen biết có dáng đi kiều diễm đặc biệt làm tôi sửng sốt và say mê bước theo. Nàng dừng lại một chút ở cửa phòng thí nghiệm và quay lại. Nhìn tôi với ánh mắt đen trong một giây, nàng mỉm cười rồi lẩn vào bên trong. “Một cô gái ngoại quốc” – tôi hiểu ra, và đoán chắc là một cô gái Ấn Độ. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng CSVN | Thẻ: , , | 22 Comments »

9633. Hậu duệ nhà Lê Duẩn hay “Mối tình ngang trái Việt-Nga”

Posted by adminbasam trên 18/08/2016

FB Phương Đoàn

18-8-2016

Maslov cần di ảnh của vợ, cô Lê Vũ Anh. Nguồn:

Maslov cần di ảnh của vợ, cô Lê Vũ Anh. Nguồn: báo Live Journal

Mời xem lại: Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?

Mấy ngày gần đây cư dân mạng hay share bản dịch tiếng Việt Hồi ký của Victor Maslov. Có thể đối với dân VN thì cái tên này không nói lên điều gì cả. Nhưng đối với dân khoa học Nga thì trong lĩnh vực toán học Maslov tương đương với Picasso trong hội họa hay Mayakoskyi trong thơ ca. Và Maslov còn “nổi tiếng” bởi vì ông là con rể của … Lê Duẩn, cố Tổng bí thư Đảng CSVN nổi tiếng một thời.

Mối tình lãng mạn và bi thảm giữa Maslov và Lê Vũ Anh (con gái của Lê Duẩn) có thể được ví là Romeo và Juliet thời hiện đại nhưng ít người ở VN cũng như ở Nga biết đến một cách tường tận. Kênh 1 Truyền hình Trung ương Nga đã làm bộ phim tài liệu về đề tài này từ năm 2006 với tựa đề “Запретная любовь” (Mối tình bị cấm đoán), mình cũng đã từng đọc hồi ký của Maslov nguyên bản bằng tiếng Nga đâu khoảng 1 năm trước đây. Không hiểu sao tận mãi bây giờ ở VN hồi ký này mới được phát tán rộng rãi. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng CSVN | Thẻ: , , | 10 Comments »

9605. Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?

Posted by adminbasam trên 16/08/2016

Bổ sung lúc 23h58′ ngày 22-8-2016: Bản dịch hoàn chỉnh, bài “Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?”.

“Tôi mơ thấy một luồng sáng: người ta đã đầu độc Vũ Anh. Tôi chia sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng cho rằng các vết xanh-đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy máu nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh viện tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm heparin cho các bệnh nhân để làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng như thế. Theo quan điểm của tôi đã xuất hiện thêm một phương án khả tín: việc chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không phải tự nhiên Vũ Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn … Trong đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Vũ Anh đã giết con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam”.

_____

Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Viktor Maslov, con rể cố TBT Lê Duẩn. Dịch từ nguyên bản tiếng Nga

Đông tác Giao lưu

Tác giả: Viktor Maslov

Dịch giả: Phan Độc Lập

17-5-2016

I.

H1

Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn. Ảnh: RIA Novosti/ tư liệu gia đình của V. Maslov

Có lẽ mọi chuyện đã không trở nên quá phức tạp, nếu như tôi biết được ngay từ đầu Lê Vũ Anh là con gái của ai. Khi sự thật được làm sáng tỏ thì đã muộn quá rồi. Tôi đã yêu, yêu đến phát điên đến nỗi không còn biết mình là ai nữa và không thể từ chối được mối tình đó nữa rồi.

Chúng tôi gặp nhau ở khoa Vật lý của Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên Lomonosov (MGU), nơi Lê Vũ Anh đang theo học. Tại thời điểm làm quen với nhau tôi đã là giáo sư tiến sỹ toán-lý và là tác giả của một lý thuyết, mà ở nước ngoài người ta gọi là lý thuyết chỉ số nhóm Maslov (Maslov-type index theory). Lý thuyết này được sử dụng rộng rãi trong toán học trừu tượng, cũng như trong cơ học lượng tử, hóa học lượng tử và quang học. Chỗ làm việc chính của tôi là ở Trường đại học chế tạo máy điện tử Moskva (МИЭМ), nhưng khoa Vật lý của MGU lại từng là ngôi nhà thân yêu, nơi tôi đã từng học tập và giảng dạy ở đó. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng CSVN | Thẻ: , , | 15 Comments »

7878. Lê Duẩn và cuộc chiến tranh Việt Nam

Posted by adminbasam trên 19/04/2016

Trọng Đạt

18-4-2016

Lê Duẩn (phải) và Hồ Chí Minh. Nguồn: internet

Lê Duẩn (phải) và Hồ Chí Minh. Nguồn: internet

Sự nghiệp chính trị

Lê Duẩn giữ chức vụ Bí thư thứ nhất đảng Lao động VN từ 1960-1976, Tổng bí thư đảng CSVN từ 1976-1986. Ông là người giữ chức Tổng bí thư lâu nhất 25 năm và 303 ngày, người có uy quyền cao nhất của CSVN như Tập Cận Bình, Đặng Tiểu Bình bên Tầu. Năm 1954, khi Việt Minh về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội người ta chỉ biết có bốn nhân vật chủ chốt Hồ, Giáp, Chinh, Đồng, khi ấy Lê Duẩn không ai nhắc tới vì hoạt động ở trong Nam. Ông ta là một nhân vật quan trọng của Cộng Sản Việt Nam, là người đã vạch ra chiến lược cách mạng với cuốn “Đề cương cách mạng miền Nam”. Từ bản đề cương này, hàng loạt phong trào đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam nổ ra, dọn đường cho cuộc chiến xâm lược miền nam. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Chiến tranh VN, Hồ Chí Minh, Đảng CSVN | Thẻ: , | 2 Comments »

7055. Cánh tay phải bị tù của Tướng Giáp

Posted by adminbasam trên 17/02/2016

BBC

Phạm Cao Phong

Gửi tới BBC từ Paris

16-2-2016

Tượng Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên bàn làm việc của ông Lê Trọng Nghĩa. Ảnh: BBC

Tượng Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên bàn làm việc của ông Lê Trọng Nghĩa. Ảnh: BBC

Cánh tay phải của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chọn cho mình cái tên như lẽ sống xuyên suốt cuộc đời ‘Trọng Nghĩa’.

Thật ra ông họ Đoàn, Đoàn Xuân Tín, tên khi đi học và khi bị tù, huyết thống của Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng.

Lê Trọng Nghĩa (1922 -2015) là cháu năm đời Đoàn Hữu Trưng, phò mã nhà Nguyễn, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa dân phu xây lăng Tự Đức (khởi nghĩa Chìa Vôi), bị đàn áp, nên đổi tên là Trần Lăng Thống (ý đau khổ vì xây lăng mộ vua chúa) theo thuyền chạy ra Bắc rồi lấy vợ họ Đoàn đổi tên con là Đoàn Biện Khơ, ông này chính là ông nội của ông Lê Trọng Nghĩa.

Em ruột đại tá Lê Trọng Nghĩa là đại tá QĐNDVN Đoàn Sự cho tôi biết chi tiết này. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Đảng CSVN | Thẻ: , , , , | 1 Comment »

5021. Từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Tấn Dũng (bài 1)

Posted by adminbasam trên 09/09/2015

Trọng Đạt

9-9-2015

   Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam từ ngày đảng hình thành cho tới nay đã ảnh hưởng tới đất nước và dân tộc ta ra sao.

   Trước hết nói về nhân vật

   Hồ Chí Minh

   Sinh ngày 19-5-1890, mất 2-9-1969, là người sáng lập đảng CS Việt Nam và đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Hà Nội. Hồi nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, tự Tất Thành, đỗ bằng tiểu học năm 1909, năm thứ hai trung học bị đuổi, năm 1910 đến Phan Thiết dậy chữ Hán và chữ quốc ngữ, năm 1911 vào Sài Gòn học trường Bá nghệ ba tháng, trường này đào tạo nhân công hàng hải. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Chiến tranh VN, Hồ Chí Minh, Đảng CSVN | Thẻ: , , | 4 Comments »

4919. Những câu nói đáng nhớ của cố TBT Lê Duẩn

Posted by adminbasam trên 31/08/2015

FB Lịch sử hiện đại: Chiến tranh và CM

31-08-2015

H1Cố Tổng bí thư Lê Duẩn và những câu nói đáng nhớ:

“Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta”

“Thưa Bác, chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô.”

Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ, Lê Duẩn không đồng ý nhận bất cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ, ông nói: “Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này”

“Chính trị là nghệ thuật về các khả năng”

Nhân dịp Tết 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn tuyên bố: “Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh”.

Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Chủ quyền đất nước, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng CSVN | Thẻ: , , | 2 Comments »

3208. Thư ngỏ gởi bà Nguyễn Thụy Nga (tức Nguyễn Thụy Vân, vợ bé ông Lê Duẩn)

Posted by adminbasam trên 22/12/2014

VNTB

22-12-2014

VNTB: Chúng tôi nhận được lá thư ngỏ dưới đây do một cách mạng lão thành ở Đà Lạt gửi đến, phản bác bức thư đăng tải công khai gần đây của bà Nguyễn Thụy Nga chỉ trích nặng nề đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôn trọng sự thật khách quan và bảo đảm tính công bằng về các sự kiện lịch sử, BBT VNTB xin đăng nguyên văn lá thư ngỏ của tác giả Hàn Vĩnh Diệp.

——————–

Hàn Vĩnh Diệp

Đơn kiến nghị của bà gởi các cán bộ lãnh đạo Đảng – Nhà nước – Quốc hội vêề những vấn đề lý lịch Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp; nhưng không biết từ nguồn nào mà được phát tán rộng rãi trên các trang mạng, tư liệu truyền tay v.v… Nhiều công dân là người hưu trí, dân thường, học sinh sinh viên … mà tôi đã được tiếp xúc, trao đổi đều rất bất bình, chê trách bà đã viết những nội dung ấy (dựa trên những lời thầm thì riêng tư của ông Lê Duẩn) nhằm bôi xấu thần tượng Võ Nguyên Giáp trong lòng nhân dân ta và những người có lương tri trên thế giới. Chúng tôi đã đọc vài lần bài viết của bà, xin được có mấy cảm nghĩ.

1. Trước hết, xin lỗi bà, chúng tôi đã dùng từ vợ bé vì trong dân gian gọi vợ bé, vợ lẽ là những người vợ không phải là vợ chính thất; vả lại, trong dư luận thì không biết chồng bà có bao nhiêu người vợ nữa, liệu bà đã phải là vợ hai chưa? (Trong đám tang ông Lê Duẩn, mọi người đều thấy có mấy bà đội mũ tang sau bà chính thất!). Cho nên, cách gọi như vậy chắc cũng không có gì là không phải; mong bà bỏ quá cho.

2. Những nội dung bà đề cập đến trong bài viết đều hoàn toàn không có gì mới (trừ một chi tiết sẽ nói sau). Những luận điệu này đều là của những kẻ xấu bụng, những người ganh ghét với uy danh, tài trí, đức độ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (như Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Trần Quỳnh, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình, Đặng Đình Loan, Nguyễn Bắc Son v.v…) tung ra.

Lợi dụng diễn đàn hội nghị TWĐ 12 khóa 6, họ đã tung ra bản báo cáo tuyệt mật để vu khống trắng trợn và kết tội Đại tướng TTL (báo cáo tuyệt mật này tuy không được BCH TW phê duyệt nhưng họ vẫn cho lưu hành đến cấp Tỉnh ủy và tương đương). Đại tướng TTL và nhiều tướng lĩnh, cán bộ cao cấp đã phản bác tất cả những điều vu khống trên (trong bài viết của bà đã sao chép nguyên văn bài báo cáo tuyệt mật này) và yêu cầu TWĐ điều tra, làm rõ vụ việc, công khai đưa ra trước đại hội VII để đại hội khẳng định đúng, sai; nếu Đại tướng TTL không có những điều vu khống nhơ nhớp đó thì phải truy tội những người đã cố tình đặt điều, lợi dụng quyền lực phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, Nhà nước … Bị đẩy vào thế cùng, họ bịa ra vụ án chính trị “Năm Châu – Sáu Sứ” vu khống Đại tướng TTL và mội số tướng lĩnh, cán bộ cao cấp tội âm mưu lật đổ. Vụ việc đã được Ban chuyên án, đứng đầu là tướng Võ Viết Thanh (Thứ trưởng bộ công an) làm rõ là hoàn toàn bịa đặt, vu khống hèn mạt. Đại hội VII Nguyễn Văn Linh tảng lờ không giải quyết, đùn đẩy cho các đại hội sau. Chính thái độ cố tình vô trách nhiệm của các Đại hội Đảng 7, 8 … và những người đứng đầu Đảng thời bấy giờ đã tạo cơ hội cho bọn có lòng dạ đen tối, nham hiểm trên và tay sai của chúng tiếp tục làm cái việc nhơ bẩn bôi bác thanh danh Đại tướng TTL.

Còn cái chi tiết chúng tôi coi là mới của bà đưa ra trong hàng đống vụ việc vu khống của chúng là lời nói của cậu con út của bà mà bà dùng làm căn cứ để kết tội Đại tướng TTL đã “cướp công”  của chồng bà về mệnh lệnh nổi tiếng “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa” trong chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Một đứa trẻ con chẳng hiểu mô tê ất giáp gì nghe được lõm bõm chuyện người lớn (cứ cho là nó đã được nghe các cụ bàn chuyện!), sau bao nhiêu năm thuật lại, người trí não bình thường ai mà tin được lời nó nói! Một khía cạnh khác, tòa biệt thự ông Lê Duẩn ở đâu nghèo nàn đến nỗi phòng tiếp khách đồng thời là phòng ngủ? Ông Lê Duẩn, một chính trị gia tầm cỡ, sao mất cảnh giác đến mức khi bàn chuyện quốc gia đại sự tuyệt mật lại để người nhà nghe?

Sự kiện này thật ra đã diễn tiến như sau: Sáng ngày 31/3/1975 Bộ chính trị họp mở rộng bàn về đòn chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đại tướng TTL thay mặt Tổng quân ủy – bộ Tổng tư lệnh báo cáo tình hình và phương hướng, sách lược bước tiếp theo. Đại tướng nhấn mạnh: “Thời cơ lớn đã xuất hiện … Đánh một trận là giành thắng lợi. (…) Phương châm phải bám chắc là Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.” Sau khi hội nghị thảo luận và nhất trí hoàn toàn báo cáo của Tổng quân ủy, ông Lê Duẩn đã điện cho các chiến trường quyết định của Bộ chính trị. Trong bức điện, ông đặc biệt nhấn mạnh phương châm hành động “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ.” Ngày 07/4/1975 Đại tướng TTL ra mệnh lệnh! “Thần tốc, thần tốc hơn nữa – Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.” Chỉ thị của Bộ chính trị do ông Lê Duẩn ký và mệnh lệnh chiến đấu do Tổng tư lệnh ký, đó là điều đương nhiên, sao có chuyện tranh giành?

Theo kế hoạch tiến đánh Sàigòn, các cánh quân sẽ đồng loạt nổ súng vào 5 giờ 30 sáng 30/4/1975. Nhưng do diễn biến của tình hình, tướng Lê Trọng Tấn tư lệnh cánh quân phía Đông xin được nổ súng trước, 18 giờ ngày 29/4/1975. Nửa đêm, Đại tướng TTL và cục trưởng cục tác chiến Lê Hữu Đức đến nhà ông Lê Duẩn đề nghị chuẩn y cho cánh quân phía đông nổ súng trước. Ông Lê Duẩn rất tán thành. Theo hồi ký của Đại tướng TTL (và có sự khẳng định đúng của tướng Lê Hữu Đức – Hồi ký), Đại tướng TTL hỏi: “Điện ký tên Anh chứ ?” Ông Lê Duẩn trả lời: “Không! Anh là Tổng tư lệnh, ký tên anh”. Sau đó, ông nói thêm: “ Ký thêm tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với anh Ba và anh Ba nhất trí”. Về cơ quan, Đại tướng TTL điện trả lời ngay cho tướng Lê Trọng Tấn đồng điện cho ông Văn Tiến Dũng. Trên cương vị Tổng tư lệnh chỉ huy toàn bộ cuộc chiến, Đại tướng TTL rất quyết đoán; nhưng với ý thức tôn trọng tổng bí thư, nên đã tranh thủ ý kiến trước khi ra lệnh. Việc làm như vậy là hết sức đáng kính phục, sao bà lại nghe đứa con nít để vu vạ cho Đại tướng TTL “cướp công”.

3. Đọc văn bản này của bà, chúng tôi có cảm nghĩ: hình như người ta viết rồi đưa cho bà ký tên hoặc bà viết theo gợi ý của người ta (!?) Đọc hồi ký của bà (Xuân Ba ghi – thể hiện), chúng tôi thấy cuộc đời tư của bà thật éo le, đáng thương. Thời gian bà được sống gần ông Lê Duẩn (từ 1956 về sau) không nhiều, do sự đố kỵ của các con bà lớn; ông Lê Duẩn không giải quyết được sự xô xát trong gia đình để bảo vệ bà. Vì vậy, tuy hòa bình, có điều kiện sum họp với chồng con, bà vẫn phải sống xa cách chồng con. Ông bà đâu có nhiều thì giờ để trò chuyện riêng tư, để chồng bà tiết lộ những bí mật về quan hệ trong nội bộ Đảng, Nhà nước … nói chung và đối với các cá nhân (như Bác Hồ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Trường Chinh …) nói riêng. Còn tư liệu riêng của ông Lê Duẩn thì chắc các con bà lớn giữ chứ bà làm sao có được?

Giá như, trước khi viết hoặc ký vào văn bản trên, bà đã tham khảo các hồi ký chính trị của các tướng lĩnh như Trần Văn Trà, Hoàng Minh Thảo, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lê Hữu Đức, …, của Hoàng Tùng, Hoàng Đạo Thúy …, các bài phản bác Trần Quỳnh của Nguyễn Trần Thiết, Trần Nhật Độ, Phạm Chí Dũng… thì chắc bà không cho lưu hành văn bản trên.

4. Bản “đơn kiến nghị” của bà, một lần nữa đã làm suy giảm uy tín của ông Lê Duẩn trong công luận xã hội. Chắc bà còn nhớ, khoảng năm 1984, ông Lê Duẩn đã chỉ đạo, hướng dẫn nhà báo Thép Mới viết ký sự “Thời đánh Mỹ”, (đăng nhiều kỳ trên báo Nhân dân) nhằm tụng ca công lao vĩ đại của ông Lê Duẩn, linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước! Bài báo đăng được vài kỳ, gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của công luận cả nước; cho nên mới đăng được vài kỳ thì báo Nhân Dân không dám đăng tiếp! Cũng vào thời gian này, ông Lê Duẩn đã vào Sàigòn tổ chức nói chuyện trực tiếp với cán bộ cao cấp chính trị, quân sự các tỉnh phía Nam. Kết quả hoàn toàn ngược lại, nếu trước đây, nhiều người trong số cán bộ này hết sức kính phục, tôn trọng ông Lê Duẩn thì sau buổi nói chuyện ấy lòng tin yêu của họ đối với ông bị sứt mẻ, đổ vỡ.

Xưa nay, không phải chỉ ở nước ta, công luận xã hội không bao giờ chấp nhận chuyện một người đi nói xấu sau lưng người khác, nhất là người ấy đã từng là đồng chí, cộng sự của mình; và không bao giờ đánh giá tốt một người chồng (hoặc vợ) là cán bộ phụ trách hay cán bộ thường đem chuyện riêng bí mật trong nội bộ cơ quan, đơn vị nói với vợ (hoặc chồng, con cái) trong nhà. Ông Lê Duẩn, cho dù có đem chuyện mà ông cho là xấu về Đại tướng TTL và những lãnh tụ, chiến hữu khác nói với bà thì bà nên giữ kín trong lòng chứ không nên phô ra, chỉ làm tổn hại uy tín của ông Lê Duẩn và bà.

Chúng tôi không đi sâu trình bày những chi tiết trong bài viết của bà (kể cả những vấn đề xem ra khá ấu trĩ, ngây thơ về nhận thức như: Nguyên tắc cao nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ “đánh chắc thắng” do Bác Hồ và thường vụ TWĐ (tức Bộ chính trị) đề ra với việc thay đổi phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh – thắng nhanh” sang “đánh chắc – tiến chắc” và vai trò của cố vấn Trung quốc trong chiến cuộc Điện Biên Phủ; vai trò, vị trí của Bí thư Tổng quân ủy – Tổng tư lệnh trong toàn cuộc chiến Mùa xuân 1975; vai trò ông Văn Tiến Dũng trong chiến dịch ấy v.v…) bởi, đã có quá nhiều tư liệu xác đáng viết về những điều ấy.

Việc Bộ chính trị, TWĐ, Nhà nước, Quốc hội đã quyết định tổ chức quốc tang trọng thể (vượt lên trên sự quy định của Nhà nước) Đại tướng TTL là sự mặc nhiên thừa nhận công tích đặc biệt của Người và hàng vạn vạn người dân đủ cả các tầng lớp đến viếng và tiễn đưa Người; từ ngày Đại tướng TTL mất, hàng ngày có hàng trăm, ngàn người dân cả nước đến viếng mộ Người là sự đánh giá chân xác nhất của ý chí, niềm tin của tuyệt đại bộ quần chúng nhân dân cả nước; là một sự thật lịch sử đúng đắn nhất không ai có thể xuyên tạc, bóp méo.

Trân trọng kính chào bà.

   Hàn Vĩnh Diệp

  (Cán bộ hưu trí ở Đàlạt)

Mời xem lại: Đơn kiến nghị của vợ hai cố TBT Lê Duẩn gửi 16 UV BCT, về ông Võ Nguyên Giáp   —   Vài suy nghĩ về “Đơn kiến nghị” của vợ cố TBT Lê Duẩn gửi 16 UVBCT về ông Võ Nguyên Giáp   —  Người thân của cố TBT Lê Duẩn: Dựa hơi? (Ba Sàm).

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng/Nhà nước | Thẻ: , | Leave a Comment »

2996. Người thân của cố TBT Lê Duẩn: Dựa hơi?

Posted by adminbasam trên 25/09/2014

GS Nguyễn Văn Tuấn

25-09-2014

Thử đọc vài cái tít mới đây trên báo chí từ lề đảng đến lề dân: “Con trai cố TBT Lê Duẩn: Tôi mong dân tộc này sẽ chọn được con đường sáng suốt nhất để bước đi“, “Người vợ Miền Nam của cố Tổng bí thư Lê Duẩn”, và mới đây nhất là “Thư kiến nghị vợ hai của cố tổng bí thư Lê Duẩn” rất nổi tiếng.

Thấy gì qua những cái tít đó? Tất cả những cái tít đó đều gắn liền với một nhân vật nổi tiếng quyền uy một thời (Lê Duẩn). Nhưng người nổi tiếng không phải là đối tượng chủ động của bản tin, mà là vợ ông ta hay con trai ông ta. Hiện tượng này người dân gọi là “dựa hơi”. Có thể đương sự không dựa hơi, nhưng rất có thể là báo chí muốn đặt cái tít như thế để thu hút độc giả.

Đọc tiếp »

Posted in Báo chí, Chính trị, Văn hóa, Xã hội, Đảng CSVN | Thẻ: , | 3 Comments »

2991. Tướng Giáp và ‘lá thư bà Bảy Vân’

Posted by adminbasam trên 24/09/2014

BBC

24-09-2014

H1Một lá đơn được cho là của người vợ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đang lưu truyền trên mạng Internet vào dịp một năm ngày mất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Văn bản gây ra nhiều tranh cãi trong bối cảnh việc dùng quá khứ cuộc chiến Việt Nam vẫn còn được sử dụng cho các mục tiêu hiện thời.

Lá thư của người ký tên là Nguyễn Thị Vân (thường được biết đến với tên Bảy Vân), nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng, là vợ thứ hai của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Nhưng văn bản này, kể cả có được xác thực, cũng chỉ là một bằng chứng nữa minh họa thêm cho điều giới nghiên cứu đã mô tả là ‘cuộc chiến quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam’ thời kỳ bắt đầu cuộc chiến với Hoa Kỳ, đặc biệt giữa nhóm của ông Lê Duẩn và ông Võ Nguyên Giáp. Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Chiến tranh VN, Đảng CSVN | Thẻ: , | 2 Comments »

2988. Vài suy nghĩ về “Đơn kiến nghị” của vợ cố TBT Lê Duẩn gửi 16 UVBCT về ông Võ Nguyên Giáp

Posted by adminbasam trên 24/09/2014

Trường Sơn

23-09-2014

H1Tôi rất ngạc nhiên pha chút tò mò khi đọc được lá đơn kiến nghị được cho là của bà Nguyễn Thị Vân [1], là vợ của cố TBT Lê Duẩn gửi tới 16UVBCT về “lai lịch” của ông tướng Võ Nguyên Giáp. Nếu quả thật đây là lá thư của bà Vân, tôi xin nêu một số suy nghĩ của mình sau khi đọc xong đơn kiến nghị này.

Có lẽ suy nghĩ của tôi cũng chỉ là suy nghĩ cá nhân của một thường dân về một vấn đề cũng thuộc dạng “nhạy cảm” hay thâm cung bí sử trong nội bộ những người lãnh đạo cao nhất của Đảng CSVN. Tuy nhiên, tôi thấy cần thiết phải bày tỏ vì nó có nhiều điều tôi cho là vô lý, thậm chí là mâu thuẫn so với những thông tin tôi được biết qua những kênh chính thống và không chính thống của chính quyền.
Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Hồ Chí Minh, Đảng CSVN | Thẻ: , | 6 Comments »

2982. Đơn kiến nghị của vợ hai cố TBT Lê Duẩn gửi 16 UV BCT, về ông Võ Nguyên Giáp

Posted by adminbasam trên 22/09/2014

FB Ngàn Sâu Trần

Đôi lời: Một độc giả gửi tài liệu này, nhưng không có điều kiện kiểm chứng có phải của bà Nguyễn Thị Vân hay không, nhưng theo nhà văn Vũ Thư Hiên: “Người gửi cho tôi văn bản này cho biết: người trong gia đình Bảy Vân xác nhận nó là thật, và cả nhà đồng ý với nội dung ấy. Không biết thực hư ra sao, nhưng theo tôi, nó giống thực trong bối cảnh cuộc đấu tranh giành quyền lực và danh vọng (tính luôn hư danh vào đấy) nơi đỉnh cao trí tuệ“.

22-09-2014

Thể theo mong muốn của nhiều bạn đọc về nguyên bản thư kiến nghị của vợ hai cố Tổng bí thư Đảng CSVN Lê Duẩn, chúng tôi xin đăng tải bản gốc thư kèm chữ ký của bà Vân:

H1 Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Đảng/Nhà nước | Thẻ: , | 13 Comments »

2963. Mô hình “nghiên cứu khoa học” thời Lê Duẩn

Posted by adminbasam trên 15/09/2014

GS Nguyễn Văn Tuấn

15-09-2014

H1Đọc cuốn “Đèn cù” đến Chương 9 thấy tác giả kể một câu chuyện liên quan đến suy nghĩ của ông Lê Duẩn về dinh dưỡng và rau muống mà chỉ biết phì cười. Chuyện kể như sau:

(Bắt đầu trích): Nhân nhắc đến Lê Duẩn thời gian này [1], xin kể tiếp một việc cũng vào sổ tay tôi lúc ấy. Ban văn hoá của báo cho biết anh Lê Duẩn quan tâm đến đời sống dân lắm. Anh đã hỏi kỹ anh Phạm Ngọc Thạch [2] rằng một bát cơm ăn với rau muống luộc có khác một bát cơm ăn với rau muống xào không. Khi nhờ phân tích khoa học cao siêu, (tôi ngứa tay thêm mấy chữ này vào đây) biết là có khác nhau… ”cơ bản” thì anh Duẩn đã chỉ thị hãy cố sao cho “về cơ bản” dân ta được ăn nhiều rau muống xào mà “cơ bản” bớt luộc đi. Nói “về cơ bản” vì phấn đấu cho có thêm mấy triệu thìa mỡ mỗi ngày “về cơ bản” không dễ!… Tôi nghĩ ngay việc gì phải Phạm Ngọc Thạch nghiên cứu, cứ bày lên bàn ông Duẩn hai dúm cơm, một rang mỡ, một không là ý kiến nó cho ý kiến nó ngay không phải chờ Phạm Ngọc Thạch chỉ thị cho ngành y tế. (Hết trích).

Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Khoa học, Đảng CSVN | Thẻ: | 2 Comments »

2416. Trung Quốc: Bắn một mũi tên trúng nhiều cái đích…

Posted by adminbasam trên 06/03/2014

Bauxite Việt Nam

Trung Ngôn

Là người VN, chỉ những người bẩm sinh chẳng may vừa mù, vừa câm lại vừa điếc mới không nhận ra rằng: TQ không bao giờ từ bỏ mưu đồ biến VN thành “chư hầu” của “thiên triều” Đại Hán. Đúng như người đứng đầu ĐCSVN, ông Lê Duẩn – cố TBT đảng – đã từng khẳng định: “TQ là kẻ thù truyền kiếp của nhân dân VN”. Đây là sự khẳng định một chân lý đã được thực tiễn chứng minh qua hàng ngàn năm lịch sử cho tới hôm nay, tại giờ phút này. Với tôi, những ai nghĩ ngược lại dứt khoát đó là kẻ vong quốc.

Đọc tiếp »

Posted in Biển Đông/TS-HS, Quan hệ Việt-Trung, Đảng/Nhà nước | Thẻ: , , , , , | Chức năng bình luận bị tắt ở 2416. Trung Quốc: Bắn một mũi tên trúng nhiều cái đích…

2315. Lại nhớ ngày 17-2-1979

Posted by adminbasam trên 11/02/2014

Võ Văn Tạo

Cuối 1978 – đầu 1979, tin tức chính thống trên đài, báo và truyền miệng trong dân về việc Trung Quốc gây hấn, xâm lấn, sát hại  quân và dân ta, cướp phá dọc biên giới Việt – Trung làm nhiều người nặng lòng suy tư. Là bộ đội chuyển ngành về học tại Đại học Ngoại thương Hà Nội, tôi cũng rất băn khoăn, không thể lý giải vì sao một nước XHCN, do đảng cộng sản cầm quyền, lại gây chiến với Việt Nam – tiền đồn vinh quang của cả khối XHCN?

Đọc tiếp »

Posted in Quan hệ Việt-Trung, TQ xâm lược '79 | Thẻ: , , , , | Chức năng bình luận bị tắt ở 2315. Lại nhớ ngày 17-2-1979

1874. Việt Nam thiếu vắng lãnh tụ?

Posted by adminbasam trên 03/07/2013

Phạm Dzũng

Tháng 6-2013

I-Những lãnh tụ của “Bên thắng cuộc” –

Đọc xong Bên Thắng Cuộc (Huy Đức, OsinBook 2012), ai lại không khỏi ngậm ngùi trước những mất mát to lớn của dân tộc mình, những đau khổ thê lương của người dân Việt trong gần 200 năm, kể từ ngày Pháp thôn tính cả nước Việt làm thuộc địa cho tới nay, gần 40 năm sau khi CS miền Bắc toàn thắng và chiếm trọn miền Nam. Ai là người biết suy tư lại không lo sợ cho viễn ảnh đất nước ngày càng tiếp tục tụt hậu, tức tối cho những sai lầm to lớn không tha thứ được của nhà cầm quyền CSVN từ sau khi thống nhất cả nước 1975 cho tới nay.

Đọc tiếp »

Posted in Chính trị, Lịch sử, Đảng/Nhà nước | Thẻ: , , , | 58 Comments »

105. TBT Lê Duẩn: về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam

Posted by adminbasam trên 14/06/2011

Đôi lời: Để hiểu thêm thực chất mối quan hệ Việt-Trung trong mấy chục năm nay, không còn chút mơ hồ nào nữa, đặc biệt trước rất nhiều hành động gây hấn trắng trợn của Trung Quốc trong thời gian gần đây, xin giới thiệu một tư liệu cá nhân nho nhỏ của cố TBT Lê Duẩn khi sinh thời, và một bản dịch từ tư liệu nước ngoài, bài phát biểu của ông về “tập đoàn phản động Trung Quốc”, cùng với đoạn trích Hiến pháp 1980 liên quan tới Trung Quốc.

1) Đây là bản chụp vài dòng bút ký cá nhân, như tự dặn với riêng mình, của cố Tổng bí thư BCHTW ĐCSVN Lê Duẩn năm 1978, một năm trước khi Trung Quốc đưa quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc VN, được lưu trữ trong kho tư liệu riêng của gia đình ông. Đoạn này đề cập tới quan hệ với Trung Quốc.

Ông viết: “Phải xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân phải giàu mạnh và hùng cường. Đó là vì vị trí lịch sử và địa dư của Việt Nam. Không thể khác được. Vì chúng ta ở bên cạnh một nước mà lịch sử của nước đó chưa ra khỏi cuộc sống người ăn thịt người”.

Không nghi ngờ gì nữa, đó là ám chỉ tới người láng giềng Trung Quốc, đất nước với lịch sử từng có tập tục “người ăn thịt người” mà chính Văn hào Lỗ  Tấn đã đề cập tới nhiều lần trong tiểu thuyết Nhật ký người điên. (Mời xem thêm: Ăn thịt đồng loại – Wikipedia). Đương nhiên, qua nội dung này và bài phát biểu của ông, cũng như Lời nói đầu trong bản Hiến pháp 1980, sự đánh giá đó không phải với tuyệt đại bộ phận người dân Trung Quốc.

Cũng không có gì khác biệt trong tinh thần của nội dung trên với quan điểm cứng rắn của vị lãnh đạo cao nhất trong Đảng CSVN trong suốt một thời gian dài đối với nhà cầm quyền Trung Quốc.

Như bao nhiêu bậc quân vương khác, không thể tránh được những mặt yếu, mạnh, hay, dở trong lúc trị vì, nhưng riêng cách nhìn và thái độ đối với người láng giềng phương Bắc, cố TBT Lê  Duẩn là vị lãnh đạo kiên quyết và rõ ràng nhất, như bao nhiêu thế hệ ông cha đã từng răn dạy.

2)  HIẾN PHÁP  NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1980, Lời nói đầu (Trích): “Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Cam- pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.”

3) Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam:

(Trích): “Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”

Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!

Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.

Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.

Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!

Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!

 Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?

Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.”

CWIHP

Bài phát biểu của Lê Duẩn năm 1979

Người dịch: Ngọc Thu 

Mô tả: Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam.

 Nguồn: Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Tài liệu do Christopher Goscha có được và dịch cho CWIHP.

Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, thì họ sẽ tấn công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).

Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, thì  các tỉnh [Bắc Trung Bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì nếu vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì tình hình sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là người Việt Nam, thì sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, cả thế giới còn lại đều sợ Mỹ …

Mặc dù Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên chỉ với mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ. Sau khi cuộc chiến kết thúc [ở Triều Tiên] và khi áp lực lên Việt Nam, ông ta (chỗ này hình như nói đến Chu Ân Lai khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói rằng, nếu Việt Nam tiếp tục chiến đấu, thì sẽ phải tự lo liệu. Ông ta sẽ không giúp thêm nữa và gây áp lực với chúng ta để ngừng chiến đấu.

Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva, rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn]. [Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.

Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một tình huống rất nguy hiểm [theo cái nhìn của Trung Quốc]! Ngay lập tức, Việt Nam đã phải làm việc với người Mỹ [liên quan đến vấn đề này]. Mao đã bức hiếp chúng ta bằng cách này và chúng ta đã phải làm điều đó.
Sau đó, khi hai tỉnh này đã được chuyển cho Viêng Chăn, những tên phản động [Lào]  ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch Lào từ năm 1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đã có thể thoát khỏi sự [bao vây]. Lúc đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến hành chiến tranh du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề này với chúng ta. Tôi nói với họ: “Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp tục gây áp lực với Lào bằng cách này, thì lực lượng của họ sẽ hoàn toàn tan rã. Bây giờ họ phải được phép tiến hành chiến tranh du kích“.

Trương Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là Tổng Thư ký [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời tôi: “Vâng, các đồng chí, điều các đồng chí nói đúng. Hãy để chúng tôi cho phép tiểu đoàn đó của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích“.

Ngay lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: “Các đồng chí, nếu các đồng chí cho phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, thì không có gì phải sợ việc phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì làm cho các đồng chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như thế?”

Ông ta [Trương Văn Thiên] đã nói: “Không có gì phải sợ!”

Trương Văn Thiên đã nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei, Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam lúc đó, đã ngồi ở đó và nghe điều đã nói. Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương Văn Thiên đã nói). Ngay lập tức, Mao trả lời: “Việt Nam không thể phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Việt Nam phải nằm chờ trong một thời gian dài!” Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh Mỹ nếu không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ, đúng không?

Tuy nhiên, chúng ta đã không đồng ý. Chúng ta đã bí mật tiếp tục phát triển lực lượng. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam, chúng ta đã ban hành lệnh thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đã được lập và nắm quyền [từ chính phủ Diệm]. Chúng ta đã không chú ý [đến Trung Quốc].

Khi cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi đi Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình đã nói với tôi: “Đồng chí, bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống“. Đó là áp lực mà họ đã áp đặt lên chúng ta.

Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều đó. Tôi sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống“.

Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác.

Chúng tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập của quân đội Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.
Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.

Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.

– Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.
Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ“. Ông ta gây áp lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi mỗi khi tình huống như thế phát sinh [với Trung Quốc].

Chúng tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến lời khuyên của Hồ Wei không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris. Chúng tôi phải làm cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã thông báo [với Mỹ]: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa vào Việt Nam, tùy các ông“. Trung Quốc nhất trí điều này và đã gây áp lực với chúng tôi bằng cách đó.

Họ (Trung Quốc) đã trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc chúng ta phục vụ như là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện] rút quân [ở miền Nam Việt Nam]. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận vấn đề này.

– Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận về vấn đề Việt Nam, do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí“.

Tôi trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đã nêu ra vấn đề nghiêm trọng và vì thế tôi phải nói:

– Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện Biên Phủ, tôi đã ở [tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đã điện nói với tôi rằng, tôi phải vào miền Nam để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào ra chào đón tôi vì họ nghĩ rằng chúng tôi đã giành chiến thắng. Đau đớn vô cùng! Nhìn đồng bào miền Nam, tôi đã khóc. Vì sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến và tàn sát [người dân] một cách khủng khiếp.

Khi vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đã điện cho Bác Hồ để xin ở lại [miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh thêm mười năm nữa hoặc hơn. Đồng chí đã gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn nói đến vai trò của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam tại Geneva năm 1954), đồng chí có biết không“?

Chu Ân Lai nói: “Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi đã sai. Điều đó tôi sai” (muốn nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva). Sau khi Nixon rời khỏi Trung Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí rồi. Chẳng bao lâu nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi thậm chí còn mạnh hơn“.

Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đã thương lượng với nhau để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu Ân Lai) đã không bác bỏ quan điểm này là vô căn cứ và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng đạn cho các đồng chí“.

Sau đó ông ta (Chu Ân Lai) nói (về mối lo ngại âm mưu bí mật Trung – Mỹ): “Không có điều đó“. Tuy nhiên, hai bên đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế.
– Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với nhau, thì Hoa Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi hai [cường quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối lập là khối xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.

Mỗi năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ (lãnh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về phía Liên Xô, tôi không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói rằng cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn đề này. Tôi đã đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô.

Họ đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh đã đến và nói với tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là nhân dân tệ] mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.

Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]”.

Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung Quốc) lắng nghe chúng tôi đến, hình như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm “không từ bỏ phe xã hội chủ nghĩa”, họ đã không nghe… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về tài liệu của chính tôi, tôi muốn nghe ý kiến ​​của các đồng chí, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm này của các đồng chí“.

Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”

Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!

Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.

Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.

Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!

Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!

Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?

Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.

Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều, không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.

Mười năm trước, tôi đã triệu tập các anh em trong quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc, họ đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng này, các đồng chí phải nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không hiểu ý tôi, nên tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng cách nào khác. Và tôi đã không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.

Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi họp này] không chỉ đơn giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đã không đi.

Liên Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn toàn không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hãy hiểu cho tôi“.

Tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và tranh luận ​​khác nhau. Chu Ân Lai đồng ý việc hình thành một mặt trận với Liên Xô để chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng: “Bất cứ khi nào có ai đó tấn công Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn“. Đó là vì đã có một hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).

Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: “Trong bức điện gửi đến Liên Xô gần đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại sao các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai nói: “Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó. Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]”. Bành Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Quan điểm này cực kỳ chính xác!” Nhưng khi vấn đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng chí thấy nó phức tạp như thế nào.

Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông ta dù sao cũng đồng ý xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã giúp Việt Nam rất nhiều. Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những gì đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: “Tôi đang làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ cho các đồng chí“. Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng Li Chiang, để giúp người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.

Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh đạo khác của Trung Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ khác nhau nhiều thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.

Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lãnh đạo hiện tại của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, [sự thật của vấn đề là] họ đã tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu Bình đã làm hai điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, nhiều [lãnh đạo] Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, dù sao Đặng Tiểu Bình cũng chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay lập tức ông ta đã bị những người khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn và tôi đã gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn đề lãnh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta ở gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rõ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý, nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đã tấn công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.

Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các đồng chí sẽ hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là vì mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe dọa như thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì một đội quân lớn.

(B) (Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không rõ ràng) – Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.

Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lý do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng tôi đã nói: “Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam“. Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm“. Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến mức độ đó…

Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …

Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù tiến lên, thì chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính, và chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người Trung Quốc ở thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại họ.

Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng ta đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].

Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du kích…

Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:

Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?

Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.

– Chú đã thấy gì?

Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.
Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Lòng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược phòng thủ. Mọi người dân chiến đấu.

Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì chiến lược tấn công của chúng ta.

Đế quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một cuộc chiến dài. Họ rất mạnh, nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là những mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì điều này], họ đã tấn công chúng ta mạnh như thế.

… Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian dài để làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó, Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.

Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đã làm“.

… Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh“.

Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000 quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người đã chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng … Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).

… Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.

Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông“.

… Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …

Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để đánh chúng ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.

Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.

Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công trình phòng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.

Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giánh một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.

– Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả hai điều này.

– Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.

Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do … Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.

– Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý. Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ Chính trị hồi đó.

Mặc dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các buổi thảo luận như thế và mọi người đồng lòng, sau này có một người đã nói với một đồng chí điều mà tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lý do gì mà Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, thì chúng ta không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?

Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có cảm tình với Trung Quốc, đứng lên và nói: “Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ, lời phát biểu của anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần phải sợ Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng ta đánh…

Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu Bình quy định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được đánh ở mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói: “Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm về việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn“. Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.

– Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.

Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.

– Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …

– Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều này.

… Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.

Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này, người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như thế.

Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100 năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.

Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến ​​thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã và đang tấn công chúng ta [cách nay] mười năm hoặc hơn. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979].

Nguồn: Wilson Center

Posted in Chính trị, Quan hệ Việt-Trung, TQ xâm lược '79, Trung Quốc | Thẻ: | 130 Comments »

 
%d người thích bài này: