BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

Archive for the ‘Bài của Ba Sàm’ Category

1625. Đảng Xanh không tham chính

Posted by adminbasam trên 20/02/2013

Đôi lời: Tiếp nối bài “Marx đã đúng: Chủ nghĩa tư bản đang giãy chết!”, dưới đây là bài thứ 2 liên quan tới chủ đích thử đặt mình vào địa vị “người nhà nước” để biện hộ cho những chủ trương, đường lối của ĐCS và nhà nước VN từ nhiều năm qua. *

Đảng Xanh không tham chính

Ba Sàm

1. Khơi mào

Có hai cây viết quen thuộc trên trang này, thấy BS hay quan tâm chuyện môi trường, và hình như họ cũng muốn nhắn nhủ một điều gì đó, đã nửa đùa nửa thật: “Lập cái đảng Xanh đi!” **

Đọc tiếp »

Posted in Bài của Ba Sàm, Dân chủ/Nhân Quyền, Môi trường, Pháp luật, Phản phản biện, Đảng/Nhà nước | Thẻ: , , | 37 Comments »

1593. Marx đã đúng: Chủ nghĩa tư bản đang giãy chết!

Posted by adminbasam trên 03/02/2013

Đôi lời: Như đã từng trình bày trong tham luận “Đặc khu Thông tin” tại Hội thảo “Tác động của truyền thông xã hội lên tác nghiệp báo chí” và bài “Phản phản biện”, với ý tưởng muốn tìm cách giúp cho các cơ quan tuyên truyền của đảng, chính quyền mở lối thoát, tranh luận một cách sòng phẳng, bớt đi lối quy chụp, một chiều với những phản biện của người dân, chúng tôi mạo muội thử đặt mình vào vị thế của “người nhà nước” để bảo vệ cho những luận điểm của họ, qua các bài viết đề cập tới nhiều vấn đề đang được dư luận quan tâm.

Đương nhiên, trong mỗi bài đều có ít nhiều quan điểm riêng của người viết, được lồng trong những vấn đề mà chính quyền cần có cách đối thoại với dân.

Do chưa mở thêm một blog riêng như đã nói, nên những bài ở dạng này sẽ được chúng tôi lần lượt đăng tải trên trang Ba Sàm. Hy vọng còn có các bài viết khác của “người nhà nước” hoặc “đóng vai”, cùng những tranh luận, ý kiến đóng góp của độc giả.

 

Marx đã đúng: Chủ nghĩa tư bản đang giãy chết!

Có điều, cái “đúng” của ông chỉ là may rủi.

Ba Sàm

Trong suốt hơn 20 năm qua, kể từ khi hệ thống XHCN sụp đổ hàng loạt ở Liên Xô và các nước Đông Âu, những lý luận gia ủng hộ nhiệt thành cho chủ thuyết cộng sản của Marx đã dần dần phải hạ giọng, chỉ còn luẩn quẩn với vài ba lời tự an ủi, rằng thoái trào chỉ có tính tạm thời. Họ lại càng lúng túng hơn khi các quốc gia cộng sản còn lại như Trung Quốc, Việt Nam cũng đã phải chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường TBCN, kể cả Cuba quá quẫn bách đã phải thử nghiệm theo với vài bước dò dẫm ban đầu.

Đọc tiếp »

Posted in Bài của Ba Sàm, Phản phản biện, Đảng/Nhà nước | Thẻ: | 147 Comments »

KÍNH BÁO: THAY ĐỔI TẠM THỜI TRÊN BLOG BA SÀM TỪ NGÀY 1/10/2012

Posted by adminbasam trên 20/09/2012

20-9-2012

Có những thế lực quá bực dọc và kém hiểu biết đã vội lập luận nguy hiểm rằng QLB với Ba Sàm có mối liên hệ. Một, hai blogger “gián điệp mạng” đã không cần che đậy, cũng lên tiếng phụ họa. Thậm chí, theo một nguồn tin riêng của BS, thì cái “nhóm lợi ích” này còn ngờ BS liên hệ với blog Cầu Nhật Tân nữa.

Thưa quý độc giả,

Mục tiêu của blog BS trong suốt 5 năm qua là nhằm góp phần nâng cao dân trí, tìm phương cách mở rộng quyền tự do thông tin trong phạm vi có thể, mà bài Ba Sàm 5 tuổi-Tâm sự và tri ân mới đây cũng đã nói rõ thêm. Để đi đúng mục tiêu này, theo nguyện vọng đại đa số độc giả, nhưng lại cần tránh thái độ, hành động cản trở của những thế lực muốn kìm hãm quyền tự do tối thiểu của người dân, muốn duy trì tình trạng “ngu dân”, là điều không dễ. Đọc tiếp »

Posted in Bài của Ba Sàm, Báo chí, Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Mạng tự do, Mạng xã hội, Đảng/Nhà nước | Thẻ: , | 2 Comments »

Yêu nhạc vàng: Máu và nước mắt / Nhạc: đỏ, xanh, vàng, đen, …

Posted by adminbasam trên 12/08/2010

Yêu nhạc vàng: Máu và nước mắt

Nguyễn Tuấn Ngọc

 

Với nhiều người Hà Nội, ‘vụ án Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử về tội truyền bá văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền phản cách mạng và chống lại các chính sách pháp luật của nhà nước’, họ vẫn chưa quên được.

Người đàn ông Nguyễn Văn Lộc năm xưa trong vụ án này bây giờ là chủ quán Lộc Vàng tại ven đường Hồ Tây (Hà Nội).
Hồi đó anh Lộc và những người bạn vì quá mê nhạc tiền chiến nên đã thành lập nhóm nhạc để tụ tập hát nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Đặng Thế Phong,…và các nhạc sỹ miền Nam như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng…

Ngày 27/3/1968, nhóm nhạc anh bị bắt và tạm giam ở Hỏa Lò 3 năm. Vào các ngày 6,7,8 tháng 1 năm 1971 Tòa án nhân dân Hà Nội mở phiên toà xét xử gồm 7 thành viên. Tòa tuyên án Toán ‘xồm’ 15 năm tù, Nguyễn Văn Đắc 12 năm tù, anh Lộc 10 năm tù… sau khi hiệp định Paris được ký kết, anh Lộc được giảm án xuống còn 8 năm tù. Năm 1976 anh ra tù.

Anh Lộc thương nhất là anh Toán ‘xồm’ ra tù, mất hết tất cả, không nơi nương tựa, sống nhờ cậy bàn bè và sau đó anh nằm chết ở vệ đường vào năm 1994.

Ra tù anh Lộc đi làm phụ hồ, nhưng tình yêu nhạc vàng, nhạc tiền chiến không hề nguội lạnh.

Anh quyết định mở quán Lộc vàng để hát dòng nhạc một thời được coi là ‘phản động’, nhưng anh coi đó là những tác phẩm quý hơn vàng. Bây giờ quán luôn đông khách và hằng đêm 3, 5, 7 dòng nhạc này vẫn cất vang với giọng hát đã đi qua âm nhạc Việt Nam với biết bao khổ đau. Máu và nước mắt.

Khi nhắc đến người vợ mình, anh Lộc đã khóc. Người vợ đã mất vào năm 2002 và để lại cho anh 2 đứa con tiếp tục theo nghiệp âm nhạc. Người vợ đã yêu anh trước khi anh bị bắt và chờ đợi anh trong 8 năm ngồi tù để cưới anh. Anh Lộc nói anh phải đi vào Quy Nhơn để làm thuê kiếm tiền về cưới vợ. Anh nói không bao giờ anh gặp lại được một người phụ nữ như thế: hy sinh cả cuộc đời cho một người đàn ông như anh. Anh coi vợ anh là ‘ người hùng’.

Vợ anh luôn thích anh hát bài ‘Niệm khúc cuối’ của Ngô Thụy Miên, và bây giờ anh không thể hát được bài hát đó nữa, vì khi anh cất lên thì anh lại vỡ òa khóc nức nở.

Tôi chưa nghe người nào hát nhạc phẩm ‘Gửi Người Em Gái’ của Đoàn Chuẩn- Từ Linh hay bằng anh. Một giọng hát quá trữ tình và sâu lắng. Anh đã hát đúng bản gốc của tác phẩm này, vì anh cho biết nhạc phẩm đang được thu âm và hát lại bây giờ đã bị thay lời quá nhiều, nhất cả khi các ca sỹ hải ngoại hát.

Hàng ngày, người đàn ông này vẫn hát lại những ca khúc cũ của một dòng nhạc đã đi qua bầu trời văn nghệ Việt Nam với biết bao trầm luân. Nó cũng giống như số phận của anh Lộc khi trót mang kiếp cầm ca.

Tôi tự hỏi trong đám văn nghệ tào lao và khoe mẽ trên truyền thông hôm nay, có mấy ai có được phẩm giá và đam mê âm nhạc như anh Lộc?

(Người Việt / blog Face Book Nguyễn Tuấn Ngọc)

—————————-

 

Nhạc: đỏ, xanh, vàng, đen, …

Nguyễn Hữu Vinh

 

Đó là về 4 “dòng” ca khúc ở ta một thời mà không biết có nên tự hào rằng chẳng có nước nào trên thế giới lại có được sự phong phú theo cái lối đó. Sự “phong phú” vương vấn hình ảnh “nồi da xáo thịt” (mà lại vương vào trong thơ ca mới đau chứ). Thiết nghĩ không thể không nói, chúng ta cứ tránh né mãi, tránh né nhiều chuyện quá, làm sao mở rộng cửa mà “ra biển lớn” được.

1. Mở cuốn Từ điển tiếng Việt thì chỉ duy nhất nhạc vàng được cắt nghĩa, là thứ “nhạc bi lụy“[1]. Nghe không ổn. Bực mình mua một quyển đời mới hơn, thì được “cập nhật” một nghĩa mới nữa là “có giai điệu buồn“[2]. Nghe càng tệ (dễ lẫn với cả nhạc … “đỏ” chứ chả chơi – như cái bài “Hồn tử sĩ” chẳng hạn, lễ tang các vị cấp cao là đều cử hành); mà dẫu có phải bổ sung thêm rằng khái niệm đó chỉ “sống” có một thời – thời chiến tranh 1954-1975, chủ yếu được các nhạc sĩ phía Nam sáng tác, thì cũng vẫn không thể đầy đủ cho cái sự “phức tạp” của nó. Vì nếu đi vào phân tích cái chất nhạc rất đặc biệt không lẫn đi đâu được của thể loại này thì phải giành cho các nhà chuyên môn.

2. Còn khái niệm nhạc đỏ, có lẽ là trong dân gian, để nói tới thứ nhạc có lời ca ngợi đất nước, “tăng gia sản xuất”, cách mạng, đảng, lãnh tụ, có yêu đương cũng gắn với lao động, chiến đấu … và tất tật những gì minh chứng rằng chế độ ta tươi đẹp; mà nhạc điệu thì đương nhiên là phải phù hợp với lời rồi, vui cùng vui, buồn cùng buồn (vẫn phải là điệu buồn bi tráng). Nhưng cẩn thận hơn, giở lại cuốn Từ điển đời mới, thì đã có thêm khái niệm nhạc đỏ, là “nhạc thường có âm điệu sôi nổi, mạnh mẽ, có nội dung ca ngợi tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc“2. Đơn giản thế là cùng. Thật là tiếc cho các nhà từ điển học dày công biên soạn cả chục năm !

3. Thế còn nhạc xanh ? Cái tên này cũng trong dân gian thôi, có lẽ đó là thứ nhạc về tình yêu đôi lứa, “mây gió trăng hoa” … linh tinh, mà lời ca không “động” tới những gì thuộc về … nhạc đỏ, nét nhạc cũng không có cái “bi lụy” đặc thù như nhạc vàng. Vậy mà một thời cũng ít nhiều bị “hạn chế”, vì dễ làm sao lãng tư tưởng cách mạng trong thanh niên, những người lính ra trận.

4. Nhạc đen ? Quả tình đây là khái niệm mà người viết bài này mạo muội đưa ra để chỉ tất cả những ca khúc chưa được các nhà quản lý “duyệt” cho … “sinh” hoặc “phục sinh”. Nên tới tận hôm nay, sau hơn 30 năm chiến tranh kết thúc mà ta vẫn chưa được thưởng thức hàng chục ngàn ca khúc – những đứa con tinh thần của các nhạc sĩ tài năng như Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, … – vì chúng vẫn đang nằm trong “bóng tối”. Nhưng vẫn phải nói cho rõ vì sao có những hai loại muốn được “sinh” và “phục sinh”. Đó chính là những ca khúc của các nhạc sĩ sống dưới chế độ Sài Gòn trong khoảng những năm 1954-1975 (cần “phục sinh”) và các nhạc sĩ ở hải ngoại sau 1975 (cần “sinh” … trong nước).

5. Nhưng, có chia như vậy mà thấy vẫn không ổn. Vì cũng có thể có người bảo: đã gọi là “đen” thì phải là thứ “phản động”. Còn không “phản động”, nhưng có “vấn đề”, chưa được duyệt thì phải gọi là “xám” chứ.Và như vậy thì phải có tới năm, bảy “dòng” nhạc chứ chả chơi. Người khác lại cãi: phân loại kiểu đó là kiểu”chính trị”, phi nghệ thuật … Càng rắc rối hơn nếu như có một nhạc sĩ hải ngoại nào đó (nhất là diện có lý lịch “xấu”) lại nổi hứng sáng tác một bài hát cực kỳ “đỏ” vào, thì không biết liệu có được … duyệt, đưa vào danh sách nhạc đỏ để lưu hành trong nước không ? Chưa hết ! Lại có người muốn phát hành cái đĩa CD gồm những ca khúc thuộc diện “đen”, “xám” nhưng người ta lại chơi nhạc không lời thôi (không hát) thì sao ? Cái “phản động” là nó ở trong lời ca chứ có phải do điệu nhạc đâu. Còn nếu sợ có tên bài “mang nội dung phản động” thì người ta chọn những bài có tên “không phản động” thì sao ? v.v.. Chà … quá là rối rắm phải không quý vị ? Nếu có nhiều kẻ thích sinh sự như kẻ viết bài này thì chắc các “quan văn hóa” phải xin bỏ hết chế độ kiểm duyệt đi mất. Mà không rõ cái chế độ kiểm duyệt của ta có cái “ba-rem” gì không, như lối chấm bài văn bao năm nay mà nhà văn Nguyên Ngọc [3] vừa mới “than Trời” ấy ? Giả sử có “ba-rem”, thì liệu có được xây dựng nên một cách nghiêm cẩn, chí ít bởi các nhà chuyên môn về âm nhạc, chứ không phải được tuỳ ý quyết định chỉ bằng vài ba cán bộ quản lý ? Còn nếu không có thì đã rõ là trong lĩnh vực âm nhạc này còn đáng phải “đổi mới” không thua gì là chuyện giáo dục ấy chứ. Chẳng nói đâu xa, như trong điện ảnh, cách nay hơn 20 năm, bộ phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai đã phải “lên” đến các cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước để quyết định có được công chiếu hay không.

6. Còn nếu có ý thức nghiên cứu mang tính học thuật, lịch sử, gạt sang một bên những thiên kiến chính trị, thì không thể bỏ qua bất cứ thể loại âm nhạc nào nêu trên. Cùng với nhiều hiện tượng văn hóa khác, âm nhạc hiện đại của nước ta đã có bước nhảy vọt khác thường chỉ trong khoảng nửa thế kỷ, do chịu ảnh hưởng của trào lưu âm nhạc phương Tây, nhưng lại vẫn hòa quyện rất rõ với âm hưởng nhạc dân tộc. Ví như nhạc vàng, không biết đã có ai đi sâu nghiên cứu về nét gần gũi của nó với nhạc cải lương (đơn giản, dễ hát, âm điệu buồn phương Nam, nhưng không phải lúc nào cũng “uỷ mị”, hoặc thậm chí có “uỷ mị” nhưng lại thấy yêu đời hơn) ? Hay với nhạc đỏ, khó lý giải được vì sao trong đó có rất nhiều ca khúc tuy chất “chính trị” rất “nặng”, nhưng chất “nghệ thuật” vẫn cao, từ giai điệu cho tới hòa âm không khác gì những bản aria (có khi lại đầy chất dân tộc, vừa “tây” vừa rất “ta” nữa) mà lời ca cũng rất thơ. Nó đã đóng vai trò là một công cụ tuyên truyền rất mạnh. Càng khó lý giải hơn (?) khi chỉ sau năm 1975 không lâu, hầu như vắng bóng những ca khúc có được “đẳng cấp” nghệ thuật như vậy; nhiều nhạc sĩ cố công sáng tác phục vụ công tác tuyên truyền nhưng vẫn chẳng thể nào có được tác phẩm đáng để “đi vào lịch sử”. Một ví dụ dễ thấy là đợt vận động sáng tác quốc ca cách đây hơn 20 năm chẳng hạn, đủ các điều kiện thuận lợi, các giải thưởng chờ đón, thế mà chẳng có được bản nào sánh nổi với bản Tiến quân ca. Phải chăng đã có một “cơ duyên” lịch sử không bao giờ được lặp lại, khi mà cùng lúc, một thế hệ những nhạc sĩ, họa sĩ, nhà văn, thơ … Việt Nam phát lộ tài năng bởi tiếp thu nền văn minh, dân chủ phương Tây đồng thời hồ hởi với công cuộc giải phóng dân tộc nên đã có biết bao tác phẩm nghệ thuật “để đời” đến vậy (không phải chỉ trong âm nhạc) ?

Nhạc “ta” ít được nghiên cứu, tìm con đường phát triển hợp lý cho nó trong thời kỳ mới, trong khi những thể loại âm nhạc hàn lâm một thời dày công đào tạo, giờ không dễ tiếp tục theo lối đó; còn những “bài ca đi cùng năm tháng”, tuy giá trị nghệ thuật khá cao nhưng mang nhiều dấu ấn lịch sử, chính trị không thể cứ “ca” mãi. Tác động của âm nhạc lên đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam ta là rất lớn chỉ trong một thế kỷ qua, thời tiền chiến, rồi thời chiến nó mang những ý nghĩa khác hẳn với thời nay. Không thể không suy nghĩ khi mà những giá trị đạo đức đang băng hoại nghiêm trọng đều có phần tác động không nhỏ bởi lối tư duy thực dụng coi thường giá trị thẩm mỹ (trong âm nhạc, hội họa, kiến trúc, sân khấu, điện ảnh …) qua hệ thống giáo dục, qua phương tiện thông tin tuyên truyền, hoạt động văn hóa nghệ thuật.

Thế mới càng thông cảm với giới trẻ ngày nay cứ bị người già khó chịu vì hát hỏng nhạc tây chán lại thêm những trò break-dance, hip-hop … , có hát nhạc đỏ thì có khi nó lại xuyên tạc đi. Có thể vì chúng nhảy nhót hát hò mà không biết “quán triệt” như người lớn – “chẳng có chính chị, chính em gì sất”. Nhưng cũng chớ nên nghĩ rằng chúng không cảm thấy hẫng hụt, cô đơn khi cứ phải “xài đồ ngoại” mãi như vậy.

[1] Từ điển Tiếng Việt, 1997, Trung tâm Từ điển học

[2] Từ điển tiếng Việt, 2007, Trung tâm Từ điển học

[3] Tia Sáng, số 18/2007, Gỡ sao đây ?

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2010, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

 

Posted in Bài của Ba Sàm, Văn hóa, Đảng/Nhà nước | Thẻ: , , | Leave a Comment »

Nhất cử đại tiện

Posted by adminbasam trên 08/11/2009

Nhất cử đại tiện *

Đang dùng bữa, sếp Phó Bí mắc đi cầu gấp. Ổng lao vội đi không kịp kêu Út Măng theo để đề phòng tụi “Diễn-Biến-Thời-Bình” nấp ngoài đó khủng bố tư tưởng làm giảm khoái cảm bài tiết.

Út Măng ăn dưới bếp, nhưng với ý thức cảnh giác, tinh thần trách nhiệm cực cao, liền quăng ào bát đũa, xách khẩu đại liên rượt theo. Ngồi trong cầu tiêu ngó ra thấy vậy thì sếp thương cảm vô cùng, bèn dõng dạc chỉ thị vọng ra: “Người xưa dạy ‘Giời đánh còn tránh miếng ăn’, ai lại khổ thế … Sao cậu không sáng kiến bưng mâm ra đây luôn, vừa xơi vừa ‘lo’ cho tớ“.

Út nghe mà niềm xúc động dâng trào, … chút ói!!!

Ba Sàm

—-

* Đại: rất, vô cùng, cực kỳ

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị | 1 Comment »

Sự-Thực-Hư-Cấu-Kết

Posted by adminbasam trên 30/04/2009

Đôi lời: Sự thực nhem nhuốc đằng sau những tấm huân chương, ầm ĩ trên báo chí mấy năm trước, giờ vẫn chưa ngã ngũ, gây cảm hứng cho tiểu phẩm sau. Những anh hùng sau chiến tranh, người thành tướng xe tăng, người thành “tướng… xe bò” … Thật chua xót *


Sự-Thực-Hư-Cấu-Kết


Hôm nọ

Thầy (ngáp): … mình học đến phần nào rồi các em nhẩy ?

Trò: thưa thầy đến đoạn đánh chiếm Dinh Soái Tướng ạ.

Thầy: đúng rồi … 5 giờ sáng .. đạn địch bắn ra như pháo hoa mừng quân ta chiến thắng … (Lẩm bẩm: “Thằng nào soạn giáo khoa mà phét lác rẻ tiền thế không biết”) … Nhìn quanh vẫn chưa thấy bóng dáng đồng đội, Láu … xin mở ngoặc với các em, đó chính là anh hùng Trần Oách mới về làm chủ tịch thành phố ta đây … Láu quyết định một mình anh dũng xông lên, hai nách kẹp hai khẩu A-ka vừa chạy vừa liên tục xả đạn khống chế hai ổ đại liên địch … (Lẩm bẩm: “Mẹ, đúng là phiên bản của cái thằng Téc-mi-na-to, còn tay Ram-bô thì cứ phải gọi bằng cụ”) … 5 giờ 30, Láu đã cắm lá cờ phấp phới hiên ngang lên nóc Dinh. Vừa lúc, anh nhìn xuống sân Dinh thì thấy Trí, Dũng đang chạy tới …

Ngang: thưa thầy … sáng nay mấy tờ báo đều đưa bài viết những phát hiện mới về sự kiện này … ngược hẳn ạ …

Thầy: láo toét, dám bóp méo lịch sử à ?

Ngoan: em kính thầy … chắc là ông Trí, ông Dũng … 30 năm mà vẫn lẹt đẹt rồi mới “trâu buộc ghét trâu ăn” …

Ngang: không phải ! … Có mấy lính địch, cả vài người dân chứng kiến giờ họ mới lên tiếng … là anh Dũng một mình áp sát Dinh, bắn tỉa, ném lựu đạn … Mấy tên địch còn lại quăng súng bỏ chạy hết … Dũng đợi Trí đến … đưa Trí cờ, rồi anh khóc, bảo Trí là “giờ hòa bình tới nơi rồi, mi mà lên cắm cờ thì sau mi được lên to là cái chắc … Rứa cũng xứng đáng thôi vì mi học giỏi, … chớ tau học dốt, mới hết lớp ba mà lên lãnh đạo thì … chỉ có uýnh nhau lại là ngon thôi” … Đôi co mãi, rồi anh Trí cầm cờ quay lên nóc Dinh … thì vừa lúc tay Láu ở ngoài lao vào, cướp lá cờ, dẩy anh Trí ngã lăn …

Thầy: khốn nạn ! …. đúng là …

Ngoan: là “… nhà báo nói phét” ạ … dạ kính thầy !

Hôm nay

Thầy (tươi cười bước vào lớp): các em ngồi xuống đi. Hôm nay thầy xin được hân hoan thông báo một tin vui … là cả Bộ Sử và Bộ Dạy Dỗ đều hết sức thống nhất là sự kiện chiếm Dinh được xác định lại là đúng như hôm nọ báo chí đăng …

Trò (hét to): hoan hô ! … Có thế chứ ! …

Thầy (hạ giọng, u buồn): hượm đã … nhưng … nhưng … vì yêu cầu “chính trị”, và “dạy dỗ” … nên sẽ phải tách riêng hai “vụ” ra, coi như không … “biết nhau”. Tức là cái “vụ” theo như báo đăng sẽ được chuyển thể thành tác phẩm văn học, dạng … dã sử, rồi sẽ thành huyền sử, như … chuyện hư cấu. Còn cái “vụ” như trong sách Sử viết đây thì vẫn là … “sự thực”, sẽ vẫn là … chính sử, nghĩa là “vũ-như-cẫn” ! …

Trò (lao xao): không thể tin được …

Thầy: còn theo thiển ý của thầy … thì có lẽ như vậy nó cũng có cái … độc đáo của nó, là cho thế hệ các em một lịch sử để … ngỏ … để mà tìm tòi, tranh cãi, cả phóng tác nữa, … kiểu như … “phần-mềm-mã-nguồn-mở” í mà.

Trò (ồ lên): bó tay ! … Bó cả mồm luôn !


Ba Sàm


* Mời tham khảo các báo:

Giờ kết thúc (Tuổi Trẻ/28-4-2005).

– Nhân chứng đặc biệt – Kỳ 1: Trung tá Tùng hay đại úy Thệ? (Tuổi Trẻ/28-4-2007).

Xác định nhân chứng giờ phút lịch sử có một không hai của dân tộc (kỳ II) (Tiền Phong/29-6-2008).

Phạm Xuân Thệ: Tôi chỉ nói những gì mình tham gia (Lichsuvietnam.info).

Kỷ niệm 34 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: Gặp người chỉ huy xe tăng 390 (Kinh tế Nông Thôn/29-4-2009).

Những bức ảnh “Chúng tôi tiến vào dinh Độc Lập” (TuanVietnam/30-4-2009)

Kết luận về sự kiện Dinh Độc lập (BBC/18-1-2006)

Posted in Bài của Ba Sàm, Lịch sử, Đảng/Nhà nước | Leave a Comment »

77:Xin được nhặt hạt sạn cho báo chí

Posted by adminbasam trên 22/02/2009


Hội Nhà Văn Việt Nam

———————————————————————————————————————–

Xin được nhặt hạt sạn

cho báo chí

Nguyễn Hữu Vinh ( 2/22/2009 9:14:05 AM )


Trong một vụ án hình sự có nhiều tình tiết gây chú ý cho dân chúng, việc báo chí đưa tin, bài, hình ảnh như thế nào để vừa đáp ứng được nhu cầu thông tin của xã hội, vừa đảm bảo tính khách quan, tôn trọng quyền tự do cá nhân của công dân là một câu chuyện đáng bàn.


“Hung thủ máu lạnh”

Mới đây, một vụ việc có dấu hiệu án mạng xảy ra ở Hà Nội khi một người đàn ông được phát hiện bị cắt cổ rồi chết trên chiếc xe hơi Lexus. Với những dấu vết, nhân chứng ít hỏi, nhưng chỉ vài ngày sau, bằng tinh thần tích cực và lực lượng hùng hậu, công an đã tìm ra cô gái được cho là hung thủ.

Báo chí đồng loạt đăng bài, ảnh, kể lại chi tiết vụ việc ngay sau khi cô gái bị câu lưu. Nếu tin vào những tình tiết được viết với giọng văn như khẳng định chắc chắn của nhiều bài báo, thì cô gái trước hết phải là nạn nhân một vụ quấy rối tình dục và cưỡng dâm; cái chết của người đàn ông là hệ quả của hành động phòng vệ chính đáng của cô cộng với khả năng có thể vì muốn che giấu hành động phạm pháp của mình nên nạn nhân đã không kịp thời kêu cứu. Bởi vì do bị người đàn ông là nạn nhân và cũng chính là người tình cũ này bức bách đòi quay lại mối tình xưa, đe doạ kể hết chuyện cũ với người yêu mới của cô, và đỉnh điểm xung đột là khi anh ta đòi “quan hệ” nên cô gái đã chống trả rồi dẫn tới cái chết đó.

Thế mà hàng loạt báo in, báo mạng đã đăng tin, bài theo cách như cô là một hung thủ máu lạnh có lý lịch không tốt. Ảnh cô được đưa lên đầu trang, không phải là trong bối cảnh bị dẫn giải theo thủ tục tố tụng như những hình ảnh vẫn được đăng trong nhiều vụ án khác, mà lại được chụp chính diện theo kiểu dành cho can phạm trước khi nhập trại. Nhiều báo không gọi cô là “nghi can”, “nghi phạm”, mà là “can phạm”, “hung thủ”. Nội dung nhiều bài đều viết theo lối khẳng định, trong khi đây mới chỉ là những thông tin ban đầu qua xác minh và lấy lời khai từ một phía, chưa có kết quả giám định và thông tin đối chứng.

Cho dù kết quả điều tra sau này hay phán quyết cuối cùng của tòa có thế nào chăng nữa, thậm chí có thể những thông tin qua lời khai ban đầu của cô gái là hoàn toàn bịa đặt, chính cô mới là thủ phạm của một vụ tống tiền, giết người, thì cách đưa tin như vậy cũng là không ổn.


“Ăn chơi trác táng”

Lối đưa tin này không phải hiếm trên báo chí lâu nay. Nhớ lại vụ án đình đám năm kia khi vũ trường New Century ở Hà Nội bị công an đột nhập trong lúc có hơn ngàn khách đang vui chơi. Ngay hôm sau, báo chí đồng loạt đưa tin, bài, hình ảnh gây sửng sốt trong công chúng. Đặc biệt, có đài truyền hình đã đưa cận cảnh hàng trăm thanh niên, cả người nước ngoài bị quây lại một chỗ để làm thủ tục tố tụng. Chắc chắn không ít người đã phải chường mặt ra trên ống kính truyền hình để những người thân, bạn bè phải tủi hổ và nghi ngờ. Nếu với những gì được biết qua báo chí từ đó về sau, thì tuyệt đại đa số những vị khách này hoàn toàn vô can. Thế nhưng, với lối đưa tin, và nội dung của nhiều bài viết lúc đó thì người ta dễ có một mối ác cảm coi đây là một lũ người ăn chơi sa đoạ. Sẽ có bao nhiêu mâu thuẫn, ngờ vực, oan ức từ đây? Không ai biết được!


“Cảnh sát sát nhân”

Còn dưới đây là trường hợp không phải liên quan tới một đương sự đang sống, mà là một con người phải nhận bản án tử. Nhưng có điều, nếu phải chết thì cũng nên để họ hiểu là mình đáng tội chết. Báo chí góp phần rất lớn vào điều đó.

Năm 1993, một vụ án giết người gây chú ý hiếm có trong dư luận khi một cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ tại Cầu Chương Dương, Hà Nội đã nổ súng dẫn tới cái chết của một thanh niên. Điểm mấu chốt gây tranh cãi lớn nhất là mục đích của viên cảnh sát này, có phải là giết người cướp của không, khi bọc tiền mà nạn nhân mang theo hoàn toàn không bị viên cảnh sát chiếm đoạt hay mở ra, chỉ có lời khai của một hai nhân chứng cho biết viên cảnh sát có nói rằng trong bọc đó có tiền. Sau những diễn biến đầy kịch tính từ các cơ quan tố tụng, trên báo chí, viên cảnh sát đã bị xử tử hình, song tội danh lại được xác định chỉ là “vô ý khi thi hành công vụ” để dẫn tới chết người chứ không phải “cướp của, giết người”. Vậy mà báo chí lúc đó dường như chỉ muốn thỏa mãn một làn sóng phẫn nộ trong dân chúng trước “kẻ sát nhân” lại là công an này và vài biểu hiện vội vã có vẻ như muốn làm nhẹ tội cho đương sự, nên nội dung chủ yếu phân tích những dấu hiệu buộc tội cho viên cảnh sát, mà không đề cập tới việc với tội danh đó, hoặc mức án là quá nặng, hoặc kết quả điều tra là chưa thỏa đáng, và đương nhiên, để giải quyết mâu thuẫn, các cơ quan tố tụng còn nhiều việc phải làm sao cho bản án lấy đi sinh mạng một con người phải thực sự khách quan.


Ngoài những thiệt hại mà người dân phải gánh chịu trong những vụ án oan do cơ quan tố tụng mang lại, thì còn có những thiệt hại ít được nhắc đến, khởi nguồn từ các phương tiện truyền thông. Mà tâm lý chung của những người trong cuộc là e ngại phải kiện báo chí phiền hà. Chưa muốn bàn tới áp lực từ những thao tác vội vã của báo chí lên cơ quan tố tụng có thể khiến hướng điều tra, xét xử thêm thiên lệch, hoặc ngược lại, chính báo chí bị sa đà vào “chiến công” của cơ quan tố tụng; không muốn đi sâu những biểu hiện nặng tính thị trường trong làng báo ở cái thời cố nuôi nổi một tờ báo quả là quá khó này, chỉ xin được nhắc những người làm báo: hãy nâng cao hơn nữa tay nghề, đạo đức nghề nghiệp và sự tỉnh táo. Bởi dẫu có thế nào đi nữa thì họ cũng luôn nắm trong tay thứ vũ khí rất mạnh, nên luôn được mệnh danh là Quyền lực thứ tư.

Các ý kiến phản hồi (2)

Lê Kim Thoa (lekimthoa74@gmail.com)

Nhiều tờ báo đã cố ý hay vô tình vi phạm pháp luật khi đưa những tin tương tự như trên vì nhiều lý do không lương thiện .Theo luật pháp hiện hành,không ai bị coi có tội trước khi bị tòa tuyên là có tội bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật.Trong trường này,khi cháu gái trên chưa bị tuyên có tội bởi một bản án có hiệu lực pháp luật thì các ngôn ngữ báo chí như bài viết trên mô tả là đã lộng ngôn và phạm pháp.Báo chí là đệ tứ quyền lực trong xã hội hiện nay mà bậy bạ trong nhận định và phát ngôn như vậy thì trách gì xã hội ta thiệt giả sai đúng quá khó phân.Có cả một tờ báo cố tình xiển dương ,ca ngợi hùng khí cùng tài năng đánh trận của một tướng giặc từng chỉ huy quân lính bắn giết dân mình chưa lâu nữa thì hết biết nói năng gì bây giờ về cái Tâm và cái Tầm của nhà báo ấy và người duyệt đăng bài viết lên tờ báo ấy?!(đề nghị tống cổ nhà báo này về ruộng cùng người duyệt đăng bài này). “Yêu tổ quốc,yêu đồng bào” là vậy đó sao? Ôi,làm báo là để góp phần định chân giá trị vấn đề cho hàng triệu người trong nước… mà lại bừa bãi hồ đồ như vậy thì về nhà nuôi heo trở lại không chừng có ích hơn!Đúng là trang Web HNV này cũng là một tờ báo;nếu anh chị thấy tôi nói bậy ở đây thì cũng xin đừng đăng lên,khẻo anh chị bị cách chức hoặc mất thi đua khen thưởng trong dịp bình bầu cuối năm nhé!

Nguyễn Công Nam (congdanvietnam480@gmail.com)

Hãy thông cảm với nền báo chí VN: Nó bị tha hoá mà không cưỡng nổi. Nó có muốn trở thành chuyên nghiệp cũng không được. Tổng biên tập là công chức, có cấp trên trực tiếp ở trên đầu, chớ không phải pháp luật trên đầu. Phóng viên dần dần bị sàng lọc theo chiều hướng “lá cải hoá”. Trong khi đó, dân muốn phê bình báo chí không dễ. Chuyện “báo chí là diễn đàn của nhân dân” thì ai cũng thuộc, nhưng dân nào được nói lại là chuyện khác. hnv chớ có dại mà đăng ý kiến của tôi. Cứ biết vậy thôi nhé. Chính hnv cũng là một tờ báo của nền báo chí nước nhà mà!

Posted in Bài của Ba Sàm, Pháp luật | 3 Comments »

75:Đoàn ta Tiêu cả Tỉ đô la !

Posted by adminbasam trên 21/02/2009


Đoàn ta

Tiêu cả Tỉ đô la !

Nguyễn Hữu Vinh


Đó là “dự toán” của đề án “Đẩy mạnh công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên giai đoạn 2007 – 2010”. Một tin vui, hay là nỗi lo, hoặc cả hai ? Xin có mấy lời bàn.


1.”Tiền trảm hậu … kiến”: – Tại Hội nghị triển khai kế hoạch dạy nghề, việc làm và xuất khẩu lao động giai đoạn 2007-2010 (Bộ LĐ-TB-XH tổ chức tại Hà Nội từ 10, 11-5-2007), thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh “… Chính phủ sẵn sàng dành 1 tỉ đô la cho việc đào tạo nghề”*. – Nhưng trước đó, đề án đã được hoàn tất sau khi T.Ư Đoàn TNCSHCM nhận nhiệm vụ “chủ trì, phối hợp với Bộ LĐ-TB&XH; Bộ GD&ĐT… xây dựng đề án về dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt”, được Thủ tướng nêu rõ trong phiên làm việc với Ban Bí thư T.Ư Đoàn ngày 22 tháng 3 năm 2007. – Ngày 5-6 T.Ư Đoàn phối hợp với Liên hiệp các Hội KH&KTVN tọa đàm lấy ý kiến góp ý cho đề án này. – Tháng 6 sẽ lấy ý kiến Bộ LĐ-TB-XH, trình Chính phủ – Quý III-2007 “nhanh chóng triển khai”**.

Đúng là khí thế tuổi trẻ. Một siêu dự án chưa từng thấy cấp cho một đoàn thể (chuyên hoạt động “phong trào”), nhưng lập, trình, lấy ý kiến cho kế hoạch đạt siêu tốc trong 3 tháng, tiêu pha (gọi là giải ngân) thì thần tốc trong 3 năm.

Còn quy trình ? Đó là sau khi Đoàn “nhận nhiệm vụ”, đã trình thủ tướng đề án. Thủ tướng nói “sẵn sàng dành 1 tỉ đô la”, thì lúc này Đoàn toạ đàm “lấy ý kiến” Liên hiệp, Bộ … Vậy là các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế, quản lý được mời ngồi lại để bàn cái việc đã được quyết. Lề lối này sao cứ diễn mãi không thôi ?


2. Gương tày liếp: – Thất bại ê chề của Chương trình 112 còn đó chưa được làm rõ. Cũng là từ chuyện thủ tướng phê duyệt, nhưng nhiều nhà khoa học đã lên tiếng cảnh báo. Rồi cơ sự vẫn ra vậy. – Tiếp đến là vụ in tiền polyme, chuyện tày đình, mà cho tới giờ vẫn chưa rõ vì lẽ gì thủ tướng (lúc đó- năm 2001) phê duyệt lại không đúng với tờ trình Bộ Chính trị***. Hai vụ này cho kinh nghiệm về quan hệ giữa việc ra quyết định với khâu nghiên cứu, lấy ý kiến phản biện, rồi thẩm định, triển khai … vẫn theo lối “mệnh lệnh” thời kế hoạch hóa tập trung quan liêu, phát từ trên xuống theo ý chí chủ quan, không từ kết quả nghiên cứu công phu nào cả; “ý kiến” của các nhà khoa học cũng chỉ như của “cái kiến con sâu”, để rồi khi thất bại, hoang phí thì không ai chịu trách nhiệm cho dù sự việc nghiêm trọng tới đâu.


3. Phản đề: – Trước hết, tựa như những bất hợp lý của Chương trình 112 là Ban điều hành không có chức năng quản lý nhà nước về CNTT, nay cái “Ban điều hành” nào đó của Đoàn liệu có thể có chức năng quản lý nhà nước về “dạy nghề” và “giải quyết việc làm” ? Hay lại phải “liên kết” với hai Bộ LĐ-TBXH và GD-ĐT, tính pháp lý ở đâu ? – Tiền nhiều, tiêu nhanh, kinh nghiệm thiếu, năng lực quản lý yếu của một đoàn thể phải thực hiện một công việc quá ư mới mẻ với mình. Tham nhũng, lãng phí sẽ là khôn lường. Điều này có được tính tới chút nào trong đề án ? Có đối chiếu Luật Phòng chống tham nhũng để đề ra cho rõ các giải pháp phòng ngừa ? – Đề án liệu có nêu những mặt trái, bất khả thi của quyết định này, hay lại cứ răm rắp “tuân lệnh” ? – Có tính đến khả năng “xin được rút” vì thấy không đủ năng lực, điều kiện ? – Có dự liệu những ảnh hưởng không tốt nhiều mặt đến việc đảm bảo nhiệm vụ chính của tổ chức Đoàn ? – Ngoài đoàn thanh niên, có cơ quan nào khác phù hợp hơn, có thể đảm đương tốt hơn, để khỏi bị cái lối “chỉ định thầu” như vậy ? – Cũng từ đây, thêm một dấu hỏi là có nên gọi là chỉ giành riêng cho thanh niên hay là nên giành cho tất cả mọi đối tượng cần có tay nghề, việc làm ? Và, không lẽ không thể nghĩ ra được giải pháp nào căn cơ, dài hơi hơn hay sao ? v.v..

Đoàn ta hơn sáu chục cái xuân xanh rồi, nét già cỗi nó cứ xồng xộc đến. Bao nỗi lo thanh niên giờ sao thờ ơ với “tổ chức”, “tổ chức” thì cứ kết nạp thanh niên theo kiểu “đánh trống ghi tên”, mọi hoạt động vẫn cứng nhắc, hình thức, mô phạm, thậm chí giả dối, theo phong cách xưa cũ từ thế kỷ trước, bộ máy thì chằng chịt, cồng kềnh, tốn kém. Đã bao giờ ta tìm nguyên nhân bằng so sánh mình với những tổ chức thiện nguyện quốc tế, “Hướng đạo sinh” của ta ngày xưa, xem có phải khác nhau một trời một vực nên mới đến nông nỗi vậy ? Trong khi bao nhiêu lĩnh vực, từ y tế, giáo dục, môi trường, … được công luận “mổ xẻ” tời bời, nhưng chưa thấy có Đoàn trong đó. Chưa làm tốt cái nhiệm vụ cơ bản, giờ lại thêm cái gánh nặng quá đỗi này. Thật đáng ngại !

Cũng như một cơ thể sống, chuyện “sinh, lão, bệnh, tử” làm sao tránh khỏi. Cán bộ Đoàn ta trông đã già, thế mà giờ lại già người thêm vì nỗi lo ôm nhiều tiền bạc nữa, không khéo “bệnh”, “tử” chưa biết chừng.

Hỡi các bác “thủ lĩnh” của lớp trẻ, hăng hái nhiệt tình là tốt. Chỉ có điều chuyện kinh tế, quản lý, nhất là dính tới tiền bạc của dân, các con cháu nhân dân không thể làm theo kiểu “phong trào” được.

Của đau, con dân xót ! Mà dân thì còn nghèo lắm, 1 tỉ đô chứ đâu phải …

——

* Báo Tuổi trẻ ngày 12-5-2007

** VietnamNet ngày 5-6-2007

*** Báo Đại đàn kết, ngày 8-6-2007

(Diễn Đàn – ngày 27-8-2007)

Xin mời bà con xem thêm một bài hôm nay 21-2-2009 trên VietnamNet quanh vấn đề này: “110 tỷ đồng đào tạo công chức trẻ: Đoàn lại ôm đồm!

Posted in Bài của Ba Sàm, Kinh tế Việt Nam | Leave a Comment »

61:Được hát đọc xem những gì luật không cấm

Posted by adminbasam trên 06/02/2009

Phòng trà ca nhạc ở Sài Gòn

Ca sĩ Việt Nam chịu sự quản lý của giới chức trong biểu diễn và ghi âm

BBC

————————————————————————————————————

Được hát, đọc, xem


những gì


luật không cấm



06 Tháng 2 2009 – Cập nhật 09h54 GMT

Cái thời “cả nước nô nức vào hợp tác xã (HXT)”, thì mảnh đất phần trăm mỗi hộ được chia mới là nơi mà người nông dân mê đắm nhất, vì nó là thứ họ kiếm thêm tối đa đúng với công sức của mình chứ không chỉ sống nhờ công, điểm cứng nhắc từ HTX.

Các thứ rau quả trồng ở đây, được đem bán ra chợ, thu tiền đút túi (không phải nộp HTX). Nhưng lại còn phải nuôi gia cầm nữa, chúng có thể phá hỏng vườn rau?

Thế là, thay vì nhốt lũ gà, vịt lại, họ quây rào chỉ những thứ rau nào có thể bị chúng phá thôi. Như vậy gà vịt cũng được tự do kiếm mồi, giao lưu phát triển nòi giống, mà rau quả cũng vẫn tươi tốt.

Quản người

Thế nhưng hình như trên thành phố, người ta không học được kinh nghiệm này của bà con nông dân để quản lý con người, nên đã có phương pháp ngược lại.

Vì qua các văn bản pháp luật, thấy rõ một điều là người dân chỉ được làm những gì mà luật pháp cho phép, thay vì được làm những gì pháp luật không cấm. Mà các văn bản pháp luật thường được ban hành chậm, rối rắm chồng chéo, không theo kịp với bước phát triển xã hội, bộ máy lập pháp cũng còn yếu, nên dân cứ dài cổ mà chờ luật cho gì mới được làm, rồi khi chưa có luật cho thì chờ các ông các bà “đầy tớ nhân dân” xét duyệt theo cái tình cảm sớm nắng chiều mưa của các vị.

Như vậy chả hóa ra là: không rõ gà vịt nó thích ăn cây gì, quả gì, thôi thì cứ nhốt béng chúng nó lại cho xong chuyện. Thế là lũ gà vịt sẽ kém phẩn khởi, còi cọc, ít sinh sản vì đánh nhau tranh ăn, tranh yêu … Những kẻ bất mãn quá lời lại bảo “người mà chả được bằng gà vịt!”

Nhưng cũng còn may, vì đói thì đầu gối phải bò. Bao cấp, ngăn sông cấm chợ theo mô hình XHCN tưởng tượng mãi tới độ cùng cực, phải “mở cửa”, mới biết chỉ có hệ thống XHCN mới có lối làm luật theo kiểu “người dân chỉ được làm những gì mà luật cho phép”, còn phe tư bản thì nó ngược lại, “người dân được làm những gì mà luật không cấm.”

Nên năm 2000 đã có một bước ngoặt lịch sử trước hết trong hệ thống Pháp luật Việt Nam là sự ra đời nhọc nhằn của Luật Doanh nghiệp, trong đó người dân được kinh doanh những gì mà luật pháp không cấm, thay vì cả nửa thế kỷ trước (không kể miền Nam trước 1975) chỉ được kinh doanh những gì mà luật pháp cho phép.

Nhà nước công bố một danh mục các ngành nghề bị cấm, và có điều kiện. Thế là xong. Doanh nghiệp, doanh nhân tức khắc nở rộ như hoa mùa xuân, đời sống vật chất dân chúng cũng lên theo phơi phới.

Hư người

Ngoài nhu cầu vật chất, thì nhu cầu tinh thần cao gấp bội so với gà vịt, nhưng oái oăm nó lại là thứ mà nhà nước lo ngại sẽ quá đà, thậm chí là bất ổn cho chế độ. Thế nên mới sinh ra những biện pháp quản cả nhu cầu tinh thần. Đây chính là mối mâu thuẫn lớn và cũng thuộc vào loại đáng phải bàn nhất hiện nay.

Những nhu cầu tinh thần như văn thơ, phim, ảnh, ca nhạc, hoạ, sinh hoạt, lễ hội dân gian …, tất thảy đều được quản theo lối “nhốt gà”. Tỉ như không có văn bản luật quy định rằng: tất cả các tác phẩm âm nhạc, văn học … xưa nay đều được lưu hành, trừ những thứ nằm trong danh mục kèm theo là bị cấm. Danh mục này sẽ được bổ sung định kỳ.

Mà ngược lại, các cơ quan quản lý thỉnh thoảng lại cho công bố một hai bài hát của nhạc sĩ nào đó thời trước 1975 ở Sài Gòn được sử dụng, hoặc có nhà xuất bản tự nhiên lại dám tái bản một cuốn sách của chế độ cũ xưa nay thuộc diện “nhạy cảm” mà không rõ dựa trên văn bản pháp luật nào mà làm được, hay lại do “lách”, hoặc “liều”.

Nhưng phiền hơn nữa là mỗi thời, mỗi người quản lý lại có lối suy xét, cắt gọt riêng rất tù mù (ở đây chưa muốn bàn tới chuyện tiêu cực). Như vậy tác phẩm khi tới tay bạn đọc sẽ trở thành một thứ “oẳn tà roằn” – “đầu Ngô mình Sở”, không rõ cha mẹ chúng là ai.

Gà vịt ăn nhiều mà không được tung tẩy thì cũng không đến nỗi hư hỏng hay ù lì lắm. Nhưng con người mà ăn uống no say, xài xỉ tiền bạc nhiều, nhưng đời sống tinh thần không được chăm chút là sẽ sinh nhiều chuyện.

Trước hết là “rửng mỡ”-như lời các cụ hay mắng con cháu. Tức là nhẹ thì sống theo lối bóc ngắn cắn dài, nặng thì tệ nạn xã hội, ăn chơi sa đoạ, từ dân đen cho tới doanh gia và giới công quyền.

Dẫn chứng có vô vàn. Từ chuyện nông dân có tiền đền bù đất bị thu hồi, mua sắm xe máy cưỡi cho sướng, xây nhà cao ngất ngồi ngắm cho đã, rồi thì trắng tay, đói! cho tới quan chức nhiều tiền, quyền quá rồi ăn, chơi những thứ hơn cả bạo chúa ngày xưa. Con trẻ thì không có chỗ chơi, thứ đọc, xem hấp dẫn, đành chúi đầu vào cái vi tính thôi.

Vậy xin được nói nôm na và hơi trần tục là ta mới chỉ chăm chút nhau theo kiểu nông dân chăm gà vịt thôi, chứ chưa được như với con người. Trong khi người ta cứ chạy tìm quanh kẻ nào làm cho đạo đức băng hoại, con cháu ta chán nản, coi khinh cả cha ông, tìm không được thì đổ tại mở cửa mạnh quá, nọc độc tư bản tràn vào. Ai dè cái thứ nọc độc đó lại do chính ta tự tiêm chích vào mình, tự bó mình để nên nông nỗi không có nhiều những sản phẩm tinh thần đáng để thưởng lãm, nuôi dưỡng tâm hồn, rèn đạo đức, lối sống đẹp đẽ cho dân chúng.

Nên người

Cũng không phải ta chưa từng nhận ra điều này. Những năm cuối 1980, khi mới đổi mới, văn hóa văn nghệ cũng đã từng được “cởi trói”. Rồi cánh cửa mới hé mở đã bị đóng sập lại (hình như có vài vị còn bị kẹp chân đau ra phết ấy chứ? Mà trí thức, văn, nghệ sĩ vốn nhạy cảm, nhút nhát. Hết cả hứng thú “thai nghén”). Rõ là ông nhà nước tính toán lại, muốn “mở” cái kinh tế đã, rồi văn hóa tinh thần thì tính sau.

Ấy vậy mà đã ngót 20 năm rồi. Vẫn còn sợ loạn nữa sao? Liệu ta có nhân lúc khó khăn về kinh tế toàn thế giới, mà ta có vùng vẫy mấy cũng khó thoát khỏi hệ quả từ mối ràng buộc chung trong thời hội nhập, để xem lại lối quản lý văn hóa tinh thần?

Nếu như có luật, hay chí ít là văn bản dưới luật, quy định rất chi tiết: thế nào là khiêu dâm, kích động bạo lực, chia rẽ dân tộc (cụ thể trong văn học, hội họa, điện ảnh…), v.v.., ngoài ra còn có hội đồng thẩm định những tác phẩm sau khi được lưu hành mà có dư luận phản ứng.

Cơ quan quản lý dựa trên phán quyết của hội đồng này mà đưa ra quyết định hành chính như phạt tiền, thu hồi; không còn theo kiểu một hai vị quan chức tự phán cho số kiếp một tác phẩm nghệ thuật, rồi ra lệnh miệng.

Tiếp nữa là có tòa án dân sự nếu ai muốn khởi kiện. Như vậy là có cái “lề đường bên phải” được vạch ra trong luật rất rõ ràng rồi, chứ không có chuyện chú cảnh sát giao thông tự vạch lề đường ở đây mỗi hôm mỗi kiểu, các văn nghệ sĩ cứ tha hồ sáng tác, xuất bản, lưu hành.

Nhất cử lưỡng tiện, lựa lúc khó khăn vật chất mà nới lỏng, chăm bẵm chút đời sống tinh thần, người dân sẽ đỡ cảm giác bức bối hơn.

Lại cũng là lúc thực trạng xã hội đã tới hồi báo động khẩn cấp về đạo đức, lối sống, loang ra đến cả quốc tế làm mất thể diện quốc gia rồi, không thể chậm trễ được nữa, phải đi tiếp một bước nữa trong đổi mới.

Bài viết nêu quan điểm riêng của tác giả. Quý vị có ý kiến về bài viết này, xin gửi thư cho BBC ở địa chỉ vietnamese@bbc.co.uk hoặc dùng hộp tiện ích bên phải.

Phản hồi của độc giả:

Minh
Đây là bài viết cho ta thấy được những nguyên nhân ảnh hưởng đến lối sống của người dân. Tôi tin rằng đây là một bài học mà các nhà ra chính sách nên học hỏi nếu muốn nước nhà phát triển. Đó là những bức tường ngăn cảcn sự tiến bộ,sự phát triển của con người.

Tôi có cảm giác rằng tư tưởng, tích cách của người dân ngay cả bản thân của tôi đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Nó làm ta mất tự tin, e dè, không có động lực sáng tạo và không thể phát huy khả năng của mình. Đồng thời việc này cũng làm ảnh hưởng đến những phẩm chất cao quý, sinh ra những con người dã dối, chạy theo hình thức.

Linh
Đối với Đảng ta thì cái gì cũng là của Đảng cho, của Đảng ban tặng hết. Bởi vậy mới có câu: “Đảng cho ta rất nhiều”. Ngay cả cái quyền được làm việc hưởng công xứng đáng cũng được đảng sáng suốt ban tặng từ năm 1986; rồi quyền tự do mua bán cũng được Đảng cho luôn; sau đó là nhà tình thương, cứu trợ, quyền tự do đi lại, quyền ra nước ngoài học tập, quyền trao đổi mua bán với nước ngoài cũng được Đảng ban tặng một cách thông minh, sáng suốt. Phải nói là nhân dân biết ơn Đảng ta rất nhiều.

Ai mà làm điều gì mà Đảng chưa sáng suốt cho phép thì coi chừng đi tù đấy nhé. Mà tôi nói nhỏ cho mấy bác nghe nhé: Ở các nước khác, đâu cần Đảng phái nào cho đâu mà người ta cũng được có được mấy cái quyền này vậy.

HH
Một bài viết có thể nói là mang tính xây dựng hiếm có trên BBC mà tôi từng đọc. Bài viết rất hay, chỉ rõ được những yếu kém trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là về các ấn phẩm Văn hóa. Âu đây cũng là tàn dư của 1 thời kỳ “quá tả” để lại trong đầu óc của thế hệ các nhà lãnh đạo già cỗi.

Tôi thật sự tin rằng khi thế hệ lãnh đạo trẻ sau này lên tiếp quản đất nước, một thời kỳ đổi mới khôn ngoan hơn sẽ được thực hiện để cuộc sống tinh thần của người dân được thoáng hơn mà vẫn đảm bảo được an ninh chính trị. Xin cảm ơn bài viết xây dựng hiếm hoi của tác giả Vinh.

Giấu tên
Với một cái đất nước mà luật pháp tù mù như VN thì cái việc chỉ được phép làm những gì luật cho phép hay làm những gì pháp luật không cấm cũng thế thôi.

Vì cái đạo luật cao nhất, cao hơn cả Hiến pháp là cái “luật rừng” đã được thực thi từ bao lâu nay bởi nhà cầm quyền rồi.

Nguyên, Hà Nội
Theo cách suy luận của tác giả thì thả không chỉ gà mà cả vịt ra để nó dính H5N1 à? Chính tư bản bắt nhốt gà và vịt vào để tránh H5N1 đấy chứ.

Posted in Bài của Ba Sàm, Pháp luật, Văn hóa | Leave a Comment »

48:Sĩ diện!

Posted by adminbasam trên 28/01/2009


Sĩ diện !

(Trích Nhật ký)

… Được cái mình vẫn luôn có quyền tự hào là một thằng rất biết giữ cái thể diện cho chế độ dù trong bất cứ hoàn cảnh nào …

1975: tiếp quản một cái thành phố phồn vinh giả tạo. Dân chúng bị đầu độc thông tin từ lâu nên hiểu biết chế độ ngoài ấy rất lơ mơ, mình phải làm công tác tư tưởng phát mệt.

Họ: ở ngoải có nhiều Hông-đa không anh Hai ?

Mình: ối giời, Hon-đa chạy đầy đường.

Họ: thế nhiều ti-vi, a-kai*, phi-di-đe** hông ?

Mình: cũng chạy đầy đường, còn đang tính giảm bớt cho đỡ tai nạn giao thông đây này.

Họ: hí … hí … dzậy anh Hai mua chi cái khung xe đạp nầy … ?

Mình: à … tôi có cái thú chơi đồ cổ ấy mà. Cũng lại thói “phú quý sinh … chơi bời” thôi.

1985: ăn bo-bo mãi, không nuốt nổi. Chiều nay đói cồn cào mà cũng phải đi tiếp bọn nhà báo tây.

Nó: chúng tôi thấy trong bữa ăn dân chúng phần lớn là độn hạt mì, bo-bo … Nhiều người kêu ca là đói quá …

Mình: chúng tôi phải “thắt lưng buộc bụng” vì đồng bào miền … à quên … vì những đồng bào đang phải thắt lưng buộc bụng hơn (nên người xưa có câu “lá lành đùm lá rách”, nhưng nay chúng tôi sáng tạo nó thành “lá rách đùm lá tả tơi” để động viên nhau cho đỡ cảm giác đói bụng). Với lại ăn thua gì, hồi chiến tranh còn khó khăn gấp vạn lần mà chúng tôi cũng vượt qua nổi nữa là …

Nó: thế các ông có nhận ra nguyên nhân vì sao dẫn đến tình trạng đó không, có định thay đổi gì … ?

Mình: có gì sai đâu mà phải đổi. Vì chiến tranh hết, đế quốc xâm lược hết !

1995: trao đổi việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Mình quán triệt là phải luôn luôn giữ lập trường kiên định, tư thế của người chiến thắng.

Nó: các ông có đồng ý ký không ?

Mình: thế còn các ông có đồng ý không mà lại hỏi tôi vậy ?

Nó: tôi đồng ý.

Mình: còn chúng tôi … để chúng tôi còn nghiên cứu đã …

(mình nói vậy thật là “nhất cử lưỡng tiện”, vừa “làm cao” một chút, lại vừa tranh thủ chạy về xin ý kiến “trên” lần nữa cho ăn chắc).

2005: lần này là sẽ vào cái Tổ chức buôn bán Toàn cầu, là “kịch đường tàu” hội nhập đây, nên mình phải cẩn thận hơn.

Dân: liệu chúng ta có thể ký được trong năm nay không ạ ?

Mình: ôi giời, bọn nó muốn lắm rồi, “chơi” với mình là chỉ có lợi giở lên thôi, nên chuyện ký hay không là nằm trong tay mình.

Dân: thế sao nghe nói là lại có thể hoãn sang năm, rồi lại còn phụ thuộc cái … “pờ-rờ” gì nữa ạ ?

Mình: tất nhiên chúng ta luôn luôn quán triệt là “không chấp nhận ký với bất cứ giá nào”. Nên nếu không ký thì có nghĩa là cái “giá” đó nó “đắt” quá. Đơn giản thế thôi, như ta đi mua rau ở chợ ấy mà, đắt thì ta sang hàng khác …

Dân: “hàng khác” là ở hành tinh khác ạ ?

Mình: xin lỗi, ý tôi nói là … để hôm khác mua cũng được ấy mà … Họ ế khách thì phải bán cho mình thôi.

2015: … vậy mà cũng ngót 40 năm rồi, Nhật ký thân yêu là bạn tâm tình mỗi ngày, giờ nghĩ lại thấy mình có Nó trên cõi đời này là dở hơi rồi, Nó mà lọt ra ngoài thì con cháu nó cười cho thối mũi …

“Thôi, vĩnh biệt Nhật ký thân yêu, mày “đi” trước nhé. Xin lỗi ngàn lần, mày không thể chờ tao cùng về cõi được đâu. Mà tao phải hỏa thiêu mày cho ăn chắc, chứ “địa táng” thì nhỡ thằng nào tí toáy lại đào mày lên thì khác gì … mày chôn sống tao … hu … hu … “

Ba Sàm

*Dàn máy nghe nhạc hiệu Akai

** Tủ lạnh

Posted in Bài của Ba Sàm, Tiểu phẩm Tếu, Văn hóa | 3 Comments »

47:Quốc tang-Luật và Lệ

Posted by adminbasam trên 27/01/2009

Diễn đàn

Quốc tang: Luật và Lệ

Nguyễn Hữu Vinh

Đúng vào cái ngày mà mọi người Việt trong cũng như ngoài nước vui đón Tết thì tin dữ đến từ một miền quê nghèo miền Trung ─ hơn 40 người tử nạn và mất tích vì chìm đò đúng sáng 30 Tết (xem tin BBC). Các báo in đã nghỉ từ hai ba hôm trước, báo mạng không có mấy người xem trong những ngày rộn rã tất bật này, truyền hình chắc phải bận nhiều chương trình vui Xuân… Quả thật nếu vụ việc rơi vào một ngày bình thường trong năm, chí ít cũng sẽ có nhiều chia sẻ, từ tin tức báo đài, các đợt quyên góp, kể cả tìm kiếm hai nạn nhân mất tích. Nhưng rồi cũng có một điều an ủi khá bất ngờ : tỉnh Quảng Bình quyết định không bắn pháo hoa theo như kế hoạch. Còn có thể làm được gì nữa không, cho người đã khuất và những người còn ở lại trong đau đớn giữa niềm vui của cả nước ?

Nghĩa tử nghĩa tận, cha ông ta vẫn dạy thế. Ấy vậy nhưng nhiều lúc, không biết có phải vì cái khốn khó, hoặc ngược lại, cái đam mê giàu sang cũng làm cho người ta quên bớt việc nghĩa này. Thậm chí, nói dại, có thể chuyện chết chóc xảy ra quá nhiều, từ chiến tranh triền miên, tản cư, di tản, vượt biên vượt biển bỏ mình, cho tới đủ loại tai, tệ nạn, để rồi coi cái chết nhẹ như lông hồng, tâm hồn con người thêm chai đá.

Ở nhiều nước, không phải chỉ có sự ra đi của các nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất, các nghệ sĩ, trí thức… rất danh tiếng là được tổ chức quốc tang, mà những vụ tai nạn, thiên tai mang đến cái chết của nhiều người cũng có nghi thức này. Như vụ nổ mỏ than ở Ba Lan 2006 làm chết 23 người (xem bản tin BBC), vụ nổ súng giết hại hơn 10 người ở Phần Lan năm 2008 (xem Tuổi Trẻ)… đều được để tang trên toàn quốc.

Còn ở nước ta, ngoài quốc tang cho các vị lãnh đạo, cựu lãnh đạo cao cấp nhất của nhà nước, có quốc tang cho hàng chục nạn nhân trong các vụ tai nạn, thiên tai như vụ chìm đò 30 Tết này không ? Cố lục lọi trí nhớ và lần tìm trên mạng qua các vụ sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ năm kia làm chết hơn 50 người, vụ chìm đò năm 2003 trên sông Thu Bồn, Quảng Nam làm chết 28 em học sinh… không thấy ta tổ chức quốc tang.

Có người bảo “ phải có Luật ”. Đúng vậy. Vội vàng vào trang vietlaw.gov.vn của Văn phòng Quốc hội, tìm từ “ quốc tang ” thì được thấy duy nhất một văn bản sau đây : Thông Tư, của Bộ Tài chính, số 40/2002/TT-BTC ngày 2-5-2002 hướng dẫn các khoản chi phí, cấp phát và quyết toán ngân sách phục vụ lễ quốc tang, lễ tang cấp nhà nước, lễ tang cấp cao.

Vậy là rõ. Không phải chỉ có quốc tang, mà còn có lễ tang cấp nhà nước và cấp cao (tức là hai loại lễ tang thấp hơn lễ quốc tang). Nhưng… cả ba loại lễ tang này đều dành cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước từ trần, căn cứ vào Nghị định số 62/2001/NĐ-CP ngày 12-9-2001 của Chính phủ.

Như vậy không phải chỉ với dân thường, mà cả với các bậc chí sĩ nổi tiếng tới đâu, nếu không phải là người của nhà nước, thì chắc chắn không thể được hưởng nghi thức tang lễ tầm cỡ quốc gia ?

Chưa yên tâm, tiếp tục tìm kiếm với từ khóa “ tang lễ ” thì có được duy nhất Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 34/2002/QĐ-TTG ngày 20-2-2002 về việc sử dụng và quản lý Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Quyết định này chỉ căn cứ vào Luật Tổ chức Chính phủ, ý kiến của Bộ Chính trị, Nghị định số 62 (nêu trên). Theo đó, nhà tang lễ này dành để tổ chức tang lễ theo nghi thức Quốc tang, lễ tang theo nghi thức lễ tang Nhà nước, và lễ tang đối với các đối tượng nêu trong một phụ lục mà trong đó, ngoài các đối tượng là cán bộ, sĩ quan quân đội, công an… thì có các nhà hoạt động xã hội, văn hoá, khoa học tiêu biểu được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất trở lên.

Nỗi đau mất con của một người cha ở Quảng Hải – Ảnh: Lưu Trang

Tới đây, không biết có phải tìm kiếm thêm, bàn thêm về chuyện buồn này nhân dịp đầu năm mới, hoặc phải trách cứ Nhà nước không những không sớm ra một bộ luật liên quan tới nghĩa tử, mà còn không có cả những cái lệ, tạm thời khi chưa ra được luật, hay chí ít là trong từng địa phương, cho hợp với đạo lý ông cha xưa, để quan tâm tới cả người dân nữa chứ không chỉ với các công bộc của dân thôi ? Xin được nhường lời cho bạn đọc.

Hà Nội, sáng mùng Một Tết Kỷ Sửu 2009

Nguồn: Diễn đàn

Bài được đăng từ năm 2009, nhưng do blog bị tin tặc tấn công, xóa mất, nay đăng lại nên không còn các phản hồi từ đầu.

Posted in Bài của Ba Sàm, Gia đình/Xã hội, Pháp luật, Đảng/Nhà nước | 3 Comments »

45:Thi “Bắn pháo hoa”

Posted by adminbasam trên 24/01/2009


tapbanphaohoa2


Thi Bn pháo hoa

.

– Cậu làm sao mà mặt mày hốc hác thế Út Măng ? Lại thức đêm tá lả hả ?

– Trời ơi, sếp Phó Bí ơi, sếp hổng có thương em thì thôi chớ còn nghi ngờ em bài bạc chi tội nghiệp quá à …

– Làm sao mà phải thương ?

– Chuyện tày đình dzậy mà sếp cứ “sao” dzới “trăng” hoài … Chắc sếp thương em, muốn Tết này em, cả nhà em tắt đèn hết ra sân ngồi ngắm … trăng sao Giao thừa, nên mới quyết cái dzụ “hổng bắn pháo hoa” …

– Ối giời … tưởng chuyện gì … Cậu có biết đấy là sáng kiến tuyệt vời của tớ không … mà còn nhăn với chả nhó ?

– Làm sao mà hổng nhăn được sếp ơi … Mấy bữa rày em đâu có ngủ được. Ông bà già vợ em dưới quê lên chầu chực coi pháo hoa, rồi tụi con nít nữa, tối ngày thôi rồi là bàn cãi cái dzụ pháo hoa … Còn em thì hổng hiểu sao mà sếp tính dzậy …

– Cậu non nớt chính trị lắm … Lại cả cái thằng Ba Bị nữa, nó cũng mè nheo mình cái chuyện này … đòi lật ngược lật xuôi. Nó bảo là nó thấy trên thế giới có nước nào mà Tết không bắn pháo hoa đâu, rồi những là mình còn chi bao nhiêu thứ cổ động tuyên truyền tốn gấp mấy ấy chứ …

– Dạ đúng …

– Đúng à … Các cậu không biết là mình bao giờ cũng phải có cái “bản sắc” riêng của mình … Chứ cứ cop-bi người ta mãi à ? Cả tôi cũng phải vậy … là phải có cái sáng kiến riêng, phải khác với …. “tiền nhiệm” chứ. Ngay cái chuyện “đi bộ diễu hành” mừng cái “hội nhập” cũng thế. Nó đếch thằng nào làm, mình làm mới oách chứ, mới độc chứ …

– Dạ độc địa …

– … Lại còn cái đận là phát động chống lãng phí, thực hành tiết kiệm nữa, mình cũng chưa nổ được phát pháo nào cho nó ra hồn. Nên quả này nó là cái cơ hội để mình thể hiện … mình “nổ”. Cậu hiểu chưa ?

– Là mình “nổ phát pháo” không bắn pháo … ?

– Chưa hết đâu nhé. Tớ còn “phản pháo” cái thằng Ba Bị là mình đang có cái chiến dịch tuyên chiến với tai nạn giao thông, giờ Tết nhất, lại pháo hoa với pháo hoét, mắt mũi cứ trớn lên mà ngắm rồi lại chả … “đi Văn Điển” sớm. Tỉ số tai nạn mà tăng lên … thì ai chết … hay là chỉ có tôi “chết” thôi ? Khốn nạn nhất là ngộ nhỡ có thằng nào nó bị xe chẹt chết, nó lại đổ tại là mải xem pháo hoa mình bắn …

– Nhưng mà em có cái sáng kiến này sếp coi sao nghen … Tức là nếu nói bằng mình tiết kiệm, thì thôi mình kêu gọi mấy “Mạnh Thường Quân” bỏ tiền ra tổ chức pháo hoa, họ kết hợp quảng cáo …

– Á … à, cũng ghê đấy ! Nhưng giờ tớ hỏi cậu nhá … Là tất cả cái tuyên truyền cổ động của mình, nó đều có cái “tiêu chí” cả. Thí dụ cái “diễu hành”, nó có băng-cờ-loa-phóng-thanh-áo-sống các kiểu … ai cũng biết là mình tuyên truyền về cái gì … Nào là cái vê-kép-tê-ô này, cái a-pếch nữa. Chứ cái trò pháo hoa … đùng đùng, xoè xoè … Chả rõ cái mục đích chính trị nó là gì cả …

– Dzậy thì …

– … Thì tôi sẽ yêu cầu bố ranh nghiệp nào tinh tướng nhận bắn pháo hoa í … phải đảm bảo cho tôi làm sao bắn lên nó phải nở ra những cái hoa … xếp thành mấy cái chữ, kiểu như vê-kép-tê-ô í … Tức là ai xem cũng phải hiểu được một lúc những hai ý … là “mừng-năm-mới vui-hội-nhập”…

– Chu cha … sếp chơi khó nhau quá !

– Cậu thấy chưa … Nhưng mà chưa hết đâu nhá … Tớ còn chơi kiểu “thi” nữa, nó như là “đấu thầu” í (nhưng cũng vưỡn phải để tôi chỉ định đấy !). Tức là sát hạch mấy anh một lúc, anh nào chuẩn thì mới ô-kê. Nào, có anh nào dám chơi không nào ?

– Dám quá đi chớ !

– Được … thế thì cậu viết đề xuất đi xem nào …

– Dạ … em sẽ đề xuất là tổ chức cuộc thi đó vào … đúng-phút-Giao-thừa luôn ! Càng dzui !

– ???

– A-lô … ông bà già vợ ơi, đừng dzìa quê nữa nghen … Ở lại mà coi … “Thi-bắn- pháo-hoa” ! *

Ba Sàm

(Tạp chí Thế giới Văn hóa – số 4-2007)

* Ba Sàm nổ bài nầy ngay sau khi hay tin các sếp lãnh đạo cái “cố đô Sài Gòn” quyết định không bắn pháo hoa trong dịp Tết 2007, rồi lại rất mừng là các vị đã đổi ý (không biết có phải vì nghe báo chí rên la, trong đó có cả Ba Sàm?) Mừng nữa là năm rồi thành phố Đà Nẵng lại có thi bắn pháo hoa nữa (cũng không biết có phải cọp ý tưởng của Ba Sàm?)

Posted in Bài của Ba Sàm, Tiểu phẩm Tếu, Văn hóa | Leave a Comment »

27. Bàn thắng nhỏ Đỡ bao Bàn thua lớn

Posted by adminbasam trên 31/12/2008

Chào năm mới! Ban Biên Tập basam.tk, anhbasam.tk xin cám ơn 300 friend trên Yahoo360 và tất cả bà con với hơn nửa triệu lần ghé thăm trong hơn năm qua. Xin hứa sẽ `quán triệt` Thông tư 07 để phục vụ tốt hơn nữa.

cali2008122913250HLV Calisto đã làm nên điều kỳ diệu cho bóng đá VN. Ảnh: Hoàng Minh/VNN

Bàn thắng nhỏ

Đỡ bao Bàn thua lớn

Nguyễn Hữu Vinh

Theo em nghĩ cái bàn thắng ấy có lẽ là bàn thắng của Chúa!” – câu trả lời của Công Vinh, người đem tới bàn thắng trong đường tơ kẽ tóc giữa trận đấu nghẹt thở với Thái Lan để Việt Nam đăng quang ngôi vô địch AFF Cup 2008, trong chương trình Chào Buổi Sáng của VTV1 ngay sau đêm rực lửa, khi được hỏi anh nghĩ gì sau bàn thắng đó. Câu nói không được chuẩn bị trước này dường như cũng có bàn tay của Chúa, Người đã đặt dấu ấn của mình ngay từ đêm Giáng sinh, khi Việt Nam chiến thắng ngọt ngào trước Singapore để tự tin bước vào trận chung kết.

Bởi vì, nếu không có bàn thắng gây bùng nổ không khí tự hào khắp đất nước vẫn được nhiều người nước ngoài nhận xét là “mê bóng đá như điên” này, vào đúng những ngày sắp bước sang năm mới, thì liệu người Việt trong nước sẽ cảm giác ra sao giữa không khí chuẩn bị đón cái Tết dân tộc? Chắc chắn gánh nặng của cả một năm đầy ứ những “bàn thua” trên khắp các lĩnh vực đời sống không thể làm cho họ thấy ngon miệng.

Lạm phát lên tới trên 20%, rồi khi chưa ứng phó được bao nhiêu thì lại tới hồi suy thoái. Thị trường chứng khoán phá đáy. Doanh nghiệp nhỏ và vừa phá sản hàng loạt. Công nhân đình công, thất nghiệp, bị nợ lương khi chủ người nước ngoài biến mất tới độ họ phải “tự thi hành án” bằng xâu xé tài sản nhà máy. Thêm nữa là hình ảnh tổ chức công đoàn có thể nói là số không trong tất cả các cuộc tranh chấp lao động trên cả nước trong bao năm qua, trong khi ngân sách nhà nước, nhân lực đổ vào đó không biết bao nhiêu mà kể. Ô nhiễm môi trường cực độ, nhưng đáng lo hơn là qua con mắt người dân, cả chính quyền (hành pháp, tư pháp) lẫn “hệ thống chính trị” (hội Nông dân) đều tỏ vẻ như bó tay để kẻ phá hoại môi trường và sức khỏe giống nòi ngang nhiên tựa kẻ cướp giữa ban ngày. Nông dân vừa phải đối phó với tình trạng mất đất, đền bù không thỏa đáng, vừa lo vợ, chồng, con lên thành phố kiếm ăn phải quay về, lại còn phấp phỏng giá lúa lên xuống, không bán được mà trong đó phần nào do dự báo, chính sách nhà nước kém. Giáo dục hết “cải” lại “đổi”, hàng loạt thử nghiệm vội vã, cả tá mục tiêu cho tương lai hoành tráng, nhưng thực tại vẫn như con thuyền đang chìm dần. Chống tham nhũng, tiêu cực là bức tranh đặc biệt khó tả. Nhưng điển hình nhất và để tóm gọn cho nó, lại chính là ở bức tranh đối ngoại. Có nghĩa tệ nạn này đã làm cho hình ảnh đất nước trên trường quốc tế trở nên nhem nhuốc. Từ buôn sừng tê giác của cán bộ ngoại giao, cho tới tiêu thụ hàng ăn cắp của phi hành đoàn hãng hàng không quốc gia, và nghiêm trọng hơn cả là sự kiện Nhật tạm ngưng cấp viện ODA và hai nước phải thành lập cơ quan giám sát hoạt động này – hiện tượng có lẽ chưa từng có trên thế giới – từ vụ bê bối PCI động trời. Đó là chưa kể tới những tin “nho nhỏ” đáng lo khác về đối ngoại, như Czech, Qata ngừng cấp visa cho công dân Việt Nam, hay những chuyện rất hệ trọng nhưng phải “nói nhỏ” vì người dân, báo chí ít được biết hoặc e ngại không dám bàn tới – đó là vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa và hành động đe nẹt của Trung Quốc đối với BP, Exxon Mobil khiến hai gã khổng lồ phải dừng những dự án thăm dò dầu khí với Việt Nam tại khu vực đó, trong khi nước này lại ngang nhiên chi tới 29 tỉ đô la cho dự án của hãng dầu khí quốc gia ở đây. Và, còn nhiều “bàn thua” khác nữa khó có thể kể hết.

Khi đội hình của ông Calisto với tinh thần đoàn kết, dũng mãnh, sự cổ vũ hết lòng của người hâm mộ, và người dẫn lối chỉ đường giỏi giang biết chọn ra những cầu thủ tốt và gắn kết, họ đã đem tới chiến thắng. Có điều, không biết liệu có ai trong bộ máy nhà nước tự hỏi, rằng chính quyền học được gì từ đội bóng này? Phải chăng, hơn cả những phần thưởng vật chất, là những bài học ở họ cho người lãnh đạo về trí tuệ, sự công tâm, công bằng, thực sự lo cho dân và có được niềm tin yêu ở dân? Thế nên, một lần nữa, khi ngắm hình ảnh vị lãnh đạo chính quyền bắt tay nồng nhiệt tưởng thưởng người dẫn dắt đội bóng quốc gia, dường như cũng thoáng thấy đâu đó bàn tay của Chúa: giúp người cầm quyền học hỏi nhà cầm quân để lèo lái con thuyền của đất nước, và lúc này, một bàn thắng của đội bóng nhỏ nhoi ấy chắc là đỡ được bao bàn thua lớn cho chính quyền.


(Diễn Đàn – 31-12-2008)

Posted in Bài của Ba Sàm, Văn hóa, Đảng/Nhà nước | Thẻ: , | 2 Comments »

22:Bộ Truyền Bệnh

Posted by adminbasam trên 27/12/2008


Bộ Truyền Bnh

Ba Sàm

– Út Măng ! ÚT Măng ! …

– Trời ơi, có chuyện chi mà ngó bộ sếp …

– … Tình hình rất gay … em làm sao phải cứu anh quả này thôi.

– Dạ được ngay, sếp Phó Bí của em … chị nhà có nghi ngờ chi sếp, mà nghe em nói là bả tin liền à …

– Cậu cứ tếu không đúng lúc … Việc nguy cấp lắm đây này. Đêm qua tớ vừa nhận được điện thoại khẩn. Các anh “trên” đang rất lo lắng, bực mình cái tình hình bọn bờ-loóc bờ liếc chúng nó cứ tung thông tin lên trên mạng hạ thấp uy tín lãnh đạo. Các anh bảo mình quản cái kiểu gì mà để tình hình nó như vậy …

– Chà … gay go rồi đây …

– Còn gì nữa … Mẹ, vừa nhận “ghế” xong là … là … Toàn những việc lạ hoắc … Nên giờ các anh giao tớ là phải soạn ngay cái Quy chế quản cái món này. Nhưng mình cũng có biết chó gì về nó đâu chứ. Giờ cậu đưa tớ tới cơ quan rồi nghiên cứu ngay cho tớ, … Xe cộ để đấy đã, mai đi rửa cũng được …

– Dạ …

– … Tối qua tớ gọi bọn Ba Gai, Ba Xạo định giao ngay, nhưng chúng nó cũng mù tịt cả .. cứ ú a ú ớ phát bực ! Tớ thấy phi cậu ra trong cái Bộ này không có thằng nào làm nổi đâu, mà cậu lại ăn nói nó … “chân quê”, dễ hiểu, lại hấp dẫn …

– … Dạ, rồi ! Dzụ này em quan sát tụi con nít nó “chơi”, nên cũng nắm được sơ sơ. Giờ em trình bày dzầy sếp nghe được không, rồi mình tính nghen …

– Ừ … nói ngay đi !

– Dạ … Cái bờ-loóc này nó như là cái … thân thể con người ta (tiếng Anh nó kêu bằng cái bó-đì) …

– Thôi thôi … tiếng Anh với chả tiếng em, nói nhanh xem.

– Dạ … Lâu nay ăn vận người thì đẹp đẽ, lịch sự, giàu sang, kẻ thì nghèo hèn rách rưới … Như sếp với em dzậy nè …

– Giời ơi … cậu lại ….

– Dạ không … em nói thiệt đó mà … Tức là trước đây thì … ai cũng như ai, tức là đều không có bị lộ cái … “ấy” bên trong quần ….

– Á, được đấy, tức là “to”, “bé” gì … không ai biết ?

– Trúng phóc ! Tức là sếp to hơn em, mặc sang hơn em, nhưng cái “thằng nhỏ” của sếp nó lại .. nhỏ hơn cái “thằng nhỏ” của em, nhưng mà không ai hay biết …

– Thằng mất dạy !

– Dạ … có mất dạy như dzậy mới dạy sếp được cái cách viết “đề án” cho các anh “trên” hiểu được chớ …

– Thôi được, cậu tiếp đi. Nghe hấp dẫn rồi đấy.

– Dạ … rồi các em “chân dài” cũng dzậy … Lâu nay mặc đồ dzô đàng hoàng, chớ không mặc gì thì …

– Ứ … ừ …

– Dạ, không … ý em là nếu không mặc thì sẽ bị các sếp … phạt liền, vì cái tội … “gây rối trật tự công cộng”.

– Đúng ! Tớ bắt đầu hiểu ý cậu rồi đấy …

– Dạ … Như dzậy là nó có cái chuyện lâu nay con người ta đều che đậy cái … “thầm kín” bên trong của mình. Người ta mặc quần áo cũng tựa như ai đó có viết dzô cuốn nhật ký thì cũng cất trong ngăn kéo, không ai biết ngoài mình. Nhưng giờ nó có cái anh-tẹc-nét, người ta mới không viết dzô cuốn vở tập cất ở nhà, mà viết lên trên cái … mạng toàn cầu này … Hổng có khác chi các em “chân dài” bây giờ ra đường là …

– … Là … tồng ngồng ! Đúng không ?

– Dạ, quá đúng đi ! … Nhưng chưa hết, tuy hổng có miếng vải che thân nhưng các em lại có một miếng che … che mặt …

– Hả, lại thế nữa hả ?

– Cắc cớ dzậy đó … Người ta che mặt, nên người ta lại càng hổng biết ngán cái sự đời …

– Rõ rồi, nên tớ mới hạ quyết tâm để trình lên các anh “trên” để quản cái giống này chứ … Giờ cứ rà soát kỹ, phát hiện … “cởi truồng” là phạt thật nặng vào cho tiệt luôn. Tức là đưa vào cái bờ-loóc những hình ảnh, thông tin vi phạm là phạt.

– Dạ, nhưng thưa sếp là chuyện nó hổng có đơn giản dzậy …

– Còn trò gì nữa ?

– Dạ, nó có nhiều chuyện dzô cùng … Thứ nhứt, là cái dz ụ “che mặt” đó đó. Tức là người ta “che mặt” đi, mà trên cái mạng toàn cầu này đâu như “sân nhà” mình, sếp đâu biết được ai là ai mà phạt, rồi đâu dễ mà bắt buộc người ta không được che mặt, hay là bỏ cái che mặt đó ra. Đâu có giống cái dzụ “khách hàng di động trả trước phải khai báo lai lịch”. Ở đây nó phờ-ri cả mà.

– Rắc rối rồi đây …

– Dạ chưa nhằm nhò gì … còn nhiều dzô cùng vấn đề … Thứ nữa, là nhiều em hổng thèm che mặt, mà còn muốn khoe “đồ hiệu” …

– “Chết” ngay ! … “ăn” phạt ngay !

– Bộ dễ quá há ! Làm sao phạt ? … Người ta “khoe” trong “nội bộ” thôi, đâu có khoe ngoài đường ngoài xá thì sao ? Tức là trên cái bờ-loóc đó, có đủ các loại nhu cầu, ai muốn “khoe” … một mình mình tự coi thôi cũng được (tức là … tựa như sếp ở truồng trong phòng tắm, rồi tự ngắm cái “thằng nhỏ xí” của mình trong gương á) …

– Thế hả ?

– Dạ … Rồi … còn ai muốn “khoe đồ” cho vợ, cho chồng, cho người tình, tình đồng tính … Tức là đủ các loại “khoe” khác nhau. Dzậy sếp tính cấm, tính quản, rồi phạt kiểu chi đây ? Rồi ra cái văn bản “bao” được hết mấy thứ “khoe” này hông ? Có văn bản rồi cũng chưa hết chuyện. Không lẽ sếp cứ rình, khi nào người ta “khoe” … “hổng đúng tôn chỉ mục đích” ban đầu khi đăng ký với cái Bộ Truyền Tin của sếp, thì sếp phạt há ?

– Giời ơi, rối tinh cả … làm sao bây giờ ?

– Dạ, cũng chưa hết. Kế đến là cái loại có nhiều em hổng có che mặt, mà ra đường cũng có … “che đậy” đàng hoàng. Rồi đôi lúc, các em … hé lộ ra … cho coi chút xíu rồi lại che lại. Sếp chạy theo riết mà … coi, mà phạt sao ? Nó tựa như mấy cha làm báo mạng đó. Các cha chơi trò nhá nhá … đưa hình, đưa bài lên, mà “trên” hổng có khoái thì ta lại giựt xuống. Khỏe re à ! Mà giờ thì hổng có sáu trăm tờ báo nhà nước nữa đâu nghen, mà đúng là báo … “nhân dân” rồi. Tức là toàn dân làm báo, hàng vạn, có lúc sẽ tới triệu nữa lận … Dzậy sếp tính sao đây ? Chạy theo riết mà “rà” … rờ coi mấy em có mặc quần mà hổng có đồ lót bên trong, tức là … “ở truồng trong quần”, là sắp “khoe hàng” … rồi phạt sao ?Hay là “cách chức” ? Đâu phải là cái thứ của sếp “cắm” dzô đâu mà đòi “cách” người ta ?

– Bố khỉ ! … Hết “vấn đề” chưa ?

– Chưa đâu … Giờ tới cái khúc về “luật”. Sếp căn cứ theo cái luật nào mà xử phạt người ta đây ? Nếu kêu bằng “nhật ký” thì sếp phải ra cái “Luật Nhật ký” chớ (mà ra cái này là mình thành “độc nhất vô nhị” trên thế giới rồi đó sếp- nó cho mình dzô cái cuốn kỷ lục Ghi-nét liền). Còn nếu coi đó như là “báo chí” là gay rồi, là “vẽ đường hươu chạy”, công nhận “có báo tư nhân” rồi ! Lại còn sửa luật báo chí cách chi đây nữa chớ ? …

– Thôi … mệt quá đi mất. Ong cả đầu … Cậu tạm im đi một lát cho tôi nhờ …

– Dạ, em im thì ai “dạy” sếp đây … Là … tới cái khúc sếp sửa luật rồi, làm sao thực thi ? Người ta biểu “núm cái thằng có tóc …” mà đây thì … hé hé … lơ thơ vài ba sợi

– Cậu lại bắt đầu tục tĩu rồi …

– Dạ hông … là em nói thiệt tình chớ. Em đâu có nói mấy em “chân dài”, mà nói ba cái tay chơi bờ-loóc á. Mấy cha mà sếp “cắm” dzô phụ trách ba cái tờ báo, người ta còn sợ sếp không đưa dzô “cơ cấu”, sợ bị phạt. Còn mấy cái “nhà báo nhân dân” đây, “đầu chầy đít thớt” … sếp phạt sao ? … Tới mấy cha nội “giao thông” muốn phạt xe máy còn phải giựt chìa khóa xe người ta, sợ người ta dong luôn … Không lẽ một tay sếp nắm dzô “đồ” mà mấy em “khoe”, tay kia bốc di động kêu một-một-ba tới ứng cứu sao ? Nó tới nó lập biên bản sếp tội “quấy rối …” không chừng !

– Thằng này …

– Dạ em thiệt tình đó !

– Mẹ kiếp, thằng chó nào nó đẻ ra cái món i-ti này … nó lằng nhằng thế không biết ?

– Dạ, chưa hết lằng nhằng đâu … Có “em” khi bị phạt còn la, là “eo ơi … em ngủ say quá, nó lột quần em ra chớ em đâu có tính cái dzụ … khỏa thân mà mần chi … Em trinh trắng như dzầy mà … ” … hí, hí …

– Thế là thế quái nào thế ?

– Là trên cái bờ-loóc đó, nó có cái mục kêu bằng còm-men, cho ai muốn gởi thông tin thông điệp gì tới cũng được hết, mà mọi người dzô cũng được coi hết. Dzậy là mệt rồi, người ta kêu là bị gởi thông tin “nhạy cảm” tới mà hổng biết, chớ đâu có tự ý đưa lên. Không lẽ sếp phạt oan người ta sao ? … Mà chưa hết đâu nha. Có “em” còn cố tình để hớ hênh cho sếp dzô ngó cho đã cái con mắt … Khoái quá thì còn cho quay phim, chụp hình nữa …

– Thế nữa hả ?

– Từ từ … đừng vội sướng mà đi ngó sếp ơi … Vì nếu sếp dzô coi là tội đâu thì sếp chịu chớ họ hổng có chịu à. Tức là người ta để cái pát-uộc nó đơn giản, công khai, ai cũng biết. Dzậy là ai cũng dzô đó vọc được, đưa thông tin, hình ảnh “nhạy cảm” dzô … Tức là nó không còn có cái dzụ “đơn phương ở truồng” nữa, mà giờ là thành như cái Câu lạc bộ, ai khoái dzụ “ở truồng” này thì dzô … Như bên tây nó có cái bãi tắm truồng á .. Còn ta thì … tạm coi như là cái nhà xí công cộng, ai có “nỗi buồn” thì tha hồ mà dzô, mà “giải quyết”, mà “xả” … Còn nói cho ngay thì nó là cái “Tòa báo Nhân dân”, tức là mọi người dân đều được tham gia đưa bài vở dzô …

-Hả ? … Thế thì phải dẹp hết, … dẹp ngay cái thứ “nhân dân” í … dẹp luôn !!!

– Chết … sếp ơi ! … Vạ miệng đó sếp ơi … Sếp xúc vào chỗ phạm rồi …

– Thôi chết ???!!!

– Nhưng thôi … “nhân dân” thông cảm, bỏ qua …

– … Ừ … Dưng mà … kiểu này thì nó làm loạn cả à ?

– Dạ hông, người ta cũng biết tự trọng lắm chớ bộ … Ai chơi không đàng hoàng là bị tẩy chay liền …

– À, tớ nghĩ ra cách rồi … Cậu bảo những cái bờ-loóc đấy nó sẽ như dạng “nhà xí công cộng” hả ? … Thế thì mình cứ nhẩy vào, mình ị bừa bãi ra đấy, cần thì bơm cả phân vào. Chúng nó không chịu nổi là bỏ thôi. Cần quái gì phải quản với chả lý … Tức là mình cũng nhẩy vào tham gia, nhưng tung tin lung tung cả lên, chửi tục loạn cả lên … chúng nó chán, phải bỏ thôi ? Cũng hết luôn cả trò “Tòa báo nhân dân” …

– Chà, chiêu độc quá há ?

– Phải thế chứ … Cậu không biết các cụ dạy là “… Đi với ma phải … “

– Dạ … Dzậy thì cái Bộ của ta không kêu bằng Bộ Truyền Tin nữa, mà phải đổi tên thành Bộ … Truyền-Bệnh !

– … Thằng đểu !!!


(Diễn Đàn ngày 23-9-2007)

Posted in Bài của Ba Sàm, Tiểu phẩm Tếu, Văn hóa, Đảng/Nhà nước | Leave a Comment »

01. Đảng viên hay Ông chủ

Posted by adminbasam trên 29/11/2008

Báo Tuổi Trẻ

Thứ Tư, 01/03/2006, 03:52 (GMT+7)

Góp ý dự thảo văn kiện đại hội Đảng X

Đảng viên hay Ông chủ?

(Thư ngỏ của một doanh nhân – cựu đảng viên cộng sản

-gửi GS Nguyễn Đức Bình)

TT – Tôi đã xúc động khi đọc bài của GS Nguyễn Đức Bình trên báo Nhân Dân và Tuổi Trẻ. Đó là một bài báo rất thẳng thắn, mạnh dạn nêu những vấn đề hết sức nhạy cảm từ một cựu lãnh đạo tư tưởng cao cấp của Đảng Cộng sản VN, đồng thời như một trong những cây bút lý luận của Đảng. Riêng việc ông không đồng ý để đảng viên được làm kinh tế tư bản tư nhân đã lôi tôi vào cuộc, muốn được tâm sự về cảnh ngộ của mình.

 

Đọc tiếp »

Posted in Bài của Ba Sàm, Đảng/Nhà nước | Thẻ: | Leave a Comment »

Đội đá vá hòn

Posted by adminbasam trên 09/01/2008

Đội đá vá hòn

 (Trích “Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế về Du lịch”)


… Xưa bên Tàu nó có cái chuyện gọi là “Ngu công chuyển núi” (- Này, dịch chuẩn vào nhá, nhưng mà ngộ nhỡ chú có nói thêm câu nào hớ hênh thì mày bỏ đi nhá), phải gọi là Đại Ngu, mà tầm cỡ cũng chỉ “tại gia” thôi. Còn chúng tôi là tầm cỡ quốc gia, quốc tế. Quán triệt câu “dời non lấp bể” chúng tôi mới khởi động nhiều tiểu dự án phối kết hợp biện chứng với nhau. Xin mời các đồng chí nom hình ảnh từ cái pờ-rô-dếch-tờ đây:

Tái tạo Vọng phu: nguyên thuỷ nó chỉ là cái mỏm đá lởm chởm, thế mà các cụ ảo tưởng ra thành cái người đàn bà chờ chồng đi chinh chiến dở về, rồi suy tôn lên như vậy. Dưng mà chúng tôi lại cần nhiều đá nung vôi kiến thiết đất nước công-nghiệp-hóa-hiện-đại-hóa, nên chả tiếc, đập béng nó đi. Đến khi có nhiều thành phố “Những ánh sao đêm” rồi là lại cho phục hoạt. Giờ nom nó bề thế, giá trị thẩm mỹ cực cao chứ không gai góc thiên nhiên tạo như trước. Người đàn bà ngóng chồng giờ được “thổi hồn” vào, “có da có thịt” … lại cả” xương” rắn (đúng là) như thép, có nét u buồn nhưng vẫn rất chi là “Bài ca hy vọng” …

Phục sinh Phụ Tử: dự án này thì có khác tị tẹo. Chả là có cái Hòn Phụ Tử, do “mệnh Trời” hay sao mà cái ông Bố tự dưng lăn quay ra … “chết”. Chúng tôi thấm nhuần triết lý “chức năng thắng số”*, tức là chức năng mình làm du lịch văn hóa thì cứ làm, kể gì Ông Giời. Thêm nữa còn có cái ý nghĩa thâm hậu là muốn thế hệ sau (hòn Con đại diện) luôn ghi khắc trong tâm khảm là cha ông dù có “khuất” … xuống biển thì cũng gắng mà “sống” dậy để dìu dắt chúng nên người (rất “đậm-đà-bản-sắc-dân-tộc”). Và thế là nhặt nhạnh cái “xác” ông Bố,” bê tông hóa” luôn …

Còn nhiều lắm … các đồng chí sẽ thấy chúng tôi phát động phong trào “ba mũi giáp công”, cả nước thành “đại công trường du lịch” như thế nào. Các khách sạn thi đua bứng cây cổ thụ từ tận rừng về giồng nom hoang dã đáo để. Lại cả sưu tập nhũ đá trong hang rồi công phu đẽo chặt nó ra, đem về lộn tùng phèo nó lên thành hòn non bộ, ” thiên nhiên” kinh khủng. Người người làm du lịch, nhà nhà làm du lịch … Biến “du trường” thành “chiến trường”, vặt của du khách đến đồng xu cuối cùng.

… Để kết thúc bài tham luận hôm nay, tôi xin được hỏi là các đồng chí có biết vì sao đến giờ chúng tôi đã phấn đấu đạt được con số kinh hoàng là 99,99% du khách đến rồi “một đi không giở lại” không ? Một bí quyết tuyệt vời đấy. Bởi vì họ tiêu … hết-sạch-tiền (hiểu chửa ?), không phải chỉ trong ví, mà còn trong cả ác-cao nữa. Nghĩa là khánh kiệt, y kiểu bọn tư sản mại bản cạnh tranh như lang sói rồi phá sản ấy mà, đến độ nhiều năm sau chả có tiền mà đi du lịch ở đâu được nữa, nói gì tới xứ này.

… Cái gì ? (- Chúng nó hỏi tại sao lại hết tiền à ?) Đi mà hỏi họ ấy ! Chúng tôi không cướp giật, móc túi là được rồi … (- Này, sao ở dưới nẫy giờ chúng nó cứ ồn ào thế ? – Họ bảo thế thì toàn là “đồ giả”, là kinh doanh kiểu “chộp giật”, chú ạ. – Á … Láo, bọn Tây mà dám láo. Ông sẽ cho chúng mày cứ gọi là … “tắt điện” luôn. Quả này cháu dịch phải “sát nghĩa” vào nhá).

Nài, kính thưa các quý ông, đặc biệt là các quý bà. Nếu quí vị bảo du lịch chúng tôi là “chộp giật”, di sản chúng tôi là “đồ giả”, thì tôi cũng xin được kính thưa là chính tôi học được từ quí vị đấy.

Sao ? Không tin à ? … Chả là có mấy lần sang thăm quan xứ sở của quí vị. Cái thành phố cờ bạc đĩ điếm Lát-vê-gát ấy. Bọn ca-si-nô nó lại chả “chộp giật” làm tôi xít không còn cả cái xi-líp mà phắn về đây này. Tưởng báu lắm đấy hở ?

Thế rồi tôi còn được thăm quan cái thành phố vi tính gọi là “Thung lũng Si-li-côn”, nào là mạng ảo, tài sản ảo “chấm côm”, … trẻ nó bảo là ngộ nhỡ mà mất điện cái thì cứ gọi là … “bó tay chấm côm” cả lũ.

Chưa hết đâu nhá. Hãi nhất là những bộ ngực bơm si-li-côn (dễ cũng tới hàng triệu bộ ấy chứ … Khiếp!)… Vậy xin hỏi các quý bà dưới kia, đấy là “đồ thật” chắc ? Lại xin hỏi các quý ông, là có bố nào dám … mạnh tay tí không, hay là lại chả hãi nó mà phòi ra thì có mà … Biết thế mà cứ chết mê chết mệt cả mới “ngỗng” chứ … Ôi … tội nghiệp cho cái xứ sở si-li-côn lôm côm ! Ha !… Ha !… Ha !… Ha !… Thanh-kiu-gút-bai nhá …

Ba Sàm

* “Đức năng thắng số” – ngạn ngữ

Posted in Bài của Ba Sàm, Văn hóa | Thẻ: , , | Leave a Comment »

Điểm sách: OSS và HỒ CHÍ MINH – đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật

Posted by adminbasam trên 08/01/2008

OSS và HỒ CHÍ MINH – đồng minh bất ngờ

trong cuộc chiến chống phát xít Nhật


Cuốn sách nầy cùng một cuốn nữa (tên là Why Viet Nam – Tại sao Việt Nam) tui đã lỗi hẹn bà con mấy lần là sẽ giới thiệu. Vậy nhưng “lỗi” mà lại hay, vì giờ đúng vô lúc mà ta rất cần nhìn lại cái bi kịch của Dân tộc, tuồng như luôn bị lỡ những “chuyến tàu” đi cùng với bè bạn bốn phương, để rồi nay bị Tàu ức hiếp mà cắc cớ khó làm cho người bạn nào tin là mình thiệt lòng để đặng dang tay giúp đỡ, phần vì kẻ ức hiếp lại là “anh em môi răng” với mình. “Ngậm bồ hòn làm ngọt”. Đau quá !

Tại sao người ta cố giấu nhẹm, bóp méo nhiều sự thực lịch sử vô cùng quan trọng liên quan tới vận mệnh, tương lai Dân tộc ? Đọc cuốn sách này, bà con sẽ thấy một phần. Cũng như Ba Sàm tui từng kêu gào trong một bài báo trên trang 3 blog nầy. Giờ tui xin tóm lược những điều hệ trọng mà bị lơ đi trong lịch sử qua cuốn sách trên, cùng chút phân tách tại sao người ta lơ đi vậy.

Trong sử “chính thống” cũng như tài liệu về cụ Hồ Chí Minh, chưa bao giờ các sử gia nói tới chuyện ông cụ đã từng có những quan điểm tương đồng, những mối quan hệ gần gũi, hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ của người Mỹ ra sao. Gần như duy nhứt có tình tiết cụ trích một đoạn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, hoặc gần đây đôi ba bài báo thận trọng đưa ra vài thông tin “tham khảo” … Nhưng chuyện này vẫn vô cùng là bí ẩn, nên mới từng có tổng biên tập một tờ báo danh tiếng bị mất chức vì dám … rờ tới sự thật lịch sử. Đến cả chuyện mới nữa là người ta bỏ tiền sao/mua rất nhiều tài liệu về cụ Hồ lưu trữ bên Nga, vậy mà một năm qua rồi hổng thấy có công bố cho nhân dân biết mà mừng, nhân dịp đợt học tập dài dài tấm gương đạo đức của cụ nữa chớ (sao không học tấm gương cụ kiên trì chịu đựng bị cái ông Sít-ta-lin trù ẻo bảy tám năm trời bên đó ?)

Tui xin tóm lược cuốn sách, là thời Thế chiến thứ hai, khi cụ Hồ đang hoạt động ở bên Nga-Sô, sau đó là Tàu, tình hình thế giới và trong nước cực kỳ phức tạp. Mỹ tuy là đồng minh với tụi Tây thực dân nhưng lại rất chống chánh sách thực dân của Anh, Pháp, Hòa Lan. Những người kháng chiến Việt Nam tuy chống Tây đô hộ nhưng lại là “đồng minh” với Tây và nhiều nước chống phát xít Đức, I-ta-li, Nhựt Bổn. Anh chàng Nga-Sô tuy là đồng minh với Mỹ, nhưng lại là cộng sản-tử thù với phe tư bổn Mỹ. Ảnh cũng hổng tin gì cái lực lượng kháng chiến Việt Nam của cụ Hồ, vì ảnh xét lý lịch cụ, ngó bộ ổng khoái lo giải phóng Dân tộc mình chớ không mặn mà chi cái vụ “giải phóng toàn nhơn loại” (nay càng thấy tào lao quá trời rồi – ổng tài quá há ?) Thêm nữa ổng cũng từng bị đì bảy tám năm bên “thành trì XHCN” rồi, nên mới tính chuyện bắt tay với anh Mẽo hay hơn. Nhưng Mẽo bị cắc cớ, tuy chống thực dân nhưng cũng không muốn mất lòng ông bạn Tây thực dân, cần chung lưng chống phát xít, lại vừa nghi ngờ cụ Hồ là cộng sản gộc, mà trong nội bộ cũng có hai phe (phe bênh cụ Hồ, phe chống). “Đen” cho ta nữa, là Tổng thống Mỹ Roosevelt, người hăng hái chống chủ nghĩa đế quốc-thực dân Pháp nhứt thì lại mất sớm đúng vô lúc quan trọng. Ông từng có nhiều động thái và tuyên bố có lợi cho nền độc lập hoặc “uỷ trị quốc tế” của Việt Nam, như “Đông Dương không thể quay lại với Pháp”, “… Đông Dương nên được lấy khỏi tay người Pháp và đặt dưới sự ủy trị quốc tế”. Hay trong một giác thư gởi cho ngoại trưởng Cordell Hull, ổng viết ”Hơn một năm qua tôi đã bày tỏ quan điểm rằng, Đông Dương không nên trở lại với người Pháp mà nên được quản lý bởi một cơ quan ủy trị quốc tế. Pháp đã chiếm nước này – 30 triệu dân – trong gần 100 năm, và lúc này người dân nghèo khổ hơn giai đoạn đầu … Trường hợp Đông Dương hoàn toàn rõ ràng. Pháp đã bòn rút nơi này 100 năm. Người dân Đông Dương có quyền hưởng những gì tốt đẹp hơn thế”(trang 75). Đương nhiên lý do ông này chống Pháp cai trị tiếp xứ này còn nhiều, đọc vô sẽ thấy hấp dẫn vô cùng.

Chưa hết cực cho ông già. Đó là trong nước nhiều lãnh tụ cộng sản ít được “đi đây đi đó” như ổng, lại sớm được đưa vô “lò luyện” của “thành trì XHCN”, nên cái đầu cách mạng nó “nóng” quá, vậy là các cha nội này cũng coi ông già là người không “kiên định lập trường” … Còn nữa. Đó là nhiều đảng phái không phải “cộng sản” cũng kháng chiến chống Tây đô hộ, họ cũng có thế lắm chớ bộ. Vậy là vô cùng khó nếu như muốn có “ngọn cờ” đoàn kết các lực lượng kháng chiến trong nước, đồng thời tranh thủ Mẽo, Nga-Sô, … Nhưng thiệt kỳ lạ, ông Hồ Chí Minh ổng ra chiêu hợp tác, nhận cung cấp tin tức tình báo cho cơ quan tình báo Mẽo OSS (tiền thân của Xịa CIA ngày nay) cùng đồng minh chống phát xít. Có cái chưn đó rồi, ông cụ dựa vô, tận dụng cái “mác” có cao bồi Mẽo sau lưng. Trời đất, bữa ổng từ bên Tàu về nước sau bao nhiêu năm phiêu bạt, rồi từ Tân Trào về Hà Nội, đều có Mẽo mắt xanh súng ống, điện đài … ngon lành đi theo “hộ tống”, ổng còn thủ bức hình chụp chung tới tướng Mẽo Claire Chennault chỉ huy Không đoàn Cọp Bay 14 khét tiếng, đem ra nhá nhá … các “đàn em” trong nước ngó xanh le mắt, theo rần rần, khỏi thắc mắc chi cho mệt. Vì hồi đó cả thế giới kính nể anh cao bồi Mẽo này dễ sợ luôn.

Vậy nhưng rồi làm sao mà sau đó ta hổng thân với Mẽo nữa ? Rồi còn uýnh nhau te tua …, theo hai anh Nga, Tàu rồi “khánh kiệt”. Thiệt là bi kịch lịch sử. Nhìn vô đó mà rút kinh nghiệm cho ngày nay, mai sau. Xin bà con đọc hết mới rõ được.

Và trong những ngày sục sôi chuyện Tàu xâm lấn đảo này, ta càng thấy cần suy ngẫm kỹ chuyện cũ để rút ra bài học kinh nghiệm, biết tìm bạn mà chơi, biết cách “chơi” ra sao cho bạn tin. Riêng Ba Sàm tui còn liều đưa ra cái ngu ý là nay ta học tập tấm gương của cụ Hồ, vậy nên học ngay cái cách chơi với Mẽo mà hạn chế bớt anh Tàu hay ức hiếp đi. Thời đó nhiều cái khó khăn, nên ông cụ mới hổng đi tới được với Mẽo, còn ngày nay thời thế thuận lợi quá trời rồi … Uở, nhưng hổng còn ông cụ nữa ? … Còn mấy “ông kẹ” giờ thì … bà con biết rồi. Tui chào thua !

À, chút xíu quên ! Còn cái lý do là làm sao người ta hổng muốn nói tới cái màn hợp tác thân thiện này với anh Mẽo, để tới giờ mới nhín nhín đưa ra ? Hiểu dễ ợt. Đó là nhiều năm sau, vì cái trớ trêu của lịch sử buộc ta phải uýnh nhau với Mẽo, dzậy mà ca là từng thân với nó, tổng thống của nó chống chánh sách thực dân, đấu tranh cho tự do … thì còn ra cái gì nữa. Phải chưởi, nói xấu nó tới số đi chớ ! Rồi ta theo “thành trì XHCN”, còn Mẽo là “thành trì TBCN”, vậy mà kể ra là ta từng thân thiết với kẻ thù thì coi như ta “phản bội” chớ còn chi nữa. Các quan trên coi dân mình còn đang ngu si vì bị cái “chánh sách ngu dân” của Tây bao năm rồi, nên sợ nói thiệt ra bà con hổng có tin. Rồi các cha cũng ngán cái vụ nếu nói ra, bà con, cán bộ mình khoái Mẽo quá, chạy theo rần rần là … chào thua. Dzậy đó. Giờ thì nói thiệt hết cũng chưa hết … ngán, nhứt là mấy cha từng ham xạo thấu trời luôn, giờ cũng run, thôi thì nó thiệt … từ từ. Bà con ráng chờ nha. Kiếp sau là sướng thôi à.

Xin bà con chú ý thêm: đó là cuốn sách nầy cũng được chua bên trang trong là “Sách tham khảo”, y chang cuốn “Trung Quốc trước ngã ba đường” mà tui đã khoe trên trang 78 blog nầy và “giải mã” ba cái chữ “sách tham khảo”, “lưu hành nội bộ”, nó mang tính “tiếp thị” ra sao. Nhưng quan trọng nhứt là ba cái sách nầy ưa nói … thiệt, ít bị “ăn bớt” chữ khi dịch/biên tập. Mua nhanh rủi hết nha !

Điểm báo: quá nhiều chuyện bức xúc để khen/chê quanh làng báo ta suốt mấy tuần qua, nhưng đành hầu bà con một chuyện đã, rồi hẹn kỳ sau.

Hoàn toàn tự do … trong chuồng: Nhớ hồi nhỏ Ba Sàm tui hay làm những chuyện ngu dễ sợ luôn. Có lần tui nhốt cả bầy gà vô cái chuồng nhỏ xí. Tui bắt tụi nó ăn, uống, ỉa, đẻ, ấp trứng, … làm tình, uýnh nhau tranh bạn tình ngay tại chỗ, hổng cho ra vườn nữa. Rồi ăn chắc, tui đem cái chuồng gà nhét vô trong cái chuồng heo, chuồng heo nầy tui lại xây trong cái chuống bò. Tui biểu tụi gà: Tụi mầy giờ được hoàn toàn tự do rồi đó. Khoái thì quậy tới bến luôn đi ! Trời đất, mấy tháng sau tui hổng có nhận ra được bầy gà “tự do” của tui nữa.

Nhưng bữa rồi đọc bài báo hay dễ sợ, làm mình … hoài niệm tới thời thơ ấu. Đó là có cái ông tên Hợp, ổng hổng có bị … như mình hồi bé, nhưng cũng hồn nhiên quá trời luôn. Có Luật Báo chí mà chưa xong, thêm hàng đống quy chế, văn bản trời ơi nữa, lại mỗi tuần giao ban giao hoan chi chi đó búa xua, dzậy mà ổng biểu sắp tới ổng còn ra liền thêm tới 4 cái quy chế quản lý báo chí nữa cho chắc cú. Rồi ổng ca nghe tưng tưng, là Được bốn quy chế này thì báo chí hoàn toàn tự do. Dzậy bà con thấy rõ là ổng hơn tui hồi nhỏ chưa, hay là y chang ? (mời bấm vô đọc luôn)

Ba Sàm

Bổ sung, 24/9/2011: Mời bà con vô đọc sách nầy trên trang VN Thư quán:

http://www.pagewash.com/nph-index.cgi/000010A/uggc:/=2fiaguhdhna.arg/gehlra/gehlra.nfck=3fgvq=3d2dgdi3z3237aia0a0adaga31a343gd83n3d3z3237aia&NfckNhgbQrgrpgPbbxvrFhccbeg=3d1

http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0n0nqntn31n343tq83a3q3m3237nvn&AspxAutoDetectCookieSupport=1

Posted in Bài của Ba Sàm, Lịch sử | Thẻ: , | 3 Comments »

Nát!

Posted by adminbasam trên 29/12/2007

Nát!


Nguyễn Hữu Vinh

Xin quý vị gắng đọc một bài báo có vẻ như “chẳng ra đầu ra đũa”, nói tới đủ thứ chuyện, với toàn những dấu hỏi, chấm than, ba chấm, ngoặc đơn, ngoặc kép,… của những trích dẫn, thắc mắc, bực dọc, ngạc nhiên, và nhiều điều không thể kể ra hết. Nhưng đó là cảm giác bao trùm của tôi sau khi theo dõi những buổi thảo luận, chất vấn – trong kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XII.

Nhưng liệu có phải do cảm tính, khi lần đầu tiên phải nhìn thấy các vị đại biểu cao nhất cho nhân dân cả nước phải họp ở một nơi thật khiêm tốn, “mới” (nhưng lại cũ), mà không phải như nhiều người nghĩ là Trung tâm Hội nghị Quốc gia rộng lớn đẹp đẽ rất phù hợp, mới xây xong năm ngoái mà giờ như đang hiu vắng đợi chờ ? Tự kiếm lời giải đáp cho điều này mà không thể có nổi. Hay sẽ tin vào những xì xầm trong báo giới, rằng đó là “khổ nhục kế”, để chứng tỏ thêm việc xây mới tòa nhà Quốc hội là hợp lý? Nhưng đây mới chỉ là cảm giác như khúc dạo ban đầu cho bản nhạc tuỳ hứng không muốn đặt tên.

… Bộ trưởng Giao thông Vận tải (GTVT) khi trả lời chất vấn về trách nhiệm trước tình trạng giao thông đô thị tệ hại hiện nay, ông đã đổ ngay trách nhiệm chính cho địa phương. Quả tình, như tại Thành phố Hồ Chí Minh, vụ cầu Văn Thánh 2 be bét [1] , vụ trắng trợn “nuốt” nhưng không trôi 130 héc-ta đất tái định cư của dân ở Thủ Thiêm [2] mà giờ càng cố gỡ, cố giấu càng rối, càng lộ tẩy … (đến độ kỳ quặc là Bí thư thành uỷ lại ra chỉ thị xây 12.500 căn nhà tái định cư [3] – để “sửa sai” cho … chính mình khi còn làm Chủ tịch thành phố) là rõ nhất cho những trách nhiệm rất lớn mà không thấy ai phải chịu ở địa phương này [4] . Thế nhưng nếu là người không sợ trách nhiệm, ông Bộ trưởng có thể nhận ngay về mình, ngành mình và nói rõ trách nhiệm là gì, tới đâu, năng lực, hay thậm chí lại do… “cơ chế” trước những vấn nạn giao thông. Quan trọng hơn nữa là những nguyên nhân gốc rễ của nó. Nếu không né tránh, thì cũng không khó để nói rằng “cơ chế” ở đây là cái gì. Ví dụ: đó chính là cây cầu Đồng Nai [5] sắp sập, sao địa phương báo lên từ lâu mà các ông không lo [6] , có cái cơ chế gì ở đây? Hay thực chất là vô trách nhiệm, là kém năng lực… ? Hay thực chất nữa là có những người cứ thích cảnh “nước đến chân mới nhảy” để rồi lại xin xây gấp, bỏ qua những thủ tục mà luật pháp đã quy định? Phải nói ra! Ví dụ nữa: vụ sập (hai nhịp dẫn) cầu Cần Thơ. Cho tới lúc này, đã quá cái thời hạn một tháng điều tra, Ban Chỉ đạo đặc biệt đã xin lùi thời hạn thêm [7] , tới một tháng nữa rồi, liệu có phải do khó khăn, cần cẩn trọng… hay chính là để “né” kỳ họp Quốc hội với phiên chất vấn ông Bộ trưởng GTVT sẽ có cả những đòi hỏi ông phải từ chức vì vụ này? Rất có thể! Và … không thể kể hết những trách nhiệm rất lớn và năng lực yếu kém của ngành GTVT quanh tình trạng hiện nay. Ví như cục Đường bộ mới có những “sáng kiến” [8] thật ngô nghê (sắp trình Bộ, rồi trình tới Thủ Tướng) hòng cứu nguy cho tình trạng ách tắc giao thông ở Hà Nội và Thành phố Hố Chi Minh, trong đó có thu phí xe lưu thông trong giờ cao điểm trên một số tuyến phố có mật độ giao thông lớn và bắt buộc học sinh cấp 3, sinh viên đi xe buýt, đột ngột tăng lệ phí đăng ký xe mới lên 30-50% [9] . Tại sao ông Bộ trưởng không nhận ra là cần phải loại ngay những con người kém cỏi, liên tục có lối “quấy rầy” công luận theo kiểu này ra khỏi bộ máy vì nó khiến thiên hạ phải tốn giấy mỏi mồm từ mấy năm nay? Hay do ông cũng chỉ là một “tay ngang”, chẳng có chuyên môn nhưng “trên” điều động thì phải làm nên khó xoay xở gì, đành “mặc cho nước chảy bèo trôi”?

Khi được đại biểu Dương Trung Quốc hỏi thẳng [10] về việc không sử dụng những người ngoài Đảng, kể cả những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài có phải là lãng phí nguồn lực quốc gia, thì ông Bộ trưởng Nội vụ đã trả lời “hồn nhiên” như một nhân viên văn thư của Bộ, rằng “Bộ Nội vụ không trình văn bản nào có nội dung quy định tiêu chuẩn là đảng viên mới được bổ nhiệm chức vụ“. Ai chẳng hiểu rằng có bao giờ Bộ lại… dại đến như thế ! Nhưng lại rất dễ thấy rằng ông đã không thể nói ra được việc ông có làm, quyết làm được gì để phá bỏ cái thực tế đáng buồn như cái lệ bất thành văn trên khắp cả nước trong hàng chục năm nay về sử dụng cán bộ – đúng như những gì ông Quốc vừa nói. Chỉ qua điểm này cũng đã thấy rõ cái nét “mờ ảo” trong công tác tổ chức bao năm nay mà người ta vẫn cứ tiếp tục bám giữ trong một trận đồ rối rắm. Không thể không đặt dấu hỏi rằng phải chăng từ lâu đã có những kẻ lợi dụng “đục nước béo cò”, giả vờ giương cao khẩu hiệu “cảnh giác cách mạng” bằng “chủ nghĩa lý lịch”, cố tình níu giữ những quan niệm cũ kỹ trong công tác cán bộ có từ thời chiến tranh? Ở đây đơn giản là không có văn bản chỉ đạo, nhưng thực tế cứ thế diễn ra, và không có biện pháp gì phá bỏ nó, chưa bao giờ có hình thức kỷ luật nào cho những kẻ chủ tâm níu giữ bước tiến xã hội qua công tác cán bộ bằng những thủ thuật tinh vi. Vậy nên mới mất người tài, mới có những bộ máy yếu kém và đầy dẫy tham nhũng nhưng không đâu tự thừa nhận như hiện nay; trong khi ông Bộ trưởng chỉ nêu được những lời hứa và khẳng định chung chung như khẩu hiệu, là “những người có đạo đức, phẩm chất, những người có năng lực, những người có trình độ, nhiệt tình đóng góp xây dựng Tổ quốc phải được sử dụng và ở vị trí tương xứng“. Khi được hỏi về nạn “chạy chức chạy quyền”, ông Bộ trưởng lại như “thách đố” đại biểu là nhờ đại biểu chỉ ra trường hợp cụ thể ai bỏ tiền ra chạy chức, chạy quyền để chúng tôi cùng với địa phương cùng xử lý[11] . Phải chăng ông coi các vị đại biểu của dân này là những điều tra viên của cơ quan tố tụng, hay ông không biết rằng họ chẳng hề có kinh phí, bộ máy, quyền hạn như nghị sĩ, dân biểu các nước khác để có chút ít khả năng phát hiện … giúp ông, cũng như những Bộ trưởng khác, để các vị khó có thể trả lời chất vấn theo lối đó được mãi? Và sao ông không thể đưa ra được giải pháp cụ thể để chống lại hiện tượng chạy chức chạy quyền, trong khi thực tế thì đầy dẫy những quan chức từ cả cấp xã, huyện, cho tới Trung ương lâu nay không còn thèm sống theo lối “giả nghèo giả khổ” như ngày xưa nữa – là nhịn ăn nhịn mặc để che giấu mình lắm tiền nhiều của, nhưng năng lực lại yếu kém, để rồi tới khi phạm pháp phải vào tù mới rõ cái công tác cán bộ nó ra sao? Đó chính là minh chứng dễ thấy nhất cho tệ nạn này! Và điều phi lý nhất ở đây là người dân không thấy ai phải chịu trách nhiệm trước tình trạng này, trong khi khâu con người-tổ chức cán bộ chính là khâu quan trọng nhất, quyết định hiệu quả của một bộ máy nhà nước. Lẽ ra một khi nó yếu kém, tham nhũng là phải xem lại năng lực, phẩm chất người đứng đầu về tổ chức cán bộ, phải chịu trách nhiệm, từ kỷ luật cho tới bãi chức. Tiếc rằng điều này chưa bao giờ có ở Việt Nam thời nay, mới nên nông nỗi.

Đề án 112, cho tới lúc này thì Chính phủ nhận trách nhiệm là đã sai lầm… [12] . Rõ là một bước mạnh dạn, tránh lối nể nang rất nguy hại giữa “tiền nhiệm” với “kế nhiệm”. Thế nhưng nhận trách nhiệm thế nào, cụ thể là ai chịu, tới mức nào, có hình thức kỷ luật gì không… từ người đã “hạ cánh” cho tới những người đang tại vị hoặc đã “lên”? Sao người dân, những cán bộ cấp thấp lỡ làm hư hỏng, mất mát chút tài sản nhà nước thì có thể đi tù hoặc hết đường công danh mà vụ này tới hàng ngàn tỉ lại không ai chịu chút kỷ luật gì, chí ít là kỷ luật Đảng nếu như vị đó đã về hưu ? Đến ông Bộ trưởng Tài chính lên trả lời về trách nhiệm giải ngân bừa bãi của Bộ trong đề án này, cũng đổ tại… không thể kiểm soát nếu hai bên nhà đầu tư và các nhà thầu thông đồng với nhau [13] . Trả lời chất vấn đơn giản như vậy thật không còn gì đáng thất vọng hơn. Đảng, Nhà nước cứ hô hào “chống tham nhũng, lãng phí”, vậy mà cái sự tham nhũng, lãng phí sờ sờ ra đó, với hàng loạt quan chức tới cấp Vụ, cấp Bộ xộ khám, nhưng những vị đứng đầu các cơ quan của Chính phủ liên quan tới chi tiêu bừa bãi lại có thể phủi tay thật dễ dàng mà không hề bị ít nhất là một hình thức kỷ luật nào.

Cảm giác quý vị sẽ ra sao khi các “nghị sĩ” cùng (Phó Thủ Tướng kiêm) Bộ trưởng Giáo dục trao qua đổi lại chuyện cặp học sinh có nặng quá không, một hay hai, ba cân, chỉ sách vở không thôi hay còn gì mà nó nặng…? Ông Bộ trưởng còn sâu sát tới mức biết là còn có chai nước, riêng truyện tranh có em mang theo những cuốn tới nửa ký, thậm chí có em bố mẹ sắm cho cặp “xịn” nên nặng tới cân rưỡi (Trong dịp họp Quốc hội này, Bộ còn có hẳn một đoàn thanh tra mang theo cân để cân cặp học sinh. Sao họ không xuống các bản làng để cân thử và ông Bộ trưởng không dẫn chứng về những chiếc cặp – nếu như có – nặng trĩu những sắn, khoai, rau rừng trong đó nhỉ?). Xin nhắc lại rằng đó chính là một phần nội dung chất vấn và trả lời chất vấn của ông Bộ trưởng Giáo dục trước Quốc hội [14] chứ chớ nhầm là một cuộc họp Hội đồng Nhân dân xã.

Trong khi đó thì hàng loạt vấn đề hệ trọng rất cần thay đổi thì vẫn không được động tới hoặc có giải pháp căn bản, chỉ nhiều lời hô hào kiểu khẩu hiệu, như “thầy cô không giữ mình thì nên xin ra khỏi ngành [15] “, hay “chúng tôi kêu gọi, những ai không định nghiên cứu để có cái mới trong khoa học thì xin đừng làm tiến sĩ, đừng lãng phí thời gian” v.v.. Những vấn đề hệ trọng đó là: + căn nguyên nào sinh ra tình trạng gian dối, “bệnh thành tích”, “ngồi nhầm lớp” trong dạy/học (đâu phải chỉ và bắt nguồn từ ngành giáo dục mà nó có thể tự mình “tuyên chiến”, “nói không” được); + cải tổ bộ máy, hệ thống pháp lý để thực sự khuyến khích đầu tư trong/ngoài nước cho giáo dục; + trao quyền tự chủ cho giáo dục đại học; + minh bạch hóa chi tiêu và thay đổi phương thức phân bổ ngân sách giáo dục; + kể cả những điều phi lý nhưng đã kìm hãm thầy trò trong dạy và học mấy chục năm nay là nội dung, quy trình biên soạn và độc quyền xuất bản sách giáo khoa, những quy định cực kỳ máy móc, phi lý như buộc thầy cô phải “soạn giáo án” [16] cho mỗi tiết học, tăng học phí, vội tổ chức thi trắc nghiệm đại trà v.v.. cũng cần được xem xét nghiêm túc.

Liệu ta có thể cảm thông rằng Quốc hội khóa XII cùng Chính phủ mới còn “bỡ ngỡ” trong kỳ họp thứ hai của nhiệm kỳ, hay sẽ quá lo khi mà khóa XII này lại bị “ngắn” đi mất 1 năm so với những khóa trước, hay chúng ta sẽ thấy chán ngán buông xuôi với những kỳ chất vấn/trả lời ngày càng chung chung, mang tính “trình diễn” và đối phó này?

Về làm luật, mới chỉ nghe qua vài chi tiết của Dự thảo Luật Phòng, Chống bạo lực gia đình mà đã thấy nhiều điều khoản rất lạ. Ví như ông/bà chủ tịch xã mà lại phải có nhiệm vụ như tòa án, mõ tòa để thi hành cái “án” cách ly người bị bạo hành với thủ phạm [17] . Chẳng biết bàn thêm tới đâu nếu chịu khó tưởng tượng một chút những rắc rối có thể xảy ra, như ai sẽ là người giám sát và giám sát bằng cách nào việc này. Rồi việc đưa chuyện “cưỡng ép quan hệ tình dục vợ chồng” vào nhóm các hành vi bạo lực gia đình cũng đầy dẫy những phi lý. Phi lý trước hết và lớn nhất là sự quá yếu kém, không rõ vai trò và mất niềm tin nơi dân chúng ở hệ thống Tòa án liên quan tới đạo luật này, vậy ai sẽ xác định hành vi và phân xử những vụ việc, hay là lại … “ông chủ tịch xã”, rồi rất có thể sẽ cần có cả “ông bí thư” đứng sau chỉ đạo nữa, để khẳng định là họ có “bị cưỡng ép” không, đã được gọi là “quan hệ tình dục” chưa? Vậy mà vẫn chưa hết những điều luật chỉ mang tính chất tựa như những liều thuốc giảm đau cho con bệnh đang lên cơn co giật, đó là xây “Nhà Lánh nạn” cho những nạn nhân bạo hành gia đình. Dường như các vị đại biểu Quốc hội chưa có đủ thì giờ để tưởng tượng ra những hệ quả đi theo sẽ là gì, ví như sẽ cần có đội ngũ “vệ sĩ” cho hệ thống “nhà” này (nếu không thì chính “Nhà Lánh nạn” đó sẽ lại trở thành “Nhà lâm nạn”, nơi thuận lợi hơn đâu hết cho nạn bạo hành), rồi còn phải có người trông coi bảo quản nữa, cho khỏi biến hàng ngàn căn “Nhà Lánh nạn” thành những cái “điếm canh đê” để trâu bò vào nghỉ thuở nào. Khi có đại biểu nêu lên nhiều những biểu hiện đa dạng của “bạo lực tình dục” còn có cả buộc phá thai, đẻ con trai v.v.. rất khó phát hiện, có bằng chứng, thì càng rõ thêm thực trạng yếu kém của hệ thống tư pháp cùng những bộ luật “làm cho có” sẽ ảnh hưởng tới mức nào tính khả thi của một đạo luật. Trước hết nó sẽ lôi cuốn bộ máy hành pháp các cấp vào một “trận đồ” bất tận của họp hành, cãi vã vô bổ, ra các quyết định hành chính về những việc không phải của mình. Hiện tượng này, tức cơ quan quản lý nhà nước làm thay việc của tòa án, đang tràn ngập tất cả mọi giao dịch, tranh chấp dân sự, kinh tế. Nhìn sâu xa nữa của lối làm luật này chính là một lối “tiếp tay” cho hệ thống hành pháp vốn đã yếu kém, đầy tham nhũng được thêm quyền nắm “cán cân công lý” thay cho bộ máy tư pháp; từ đây, chính nó lại quay lại “trói tay” cơ quan lập pháp bằng những dự thảo luật “làm cho có” và lối thông qua luật rất hình thức của Quốc hội. Và cuối cùng, chính Quốc hội lại đang vướng vào cái gọi là “chủ nghĩa thành tích” mà một mình ngành giáo dục đang hô hào “tuyên chiến”. Chẳng thể còn viết nổi nếu như bàn tiếp nữa đến những gì xoay quanh Dự luật hoạt động Chữ thập Đỏ [18] , Dự luật quản lý Tài sản Nhà nước [19] , bởi những non kém, ấu trĩ, bất hợp lý cứ đầy dẫy trong đó mà vẫn không có một dự tính nào thay đổi, ví như quy trình làm luật – cần có “đặt hàng” các luật gia, công ty luật, văn phòng luật sư, chuyên gia trong, ngoài nước, các tổ chức hội (đặc biệt trong giới trí thức khoa học), các hiệp hội ngành nghề, và bớt “ôm đồm” cho các cơ quan Chính phủ; có nơi làm việc, kinh phí, bộ máy tham mưu, giúp việc, quyền được cung cấp thông tin cho từng vị đại biểu Quốc hội v.v.. và v.v…

Viết tới đây, tôi mới quyết định được cái tên cho bài báo này. Nhưng xin quý vị chớ vội nghĩ nó ám chỉ cái gì, ngoài điều đơn giản rằng trong cái mớ hỗn độn những lo lắng, những nghịch lý, nó không thể tập trung vào được một vấn đề nào, hay sắp xếp mọi sự cho có thứ tự lớp lang, dẫu đó cũng là một sự phản ảnh cái thực trạng khó tả của tình hình. Tuy nhiên, cái tên cũng có thể đã phơi bày những cảm giác rời rã khi nghĩ về một kỳ họp Quốc hội với trăm thứ lo, nhưng lại là mối lo của dân về Chính phủ và Quốc hội của mình sau một năm sục sôi “hội nhập”, giờ đang nguội đi nhanh với bộn bề nan giải trước mức độ tăng trưởng gắng cho được cao nhưng coi nhẹ những mặt trái của nó, ít am hiểu rồi thiếu những giải pháp đồng bộ, nên lãnh ngay hậu quả kém bền vững và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro [20] . Còn nhìn về lâu dài và ở tầm cao hơn, thì đó không phải chỉ là những bài toán kinh tế, mà là ở những toan tính chiến lược cho việc xây dựng thể chế Nhà nước, từ khâu tổ chức con người (cho cả Quốc hội và Chính phủ), cho tới hệ thống kiểm soát quyền lực, làm luật và thực thi pháp luật.

© 2007 talawas


[1]Xin đọc bài báo cách đây những 14 tháng, VietnamNet, ngày 15/10/2005, Những “ông Giời” nào xây cầu Văn Thánh 2 ?. Còn giờ đây, người ta đã quyết chi ra 140 tỉ tiền mồ hôi nước mắt của dân để sửa mà không ai trong giới chức phải chịu trách nhiệm cả. Thành phố ngập lụt, ùn tắc giao thông kinh hoàng … là từ những bê bối này, tức là từ sự vô trách nhiệm của chính quyền. Xin mở ngoặc: nếu bạn lên Google để tìm, sẽ có tới hơn 53 nghìn mục nói về nó. Thật không có gì để nói thêm. Liệu có cây cầu nào trên thế giới được cái “vinh dự” này ? (Tất nhiên vẫn có, đó là cầu Cần Thơ, tìm được tới 1 triệu hai trăm nghìn mục)
[2]Đại Đoàn kết, 9/11/2007, Dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm, tpHCM:Ai phá nát quy hoạch ?
[3]Đại Đoàn kết, ngày 20/11/2007, Dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm, tpHCN, Kỳ 1: Bán đất tái định cư của Dân.
[4](Mới đây, tiếp xúc với cử tri ngày 23/11/2007, chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã hứa sẽ trực tiếp phản ánh và đề nghị thủ tướng cho lập đoàn thanh tra đủ mạnh để thanh tra toàn diện dự án này (Đại Đoàn kết, ngày 26/11/2007,tr.2)
[5]VietnamNet, ngày 7/8/2007
[6]VNExpress, ngày 31/7/2006, Cầu Đồng Nai có thể sập bất cứ lúc nào
[7]VN Media, ngày 16/11/2007
[8]Lao động, ngày 26/11/2007, Giải pháp thiếu tính khả thi (xin bạn đọc bài này để thấy không chỉ nghành Giao thông, mà đã lây sang cả Giáo dục cũng rơi vào tình trạng lú lẫn tới mức nào trước tình trạng giao thông đô thị hiện nay).
[9]Pháp luật TPHCM, ngày 26/11/2007, Tăng phí xe đột ngột, dân sẽ sốc. (Dân không sốc đâu, mà sẽ tăng trò lách luật, và hối lộ. Cục này từng có nhiều “sáng kiến” nữa không thể kể hết)
[10]Lao động, ngày 20/11/2007
[11]VietnamNet, ngày 19/11/2007, Tuyển công chức giỏi:không phải việc riêng của Bộ Nội vụ
[12]VNExpress, ngày 20/11/2007, “Chính phủ buông lỏng quản lý, Ban điều hành 112 lạm quyền”
[13]Tiền phong Chủ nhật, ngày 18/11/2007, Đề án 112, Hai bên cố tình gian lận thì không biết được !
[14]Thanh niên, ngày 17/11/2007
[15]VNExpress, ngày 17/11/2007
[16]Pháp luật TPHCM, ngày 20/11/2007, “Tôn sư trọng đạo thời nay”, tại sao tôi không thể yêu nghề?
[17]VietnamNet, ngày 29/9/2006
[18]VietnamNet 10/11/2007, “Đừng hành chính hóa hoạt động chữ thập đỏ”. Dự luật này được soạn thảo bởi “chính chủ”, nên đầy dẫy những ý tứ muốn đem lại quyền “sinh sát” riêng cho mình, biến mình thành một cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động nhân đạo.
[19]Luật này chắc chắn sẽ lại góp phần nuôi dưỡng thêm tình trạng lãng phí, trục lợi trên hàng chục triệu mét vuông đất công mà các báo Tuổi Trẻ (ngày 21/11/2007), Thời báo Kinh tế Sài Gòn (số 46, ngày 22/11/2007) đang tiếp tục báo động.
[20]Tuổi Trẻ, ngày 21/11/2007, Tăng trưởng cao cuộc sống phải dễ chịu hơn, Vũ Thành Tự Anh, Lê Nguyên Minh.

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị, Đảng/Nhà nước | Thẻ: | Leave a Comment »

70. Quáng gà lụy cáo già

Posted by adminbasam trên 21/12/2007


Quáng gà lụy cáo già


Nguyễn Hữu Vinh

14.12.2007


1. Thừa cơ, hở cơ

Tháng 10-2007: Trung Quốc quảng cáo du lịch ra quần đảo Hoàng Sa. Nhật báo Công nhân Trung Quốc đã trích lời một viên chức Chính phủ nói về vấn đề này [1].

Ngày 16-10-2007: Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu bầu Việt Nam vào vị trí thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an khóa 2008-2009. Là thành viên chính thức của Hội đồng Bảo an, lá phiếu ủng hộ của Trung Quốc rất quan trọng.

Ngày 16-11-2007: Trung Quốc tiến hành tập trận trong vùng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (kéo dài tới 23-11-2007).

Ngày 19-11-2007: Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 13 khai mạc (kéo dài tới 21-11), có sự tham dự của Trung Quốc với một màn trình diễn rất ấn tượng với nước chủ nhà Singapore [2].

Ngày 23-11-2007: người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố phản đối cuộc tập trận (ngày 16-11) của Trung Quốc [3].

2. Mất mặt

Ngày 23-8-2006: Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc [4].

(Trước đó) tháng 7-2006: Trung Quốc công bố “bản đồ chuẩn” trên mạng cho dân chúng xem, ngầm xác định “chủ quyền” những quần đảo đang tranh chấp.

Ngày 10-4-2007: Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Phú Trọng có chuyến thăm chính thức Trung Quốc [5].

Ngày 15-5-2007: Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết thăm Trung Quốc [6].

Đầu tháng 4-2007: hải quân Trung Quốc bắt giữ 4 tàu đánh cá của Việt Nam [7].

Ngày 10-4-2007 (ngay trong thời gian chuyến thăm của Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng): Trung Quốc cảnh báo Việt Nam về việc hợp tác với hãng BP Anh xây dựng đường ống khí đốt ở vùng biển Trường Sa [8].

Ngày 21-7-2007: đàm phán biên giới Việt-Trung [9] .

(Trước đó) Ngày 9-7-2007: tàu hải quân Trung Quốc nã súng vào một số tàu đánh cá Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa13.

(Sau đó) Ngày 10-8-2007: China Daily, tờ báo tiếng Anh của Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa tin, được Chính phủ thông qua, Sở Du lịch Hải Nam mở tuyến du lịch tới Hoàng Sa[10].

Ngày 27-11-2007: đàm phán biên giới Việt-Trung [11] trên biển và đất liền.

(Trước đó) Ngày 16-11: Trung Quốc tiến hành tập trận trong vùng quần đảo Hoàng Sa3.

(Cùng lúc đó) Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa trực tiếp quản lý ba quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

3. “Nướng dân đen…”

Ngày 8-1-2005: tàu hải quân Trung Quốc bắn chết 9, và làm bị thương nhiều ngư dân Việt Nam [12] . Người phát ngôn Trung Quốc nói đó là những tàu “ăn cướp có vũ trang nghiêm trọng trên biển”. Cho đến nay chưa có thông tin chính thức nguyên nhân, diễn biến (từ các nhân chứng, chính quyền).

Đầu tháng 4-2007: hải quân Trung Quốc bắt giữ 4 thuyền đánh cá Việt Nam (gồm 41 người) [13] hoạt động trong vùng biển gần Trường Sa.

Ngày 27-6-2007 tàu hải quân Trung Quốc bắn ngư dân Việt Nam. Sáu công nhân trên tàu bị thương [14] .

Ngày 9-7-2007: hải quân Trung Quốc nã súng vào ngư dân Việt Nam [15] , một người thiệt mạng. Hai tàu chiến của Việt Nam đến hiện trường nhưng bị hỏa lực Trung Quốc quá mạnh nên không thể đến gần.

Tháng 8-2007, nhiều tàu của ngư dân Việt Nam bị bắt, nhiều người bị bắn chết, bị thương [16].

4. Dằn mặt

Từ tháng 1 đến tháng 4-2007: dầu tràn trên Biển Đông, khả năng từ một giàn khoan của Trung Quốc tại đảo Hải Nam [17] , gây thiệt hại nhiều cho Việt Nam. Có đầy đủ điều kiện để truy tìm (ảnh vệ tinh, giám định loại dầu…) nhưng cho tới nay vẫn chưa có công bố chính thức nguyên nhân.

Ngày 31-5-2007: tàu huấn luyện hàng hải của Mỹ USS Golden Bear vào Hải Phòng[18].

Ngày 15-7-2007, tàu Bệnh viện USS Peleliu của Mỹ cập cảng Đà Nẵng [19] .

Ngày 14-11-2007: 2 tàu chiến Mỹ vào cảng Hải Phòng [20] .

Cuối tháng 11-2007: Trung Quốc không cho tuần dương hạm Mỹ Kitty Hawk cùng nhóm chiến hạm của tàu vào Hong Kong dự lễ Tạ Ơn [21] .

Trước đó, Trung Quốc đã không cho tàu quét mìn của Mỹ vào cảng Hong Kong [22] để tránh bão và lấy nhiên liệu.

Ngày 4-12-2007: Trung Quốc “bày tỏ quan ngại nghiêm trọng” với Mỹ về việc hàng không mẫu hạm Mỹ đi qua eo biển Đài Loan [23] (sau khi không được cập cảng Hong Kong).

5. “Cùng hội khác thuyền”

Tháng 11-2007, Đài Loan xây dựng lại đường băng và bia kỷ niệm công trình trên đảo Ba Bình trong quần đảo Trường Sa [24] .

6. “Đánh trống rớt dùi”

Tháng 3-2004: Việt Nam quảng cáo chương trình du lịch lặn biển ở các đảo phía Nam, trong đó có Trường Sa, bắt đầu chuyến 19-4-2004. Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà cũng nói tới kế hoạch này khi ở Singapore [25] . Trung Quốc đã phản ứng giận dữ một ngày sau khi nghe tin. Sau đó, không thấy nói về chương trình du lịch này nữa.

Hợp đồng thăm dò dầu khí, lắp đặt đường ống khí đốt tại vùng biển Trường Sa trị giá 2 tỉ đô-la đang được tiến hành. Tháng 4-2007 Trung Quốc “cảnh báo” về việc này, tháng 6-2007, BP tuyên bố ngừng dự án [26] . Tập đoàn dầu khí khổng lồ của Anh BP hiện đang cung cấp khí gas phục vụ tới 40% nhu cầu điện năng của Việt Nam.

7. Điệp khúc “Bài thán ca buồn”

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam:

Ngày 1-6-2002: “… Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa… [27]

Ngày 14-7-2006: “… Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền và quyền hợp pháp của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam… [28]

Ngày 24-11-2007: “… Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa… [29]

Ngày 3-12-2007: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa… [30]

8. Lú

Ngày 10-4-2007: tại Trung Quốc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng “Chưa bao giờ quan hệ hợp tác hữu nghị Việt – Trung tốt như hiện nay[31]

Ngày 10-4-2007: Trung Quốc cảnh báo Việt Nam về việc hợp tác với hãng BP Anh xây dựng đường ống khí đốt ở vùng biển Trường Sa8.

9. “Được đằng chân lân đằng đầu”

Trung Quốc: trong cả năm 2007, liên tục nhiều động thái khẳng định chủ quyền trong vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Việt Nam: đều chỉ lên tiếng phản đối qua “Người phát ngôn” (có lúc chỉ nêu việc tàu đánh cá Việt Nam bị “một số nước” bắt giữ), nhưng lại “khen” mối quan hệ “hợp tác hữu nghị”[31].

Cuối tháng 11-2007 Quốc vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa trực tiếp quản lý ba quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

10. “Dồn tới gầm chuồng”

Ngày 9-12-2007: hàng trăm thanh niên (có cả nhà báo, nghệ sĩ…) Việt Nam biểu tình trước Sứ quán và Lãnh sự quán Trung Quốc tại Hà Nội và TPHCM [32] (sự kiện chưa từng có trong ngót 30 năm qua), thái độ kiên quyết với hành động của Trung Quốc, nhưng lại dè dặt với chính quyền, e ngại bị “phiền phức”.

Tại TPHCM, chính quyền đã cử các ông phó chủ tịch thành phố, bí thư Thành đoàn tới gặp gỡ người biểu tình [33] .

Phản ứng của dân chúng trên mạng internet, điện thoại di động rất dữ dội, thậm chí còn có tin hacker đã tấn công website của Trung Quốc [34] . Nhiều ý kiến bất bình với thái độ không rõ ràng của chính quyền, không cho báo chí đưa tin, lên tiếng.

Ngày 10-12-2007: người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố [35]đây là việc làm tự phát, chưa được phép của cơ quan chức năng Việt Nam…” (Hiến pháp Việt Nam cho phép biểu tình “theo quy định của pháp luật [36] “, nhưng chưa có Luật Biểu tình. Ngót 30 năm qua, ở Việt Nam chưa có cuộc biểu tình nào “được phép”).

Ngày 11-12-2007: người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố [37] “… quan ngại về những diễn biến mới đây ở Việt Nam. Điều đó sẽ làm tổn hại quan hệ tốt đẹp giữa hai nước“.

Ngày 12-12-2007: người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam không có phản ứng về tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc [38] .

Rất có thể sẽ có những người của nhà nước (nhà báo, cán bộ, văn nghệ sĩ,…) gặp phiền toái, bị kỷ luật vì phản đối hành động của Trung Quốc ở Hoàng Sa, Trường Sa nhưng không theo cách của Đảng và Nhà nước đã làm trong nhiều năm nay.

© 2007 talawas


[1]VOA, ngày 12/10/2007
[2]BBC, ngày 18/11/2997
[3]Tiền Phong, ngày 24/11/2007
[4]VietNamNet, ngày 15/8/2006
[5]VietNamNet, ngày 16/4/2007
[6]VietNamNet, ngày 15/5/2007
[7]BBC, ngày 19/7/2007
[8]BBC, ngày 11/4/2007
[9]BBC, ngày 29/7/2007
[10]BBC, ngày 19/8/2007
[11]VietNamNet, ngày 29/11/2007
[12]Thanh Niên, ngày 12/1/2005
[13]BBC, ngày 19/7/2007
[14]BBC, ngày 23/10/2007
[15]BBC, ngày 19/7/2007
[16]BBC, ngày 23/10/2007
[17]Tuổi Trẻ, ngày 28/4/2007
[18]VietNamNet, ngày 1/6/2007
[19]VietNamNet, ngày 16/7/2007
[20]BBC, ngày 14/11/2007
[21]BBC, ngày 7/11/2007
[22]Tuổi Trẻ, ngày 7/12/2007
[23]VOA, ngày 5/12/2007
[24]VietNamNet, ngày 15/11/2007
[25]BBC, ngày 3/4/2004
[26]BBC, ngày 14/6/2007
[27]VietNamNet, ngày 1/6/2002
[28]Thanh Niên, ngày 14/7/2006
[29]Tuổi Trẻ, ngày 24/11/2007
[30]Tuổi Trẻ, ngày 4/12/2007
[31]Tiền Phong, ngày 11/4/2007
[32]BBC, ngày 10/12/2007
[33]Blog Câu Lạc Bộ Nhà báo Tự do
[34]VietNamNet, hồi 8giờ 50′ ngày 8/12/2007:” Đêm 7/12 vừa qua, Báo điện tử VietNamNet đã nhận được thông tin của độc giả gửi qua email về việc một số website của Trung Quốc đã bị tấn công. mục đích của hành động này nhằm lên án việc Quốc vụ viện nước này thông qua việc thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam…”
[35]Tuổi Trẻ, ngày 10/12/2007
[36]Hiến pháp nước CHXHCNVN, 1992, Điều 69:Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
[37]BBC, ngày 11/12/2007
[38]Năm 1988, sau khi tàu chiến của hải quân Trung Quốc khiêu khích, bắn cháy ba tàu vận tải của Việt Nam, giết hại 74 quân nhân Việt Nam, ngăn cản Việt Nam cứu hộ những người bị thương … Chính phủ CHXHCNVN đã thông báo cho Liên hợp quốc, liên tục gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc Kinh các ngày 17, 23, 26-3-1988 (theo Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Lưu Văn Lợi, NXBCAND, 1995, tr. 154).

Posted in Bài của Ba Sàm, Quan hệ quốc tế, Trung Quốc, Đảng/Nhà nước | 11 Comments »

“Cưa” gái giang hồ

Posted by adminbasam trên 13/12/2007

“Cưa” gái giang hồ


Tám tháng trước:

Đi thăm nước bạn. Vừa thấy “đối tác” ra nghênh đón, sếp Phó Bí đã nhảy tưng tưng, nhào tới hai tay bắt thiệt chặt rồi ôm cứng người “đồng cấp” hun tới tấp làm chả quýnh quáng gỡ ra không nổi. Khi chụp hình chung, sếp cười ngoạc cái miệng rồng lớn quá cỡ, chành hai hàm răng cải mả trắng ởn ngọc ngà … thiệt quá trời luôn. Út Măng sựng, vội rỉ tai:

– Dạ thưa sếp, màn này hổng có đúng dzới “nghị trình” thỏa thuận của lễ tân đôi bên … Em e mình hơi bị … oọc-zơ, rồi … thất thế ?!

Sếp Phó hổng nói hổng rằng, chỉ cười nụ.

Tới tối sau tiệc mừng, về nhà khách nghỉ ngơi, sếp mới nhẹ nhàng hỏi:

– Út Măng này, ngày trước cậu đi “cưa” gái, cậu chủ động … “mi” nó trước hay là phải đợi cho nó … đè cậu ra … ?

Út Măng ú ớ chưa kịp hiểu trời trăng chi … Sếp đã cả cười bồi tiếp:

Cậu có tự coi mình là “phái mạnh” … Nó là “phái yếu” không ? … Thế thì cậu phải nắm thế chủ động “tấn công” chứ, … hả ? Có sợ bị “thất thế” không, hay lại là thế thượng phong ? Nó chả sướng đê mê, hiến dâng hết cả cho cậu í chứ lỵ …

Út Măng như tỉnh cơn mê … Hy vọng tràn trề nước bạn rồi sẽ hiến dâng cho ta nhiều thứ chớ hổng có đè ra bắt triều cống như thuở xưa nữa.

Tám tháng sau:

Sếp Phó Bí vừa dùng bữa xong, đang ngâm nga xỉa răng. Bất đồ Út Măng từ ngoài cửa nhào vô, la lối:

– Chết rồi … Chết rồi sếp ơi !!! …

– Hả ? … Chết gì … nói ngay ?

– Dạ … Nó … Nó … đè … đè mình ….

– Nó nào … Đứa nào … đè ?

– Dạ … Dạ … là … phía … “Bạn” ạ …

– Hả ? “Bạn” ? Ối giời … đúng thế hả ? Rõ “nước chảy ngược” … Thế thì còn gì bằng nữa, mà cậu lại còn …

– Dạ …

– Cậu có thấy “nhân bảo như thần bảo” chửa ? Hay là sướng tít mắt rồi, giờ chả biết “đáp lại” kiểu gì cho nó xứng với cái thịnh tình của người ta … ?

– Dạ …

– Chà, phấn khởi quá. Mà từ rày cấm tiệt, chớ có gọi là “Nó” nhá … ai lại …

Thế “Bạn” họ “mi” mình hay là …

– Dạ … không …

– … Hay là “hiến dâng” ? Bình tĩnh cáo tớ nghe đi …

– Dạ … không …

– “Không” là không thế nào ? … Sốt ruột ! Nói ngay !

– Dạ … “bạn” … “bạn” … CƯỚP ạ !!!

– Hả !!!???…

Ba Sàm

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị | 13 Comments »

Chính sách khôn dân

Posted by adminbasam trên 04/12/2007

Chính sách khôn dân


Nguyễn Hữu Vinh

Nhớ hồi còn đi học, hay được nghe về “chính sách ngu dân” của đế quốc, làm dân ta u tối để dễ bề cai trị.

Độc lập rồi, phải có chính sách xoá cái “ngu dân” đó, mạo muội gọi là “chính sách khôn dân”. Nhưng có cái khôn nảy nở mạnh từ chính sách mà lại rất đáng lo. Đó là:

1- Trộm vặt: Do chính sách lương phi lý cả nửa thế kỷ rồi. Cán bộ công chức phải kiếm sống đủ kiểu. Trộm nhẹ là giờ hành chính, nặng là tài sản công. Không chức trộm ít. Chức lớn trộm nhiều, nhiều đến độ không còn gọi là “vặt” nữa.

2- Lách luật: Do luật lơ mơ, chồng chéo, phi lý. Quan lợi dụng để hành dân. Dân phải có cách “lách” luật mà kiếm sống. Ngay cán bộ công chức tử tế cũng phải lách để tránh bị kỷ luật, đi tù (đúng kiểu “khôn sống, mống chết“).

3- Chộp giật: Cũng do luật, “dưới luật”, “ngoài luật” … cứ thay xoành xoạch. Mục đích là để quan được “đục nước béo cò”, khiến dân tốn tiền “mãi lộ”, làm ăn thì muốn thu vốn cho nhanh, không dám đầu tư lớn … Cán bộ công chức cũng vội “chộp giật” tiền dân để bù chi phí “chạy” việc.

4- Lật lọng: Cũng từ những chính sách không có cái “thủy chung” (với tư sản, địa chủ, trí thức có công chẳng hạn), làm dân a-dua theo, không biết giữ chữ tín, chỉ nhăm nhe lừa nhau kiếm tiền lãi.

5- Đòn bẩn: “Gắp lửa bỏ tay người“, cạnh tranh không lành mạnh. Dân xấu liên kết với quan tham để giăng bẫy vu oan giá họa, triệt đối thủ làm ăn. Cán bộ công chức thì triệt nhau để giữ “niêu cơm”, giành “ghế”. Tất cả cũng do “chính sách cán bộ” nhiều phi lý.

Vậy, chính sách không phải chỉ làm “khôn dân”, mà cả “khôn quan” nữa đấy chứ. Quan ra chính sách cốt lợi mình (cấp dưới và dân vật vã hại nhau, quan dễ trị). Nhưng điều đáng lo ở chỗ , cái “khôn” lại là “khôn vặt” (khôn lỏi), kiểu khôn mà không ngoan, suy cho cùng cũng lại là … dại thêm. Các cụ dạy nhiều rồi: “Ác giả ác báo“, “đi đêm có ngày gặp ma“, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước” …

Đến là lo !

(Tạp chí Thành Đạt – tháng 11-2006)

Posted in Bài của Ba Sàm, Gia đình/Xã hội, Kinh tế Việt Nam, Đảng/Nhà nước | Leave a Comment »

Biến báo

Posted by adminbasam trên 30/11/2007

Biến báo

(Công văn gửi các ban nghành đoàn thể-Trích)

“… Xin gửi các đồng chí bản lược dịch một đoạn nhật ký của một tay ‘Tây ba lô’ mà một gai* của ta đã bố trí xoáy được (thủ thuật độc đáo này nằm trong chiến lược điều tra thị trường áp dụng cho toàn nghành), để góp phần nắm rõ tình hình chính trị tư tưởng của khách hàng.

Hội Lim

… Rất nhiều cảnh lạ mắt diễn lại đời sống văn hóa thời xưa. Gần chục nam thanh nữ tú trình diễn những màn tạp kỹ thật là điệu nghệ. Họ đứng ngồi trên cái thuyền gỗ bé tí tẹo, bơi trong cái ao cũng bé tẹo. Chắc là ao nông nên họ không sợ. Họ vừa hát vừa biểu diễn xiếc ngả mũ nhận tiền của các diễn viên đóng giả khách ở trên bờ ném xuống (rất khó, thế mà vẫn miệng hát, miệng cười tươi). Có cô vừa hát rất đúng điệu, mắt đong đưa rõ duyên, tay cầm mi-cờ-rô mà tay kia vẫn lia lịa chộp tiền đang bay lượn, mà thuyền vẫn không chòng chành mới lạ. Chứng tỏ một dân tộc thật là ‘khéo tay hay làm’ …

Dạo phố

… Các em bé đi theo rất đông. Họ thật là mến khách, lại còn đưa mời, dúi vào tận tay nhiều kỷ vật. Mình không dám nhận vì nghĩ thật tội cho họ, đã nghèo mà lại còn biếu tặng nữa …

Về vệ sinh môi trường, họ cũng có những cách rất độc đáo, không máy móc như ta, là rác rưởi cứ phải vứt vào một chỗ cố định. Ở đây thì tiện đâu vứt đấy thôi, rồi lâu lâu có những nhân viên chuyên nghiệp đi xe đạp hoặc mang quang gánh đi thu dọn, đồng thời tiến hành phân loại ngay tại chỗ luôn; thứ rác nào họ phụ trách thì mới gom, còn thì để lại cho nhân viên khác (tính chuyên môn hóa cực cao) …

Lễ hội Tây Nguyên


… Nhiều cô gái múa các điệu múa dân tộc thật là dẻo. Nhưng sao các cô ấy trắng trẻo mũm mĩm, nét mặt rất khác với các cô đeo gùi ốm o đi ngoài đường. Hỏi anh chàng gai thì mới vỡ lẽ là ở xứ này họ đã có từ rất lâu những trường đào tạo nghệ sĩ múa truyền thống chuyên nghiệp giành riêng cho con em các dân tộc (nên các cô ấy suốt ngày ăn với múa thì mới trắng trẻo nõn nà đến thế chứ) … Ôi, tự dưng mình có cảm giác xao xuyến lạ, con tim mình nó bị làm sao rồi đây … Mảnh đất tươi đẹp này sẽ giữ chân mình mãi mãi hay sao ?

Hướng dẫn viên

… Họ có những phương pháp truyền thụ kiến thức rất đặc biệt, không nói nhiều như ở các nước, mà để khách tự tìm hiểu, bí quá thì phải hỏi. Thái độ họ rất nghiêm nghị, để cho “học sinh” phải cố gắng hơn trong việc tìm tòi kiến thức …

Cảnh sát

Họ thật là tôn trọng người nước ngoài. Khi cái gã xe ôm chở mình đâm vào một bà già, hắn sợ mặt tái xanh, nhưng anh cảnh sát nhìn mình rồi múa tay múa gậy cái gì mình không hiểu, mình hỏi lại thì anh ta không nói gì mà xua xua tay cho xe mình đi luôn, lại còn ‘chào’ với theo mỗi một từ là ‘gâu’, ‘gâu’ … mới vui chứ (hú vía, phải vào đồn thì lỡ cả chuyến du lịch rồi. Chắc họ sẽ gửi cái giấy phạt sang tận nhà cho mình. Thật là văn minh kinh khủng) …

Còn nhiều lắm … Nhưng qua đây để các đồng chí thấy là bọn tây nhiều khi cũng rất ngô nghê (cái lợi của sự khác biệt văn hóa là ở chỗ đó). Nên ta phải biết giàu trí sáng tạo hơn nữa bằng quán triệt phương châm ‘tay không bắt giặc’, ‘chuyển bại thành thắng’, nhiều khi là ‘hại bất cập lợi’, không nên quá bi quan mỗi khi báo cáo, kêu ca tình hình văn hóa, du lịch thế này thế nọ làm ảnh hưởng đến thu nhập địa phương …”

Ba Sàm

—-

* Gai: Hướng dẫn viên du lịch

(Tạp chí Thế giới Văn hóa – số 44/2006)

Posted in Bài của Ba Sàm, Gia đình/Xã hội, Văn hóa | 1 Comment »

Văn hóa quản lý trong quản lý văn hóa

Posted by adminbasam trên 28/11/2007

Văn hóa quản lý trong quản lý văn hóa


Nguyễn Hữu Vinh

“Những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”, “những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần”*, nói như vậy có lẽ vẫn chưa đủ cho khái niệm về những “đối tượng” trong nhiệm vụ quản lý nhà nước về văn hóa ở đất nước này. Sẽ còn có tất cả những sản vật của tạo hóa góp phần nuôi dưỡng đời sống tinh thần của con người. Thêm nữa, còn bao gồm hết thảy những ai tham gia vào các hoạt động văn hóa nữa. Từ đây ta có thể hình dung ra công việc “quản lý văn hóa” của cơ quan chức năng khó khăn, trừu tượng tới mức nào, và làm sao cho người cán bộ quản lý trong mọi hành xử, quyết định của mình đều có được một “trình độ cao, biểu hiện văn minh”* – tạm gọi đó như là cái “văn hóa quản lý”.

Khi anh cảnh sát giao thông với súng bắn tốc độ trong tay, thật dễ dàng xác định chiếc xe chạy quá nhanh để thổi còi phạt. Còn người quản lý văn hóa khi nhìn nhận một bức tranh khỏa thân, một bức ảnh nuy liệu có dễ dàng phân định được cái ranh giới giữa nghệ thuật đích thực với mức độ “vi phạm thuần phong mỹ tục”, “khiêu dâm” không? Hay trong quyết định xử lý của mình sẽ có đầy những dấu hiệu chủ quan, cảm tình, cảm tính?

Đến như một tang vật để kết tội một bị cáo trước tòa, vị quan tòa cũng đâu có thể một mình khẳng định nó là chứng cứ chắc chắn, mà cần phải có hàng loạt hoạt động tố tụng, từ khâu thu thập, bảo quản, cho đến giám định hết sức nghiêm cẩn. Thế nên với một cuốn tiểu thuyết, làm sao có thể dễ đánh giá nó là “độc hại”, kích động bạo lực, hay xuyên tạc gì gì đó…, một khi chưa có sự thẩm định công khai của ít ra là một hội đồng nghệ thuật khách quan, có uy tín, chứ không phải bởi một vài cán bộ quản lý, dù có chức quyền tới đâu. Những khó khăn cho người quản lý ở đây thậm chí còn có thể đẩy họ tới việc sử dụng những lý do có tính biến báo nhỏ nhặt, mơ hồ, thiếu tính thuyết phục khác. Và thế là lại đụng tới cái “văn hóa quản lý” – không những không góp phần nâng đỡ, phát triển mà thậm chí còn vùi dập những con người tài năng đầy nhạy cảm và hoạt động sáng tạo rất cần sự khích lệ cảm hứng.

Một học viên cảnh sát không thể ra đường tự thực tập bắn súng, bắt bớ, khám xét. Thế nhưng vấn đề lại khác hẳn với những học viên trường nghệ thuật một khi muốn cọ sát với thực tế. Người quản lý văn hóa có nghĩ tới đời sống vật chất eo hẹp của họ, có thấy nhu cầu văn hóa đại chúng, có chịu nhìn nhận về điều kiện dạy và học thiếu thốn khó khăn tới mức nào… hay chỉ thấy chút mặt trái của cuộc sống có thể liên hệ nào đó tới họ khi va chạm với xã hội.

Một tòa nhà xây trái quy định, bị “cắt ngọn” đi, thậm chí đập bỏ, thật là đơn giản. Thế nhưng một bức tường thành xưa, một bức tranh cổ quý giá được phục chế sai lạc hẳn với vẻ ban đầu của nó thì quả là một tai họa không thể nào cứu vãn nổi. Tệ hơn nữa như với Hòn Vọng phu, sản phẩm vô giá của tạo hóa bị đập đi, tiếp đến cái gọi là “phục chế” thật sự là một hành vi lú lẫn phản văn hóa. Những người cán bộ quản lý văn hóa luôn phải trực diện với những thách thức như vậy của lịch sử. Họ có đủ thẩm quyền, nhưng còn kiến thức pháp luật, và ý thức tới đâu rằng mình có đủ không vốn văn hóa, cái tầm viễn kiến, hay chí ít là chịu lắng nghe để đưa ra quyết định mà không gây phản tác dụng, tàn phá chính những gì mình đang có nhiệm vụ bảo vệ?

… Tất cả những kinh nghiệm va vấp ấu trĩ, hành xử thô bạo trong mọi hoạt động quản lý văn hóa là nhiều không thể kể hết. Hiện trạng xuống cấp, nghèo nàn, méo mó của môi trường văn hóa không thể thiếu nguyên nhân từ đó. Nó còn cho ta thấy ngoài những đòi hỏi phù hợp pháp lý trong một môi trường với hàng đống văn bản pháp luật còn sơ sài, chung chung, chồng chéo thì còn cả sự có hay không tính hợp lý, hợp đạo lý đầy tinh tế nữa. Chưa kể tính hai mặt – tốt/xấu, hay/dở – của mỗi hành vi cũng rất cần những người “cầm cân nảy mực” trong môi trường văn hóa biết cân nhắc trong sự công tâm, cầu thị, am hiểu. 

Từ đây có thêm một dấu hỏi, là phải chăng cái khái niệm “quản lý văn hóa” đã mang một hàm ý vừa hẹp vừa cứng nhắc cũ kỹ cho một công việc hệ trọng là gìn giữ, phát huy vốn văn hóa của dân tộc và nhân loại? Nó cần được thay thế, ví như bằng cụm từ “phát triển văn hóa” chẳng hạn.

—-
* “Văn hóa”: Từ điển tiếng Việt, NXB Đà nẵng-Trung tâm Từ điển học, 1997; Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, 1998.

(Tạp chí Tia Sáng – số 14/2007)

Posted in Bài của Ba Sàm, Dân chủ/Nhân Quyền, Văn hóa | 4 Comments »

Bịt mắt bắt sâu

Posted by adminbasam trên 20/11/2007

Bịt mắt bắt sâu *


Con: con chào bố, chào cả nhà …

Bố: vui thế, điểm 10 nữa hả ?

Con: còn gấp nghìn lần điểm 10 ấy chứ ạ …

Bố: chà … chà … được đi báo cáo thành tích chứ gì ?

Con: không … mà là ngược lại đấy bố ạ. Tức là giờ người ta phát động “tuyên chiến với bệnh thành tích” này, rồi “nói không với gian dối trong thi cử” nữa. Như vậy là con vừa không phải “cá mè một lứa” với mấy đứa chuyên quay cóp, mà bọn con cũng chả phải báo cáo thành tích học tập, thầy cô cũng đỡ đi thi “giáo viên giỏi” cấp nọ cấp kia, phát mệt.

Bố: vớ vẩn ! Tất cả chỉ như trò “vạch là tìm sâu”. Chả đi đến đâu.

Con: bố bi quan quá …

Bố: chúng mày ngây thơ quá đi thì có. Cái trò gian dối, thành tích này có mới mẻ gì đâu, có phải chưa phát động phát đậy đâu. Rồi thì đâu lại hoàn đấy thôi … Vẫn muốn cãi à ? … Thế thì bây giờ tao hỏi thế này thôi nhá. Là có bao nhiêu cái trò gian dối trong dạy, trong học ? “Bệnh thành tích” nó gồm những cái gì, có rõ ràng không hay là mờ mờ ảo ảo, đầy dẫy ra đấy ? Có cái luật nào để mà “tuyên chiến” với nó không, hay chỉ hô khẩu hiệu cái mồm ? Rồi tại sao lại sinh ra những trò gian dối này, “thành tích” này … ? Đủ thứ tệ nạn trong giáo dục ấy chứ.

Con: … nhưng chúng con là trẻ con thì làm sao mà biết được …

Bố: đấy, rõ là khó chưa ? Làm sao dễ thấy được hết những cái căn nguyên của nó. Chẳng khác gì cái cây, nó có cái cành bị sâu đục thân mục ruỗng ra, thấy lá héo úa, thế là lăn vào nhặt mấy con sâu vớ vẩn trên lá thôi, chả giải quyết được gì.

Con: bố nói nghe cũng hay đấy. Thế thì phải làm thế nào ạ ?

Bố: chả làm thế nào cả.

Con: … à, con nghĩ ra rồi ! Chỉ có cách là ta chặt béng nó … cả cái cây đi, giồng cây khác là xong …

Bố: ừ … nhưng mà mày chặt cái cành sâu … của mày thôi chứ. Chứ chặt cả cây thì … mày chặt cả tao … tao ở cái cành khác mà … ?

Con: vâng ! … Sâu nó từ đấy sang mà. Từ cành của bố, cành của mẹ, từ nhiều cành lắm … từ tận gốc lên nữa đấy bố ạ.

Bố: …

Ba Sàm

.—

* Từ nhiều cành lắm (Tạp chí Thế giới Văn hóa – số 37-2006);  *(Diễn Đàn – ngày 24/11/2007)

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị, Giáo dục | Leave a Comment »

Đầu tư… từ đâu ?

Posted by adminbasam trên 09/11/2007

Đầu tư… từ đâu ?


Nguyễn Hữu Vinh

Ngót năm mươi tỉ đô la FDI đang “xếp hàng” chờ vào Việt Nam. Đó có lẽ là con số ấn tượng dễ thấy nhất cho thành quả của gần một năm hội nhập-vào WTO. Nhưng, cũng tựa như một căn nhà vừa được mở rộng cửa chào đón khách bốn phương, rất cần biết nó đang được chuẩn bị những gì, có dọn dẹp vệ sinh, khơi thông lối ngõ, thay đổi cung cách phục vụ… để đảm bảo có tất cả đúng như lời hứa của chủ và những hy vọng của khách. Nếu không thì những nhà đầu tư cũng sẽ như đại đa số du khách, háo hức, đến, rồi “một đi không trở lại”. Với “ngôi nhà” này, có rất nhiều việc để chuẩn bị, từ chống tham nhũng, cải cách hành chính, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống luật pháp… cho đến những việc dài hơi hơn là cải cách giáo dục, bảo vệ môi trường. Tựu trung trong mọi biện pháp đều phải từ một vấn đề gốc rễ, đó là sự tham gia của người dân, là lợi ích dân sinh, chứ hoàn toàn không thể là chuyện riêng của nhà nước, cho nhà nước. Nếu thiếu những điều đó thì thành quả đạt được chắc chắn chỉ là trước mắt, nặng về hình thức, mà tiềm ẩn những thất bại lớn khó cứu vãn.

1. Thách thức

  • Tai nạn giao thông cướp đi một nghìn nhân mạng và hàng nghìn phế nhân mỗi tháng, cùng với nó là tình trạng ách tắc giao thông đô thị, qua bao nhiêu đợt “ra quân”, bao biện pháp tình thế tạm bợ hòng cứu vãn vẫn không chịu thuyên giảm [1] .
  • Nạn ô nhiễm, tàn phá môi trường, vệ sinh thực phẩm kém ảnh hưởng sức khỏe người dân và ngấm ngầm hủy hoại giống nòi vẫn tiếp tục gia tăng. Đợt lũ lụt dài và gây tổn thất chưa từng có vừa qua là một trong những lời cảnh báo của thiên nhiên.
  • Chính sách đất đai bất hợp lý tạo ra cơ hội và nguồn thu lớn nhất cho tham nhũng, gây vẩn đục môi trường đầu tư, kinh doanh, trong khi những cố gắng chống tham nhũng vẫn có vẻ dậm chân tại chỗ, với rất nhiều hiện tượng, trong đó tình trạng khiếu kiện ngày một gia tăng là minh chứng rõ nhất và cũng gây hậu quả lớn và phức tạp nhất.
  • Tình trạng quản lý lỏng lẻo trong quy hoạch đô thị và xây dựng làm cho hệ thống giao thông, hạ tầng cơ sở phục vụ đầu tư vẫn trì trệ, vừa là hậu quả của tệ tham nhũng, của thói vô trách nhiệm, nhưng cũng vừa là hệ quả của tình trạng yếu kém trong hệ thống pháp luật. Hàng ngàn vạn căn nhà xây trái phép, đất bị lấn chiếm phải hoặc không thể bị đập bỏ, thu hồi. Vụ PMU18 cho tới thảm họa cầu Cần Thơ gần đây cũng chỉ là những bề nổi dễ thấy.
  • Tay nghề yếu, thu nhập thấp, đời sống khổ cực của công nhân trong nhiều nhà máy, khu công nghiệp cùng hàng trăm vụ đình công mỗi năm mà tuyệt đại đa số là không đúng pháp luật, nhưng cũng lại hầu như không có tiếng nói bảo vệ của tổ chức công đoàn là câu trả lời cho những cứu cánh từ sức hấp dẫn về giá nhân công rẻ cho đầu tư, từ cố gắng dựa vào hội, công đoàn “nhà nước” và hệ thống luật liên quan như Luật Lao động, Luật về Hội, Luật Đình công… vừa thiếu vừa bất hợp lý không thể tồn tại lâu được nữa.

Đó là điểm qua vài nét điển hình nhất để tạm hình dung hình ảnh được tạo ra trong con mắt nhà đầu tư đã, hay sắp, đặt hy vọng sinh lời vào những đồng đô-la của mình sẽ ra sao. Có thể ta cảm thấy bất lực nếu như phải một lúc đối mặt với từng đó vấn nạn, từng đó thời gian mà mọi sự dường như có chiều hướng xấu thêm. Chưa kể đến việc hầu như mọi quyết định, chính sách đưa ra đều có hai mặt của nó. Như việc quy định đội mũ bảo hiểm, nếu thực hiện được chắc chắn sẽ giảm bớt thương tật trong tai nạn giao thông, nhưng bởi gấp gáp thi hành mà thiếu những giải pháp từng bước, đồng bộ nên độ khả thi chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng; doanh nghiệp mũ bảo hiểm trong nước thì mất cơ hội, ngược lại doanh nghiệp nước ngoài lại vớ bẫm, thậm chí gây nhiễu loạn thị trường, hạ thấp tính nghiêm minh của pháp luật bằng sản phẩm kém chất lượng. Hay việc khuyến khích những khoản đầu tư chóng sinh lời như lắp ráp xe máy, ô tô giá rẻ nếu không được cân nhắc đến vấn đề môi trường, tai nạn, ùn tắc giao thông đang là vấn đề vô phương cứu vãn nhiều năm nay, cao hơn là chiến lược công hiệp hoá hiện đại hoá đất nước (chứ không phải để thành một đại công trường gia công cho nước ngoài) thì cũng sẽ gây phản tác dụng.

2. Lối thoát
Song không phải không có lối thoát, cũng không phải chỉ có nhà nước mới có khả năng và trách nhiệm để điều chỉnh mọi chính sách sao cho hợp lý. “Lối thoát” đó chính là ở DÂN. Vì đã quá rõ những trì trệ nêu trên là hậu quả của năng lực, phẩm chất kém từ bộ máy điều hành các cấp, nhưng lại tránh né sự kiểm soát của công luận, ắt sẽ trầm trọng thêm. Người dân phải được tham gia tích cực, chủ động hơn vào mọi chính sách quan trọng của nhà nước. “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” không thể chỉ là khẩu hiệu tuyên truyền, mà muốn được như vậy, trước hết phải tạo ra được môi trường pháp lý lành mạnh để người dân có được quyền lợi, trách nhiệm thực sự trong vai trò làm chủ của mình như Hiến pháp đã khẳng định. Đơn cử:

  • Luật Trưng cầu dân ý [2] là để lấy ý kiến nhân dân về những quyết định quan trọng của nhà nước. Không biết được dân có đồng tình hay không mà cứ làm thì sẽ gây nhiều hậu quả (chỉ thông qua báo chí, hay qua “triển lãm” lấy ý kiến dân chưa thể đầy đủ, khách quan và có sức mạnh, cả sự tôn trọng. Việc lấy ý kiến xây Tòa nhà Quốc hội là một ví dụ).
  • Luật Biểu tình có rất nhiều ý nghĩa. Ngay lúc này, nó có thể là một công cụ hữu hiệu đấu tranh với vấn nạn tham nhũng mà nhà nước đang rất lúng túng đối phó. Xưa từng có bao cuộc biểu tình, tuần hành chống ngoại xâm, sao nay dân ta không được làm như vậy với lũ nội xâm? Hay như tình trạng khiếu kiện về đất đai kéo dài gần đây, thực chất là người nông dân kéo lên thành phố biểu tình. Đó chính là “thước đo” cho chính sách, luật pháp,… Nếu như có luật để điều chỉnh cho những hành vi này thì sẽ dễ dàng hơn trong việc giải quyết, xử lý mâu thuẫn, kể cả mâu thuẫn trong chính sách cán bộ khiến khó xử lý những cấp thẩm quyền tham nhũng, vô trách nhiệm, nay cần dựa vào sự đánh giá qua thái độ của dân.
  • Ngoài những hoạt động có tính cá nhân đơn lẻ, người dân còn cần và có thể quy tụ trong những đoàn thể quần chúng dưới nhiều hình thức đa dạng, đó là những tổ chức hội, và rất cần có Luật cho nó. Thông qua những tổ chức này, mọi người dân, các tầng lớp doanh nhân, trí thức… có điều kiện nói lên tiếng nói của mình, đòi được bảo vệ quyền lợi cho mình, đóng góp ý kiến thiết thực, có trọng lượng cho mọi chính sách, pháp luật của nhà nước.
  • Thêm nữa, một khi những mâu thuẫn về quyền lợi trong nhân dân không được giải quyết thỏa đáng, sinh ra khiếu kiện chính là gánh nặng đè thêm lên bộ máy hành chính nhà nước, trong khi trách nhiệm giải quyết những việc làm sai trái của họ lại không thể là chính họ, mà phải là hệ thống toà án. Thế nhưng, bằng thực trạng toà lệ thuộc vào cấp ủy, cấp hành chính, thiếu khách quan như hiện nay, mà ví dụ điển hình nhất là vụ án đất đai Đồ Sơn-Hải Phòng, đã không thể gánh vác được nhiệm vụ ngày càng nặng nề này, cần phải được cải tổ (trước hết bằng thành lập toà án khu vực). Nên việc sửa đổi Hiến pháp để rồi mới sửa được và cũng là tạo áp lực để sửa căn bản các Luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát v.v.. là vô cùng quan trọng.

Còn rất nhiều những ví dụ để minh chứng cho việc cấp thiết phải có các bộ luật liên quan trực tiếp tới đời sống dân sinh, cũng là sự hỗ trợ mạnh mẽ cho một môi trường đầu tư lành mạnh, bền vững lâu dài.

3. Trở ngại
Thế nhưng dường như đã có những “tiếng kèn ngập ngừng” khó lý giải, đặc biệt “tiếng kèn” này lại nhắm vào đúng cái chính sách mà Đảng, nhà nước Việt Nam thường nêu cao, đó là “lấy dân làm gốc”.

  • Cuối nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, dự Luật về Hội đáng lẽ đã được đem ra bàn thảo, thông qua sau hơn chục lần chỉnh sửa, thế nhưng đã bị đình hoãn mà người dân không hay biết vì sao.
    Mới đây, Chính phủ lại tiếp tục đề nghị Quốc hội lui thời hạn thông qua dự luật này cùng dự luật Dân tộc [3] .
  • Dự Luật Biểu tình, dự luật Giám sát của nhân dân do Mặt trận Tổ quốc đề nghị cũng vừa bị Uỷ ban Pháp luật bác bỏ mà không rõ lý do [4] .
  • Dự Luật Trưng cầu dân ý cũng chịu chung số phận.
  • Nếu như không có sự trì hoãn trong cả thời gian dài đến kỳ lạ việc trình dự thảo Luật Thuế sử dụng đất [5] (mặc dù đã có Nghị quyết Trung ương 7 đặt nhiệm vụ rất rõ) thì chắc chắn sẽ giảm rất nhiều tình trạng chiếm dụng, đầu cơ đất đai, là thứ đã góp phần đáng kể gây nên cảnh bất công, nông dân mất đất để rồi sinh khiếu kiện, đẩy giá đất, nhà cho thuê lên cao đến phi lý cản trở nhiều các nhà đầu tư, chưa nói tới những mất mát tài sản quốc gia vô cùng lớn, cùng bao nhiêu hệ luỵ khác. Vấn đề rất hiển nhiên về thuế sử dụng đất này cũng đã từng được chuyên gia nước ngoài dày công nghiên cứu và cảnh báo [6] , những ý kiến rất có trọng lượng và trách nhiệm trong nước kiên trì đề nghị, vậy mà không rõ vì lý do gì vẫn tiếp tục bị trì hoãn [7] / [8] .
  • Lớn nhất là Hiến pháp, cũng đã có quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là không sửa trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa 12 này [9] mà lý do đưa ra cũng thật khó thuyết phục. Đó là phải chờ tới 4 năm nữa để Đại hội đảng CSVN khoá XI sửa Cương lĩnh. Lý do này gây ra một nghịch lý, là trước những thay đổi nhanh chóng khủng khiếp từng ngày trên thế giới mà Việt Nam vừa mới bước vào hội nhập, cùng bao nhiêu khó khăn thách thức ghê gớm trong đời sống nhân dân cả nước, vậy mà tất cả phải đợi chờ. Không lẽ Đảng CSVN không có được một bước đột phá để khỏi tự mình trở thành lực cản không thể vượt qua cho công cuộc đổi mới mà chính mình đang lãnh đạo? (Ví như có Đại hội bất thường để sửa Cương lĩnh chẳng hạn, nếu như thực sự đúng là “phải sửa”). Trong khi đó vẫn có rất nhiều ý kiến mạnh mẽ của các chuyên gia, các vị từng là lãnh đạo các bộ Tư pháp [10] , Tài nguyên Môi trường, hay đương nhiệm đứng đầu Mặt trận Tổ quốc, Hội Luật gia, các Ủy ban của Quốc hội đề nghị phải sớm có, phải sửa đổi hệ thống Hiến pháp và những bộ luật này.

4. Căn nguyên
Bấy nhiêu liệu đã đủ để nói rằng vẫn còn đó những lối tư duy cũ kỹ, e ngại việc phát huy dân chủ, sớm hoàn thiện một Nhà nước pháp quyền sẽ khó cho công việc “quản lý” của các cấp hành chính, cấp ủy Đảng. Kể cả hy vọng vẫn còn có thể duy trì những bước đi quanh quẩn, với cứu cánh bằng hoạt động tuyên truyền, động viên là có thể “giải toả” được những vướng mắc, bức xúc trong dân chúng, vận động được đầu tư trong ngoài nước. Hay bằng “giáo dục, thuyết phục”, hô hào rồi thử nghiệm bằng vài giải pháp tạm bợ để “cải cách” là sẽ nâng cao được đạo đức, ý thức trách nhiệm của cán bộ đảng viên mà không cần phải có những Tòa Hành chính, Kinh tế, Dân sự khu vực công minh hơn buộc những “công bộc” này phải đối mặt trước những việc làm sai trái tổn hại quyền lợi của dân. Thậm chí có thể có cả những lo lắng quá mức khi có những ý kiến động tới “vùng cấm” là Điều 4 Hiến pháp [11] ? Bỏ nó “là tự sát” [12] , vậy có thể sửa cho phù hợp với tình hình thực tế trước những đòi hỏi cấp bách của cuộc sống được chăng, và có công khai bàn bạc được không? Chẳng phải năm 1992 chính Quốc hội khóa IX đã sửa Điều 4 Hiến pháp 1980 đó sao? Bởi vì nếu không được quy định trong Hiến pháp thì việc “luật hóa” tổ chức, hoạt động và sự lãnh đạo của Đảng ngày càng trở nên cấp thiết cũng sẽ khó có thể thực hiện, và đương nhiên mối quan hệ, lòng tin của dân với Đảng CSVN sẽ không những không được cải thiện mà còn xấu thêm.

Nhưng, gắn liền và lẩn khuất sau những e ngại đó không thể không có những toan tính cá nhân, cục bộ liên quan tới trách nhiệm, đến quyền lợi vật chất, tinh thần của nhiều người. Gọi đó là trò “tham ô chính sách” hết sức tinh vi (tác động để đưa ra những điều khoản trong hệ thống luật hòng tạo kẽ hở cho tham nhũng, hoặc cản trở những điều khoản, dự luật nào có thể giúp tăng hiệu năng kiểm soát của xã hội) – mà lâu nay chưa bị vạch mặt, đang là một mối nguy rất lớn hủy hoạt uy tín, sức mạnh của Đảng CSVN, đến vận mệnh của cả Dân tộc.

Làm sao để nhận diện rõ những khoảng tranh tối tranh sáng đó? Không cách gì hơn là bằng việc mở rộng quyền tự do ngôn luận, báo chí, công khai hoá tất cả những vấn đề trọng đại của quốc kế dân sinh để cùng bàn bạc dân chủ – từ trong Đảng ra tới toàn xã hội.

Có vậy thì mới hy vọng mọi sự đầu tư, dù là từ trong hay ngoài nước, bằng tiền của, hay công sức, trí tuệ, tinh thần,… tất thảy sẽ thực sự được bắt đầu và trên hết từ lợi ích, sự đồng thuận của DÂN.

© 2007 talawas


[1]“Số người chết vì tai nạn giao thông tăng”, báo Quân đội Nhân dân, ngày 6-6-2007
[2]“Cần xây dựng Luật Trưng cầu dân ý”, Tuổi trẻ, ngày 12-10-2007  http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/223959/Can-xay-dung-Luat-trung-cau-dan-y.html

http://phapluattp.vn/20100814012257716p0c1013/nha-nuoc-nhan-phan-kho-de-dan-duoc-thuan-loi.htm
[3]“Ủy ban Pháp luật kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và xây dựng cơ chế bảo hiến”, Đại Đoàn kết, ngày 28-9-2007
[4]Bài đã dẫn
[5]“Quản lý đất đai ‘chồng’ &’trống’”, Đặng Hùng Võ, Nhà Quản lý, số 52-tháng 10-2007
[6]“Đưa giá đất VN giảm xuống bằng 0”, Tuổi trẻ Cuối tuần, ngày 18-3-2007
[7]Tin vắn, Tuổi trẻ Cuối tuần, ngày 22-8-2007
[8]“Muốn kéo giá bất động sản xuống: Ngoài thuế, không có cách nào khác”, Đặng Hùng Võ, Thanh niên ngày 18-10-2007
[9]“Quốc hội khóa XII sẽ không xem xét sửa Hiến pháp”, VietNamNet, ngày 11-10-2007
[10]“Tinh thần Hiến pháp”, Nguyễn Đình Lộc, Huy Đức, Sài Gòn Tiếp thị, ngày 19-9-2007
[11]“Đã đến lúc sửa Hiến pháp?” Nguyễn Đình Lộc, Khíêt Hưng, Tuổi trẻ Cuối tuần ngày 8-10-2007
[12]Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, nói chuyện với cán bộ chiến sĩ Tổng cục Chính trị Quân đội NDVN, VTV1, ngày 27-8-2007

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Kinh tế Việt Nam, Pháp luật | Leave a Comment »

“Sử gia” viết “Gia sử”

Posted by adminbasam trên 06/11/2007

“Sử gia” viết “Gia sử”

Hôm lâu

Con: bố ơi, “lịch sử” là gì hả bố ?

Bố: à … là … tất cả những chuyện xảy ra từ hôm qua trở về … ngày xưa, của một … cái gì đó, chẳng hạn của một nước (gọi là “Quốc sử”) … Người ta ghi lại, nghiên cứu, thành cả môn khoa học. Hình như là sang năm con sẽ được học môn sử đấy.

Con: thế thì có lịch sử … nhà, tức là gia đình không ạ ?

Bố: ừ … nếu thích thì cũng có. Nhưng chả thấy ai làm cái này cả. Chỉ có cái “gia phả” thôi, nhưng nó cũng không được chi tiết như lịch sử.

Con: thế thì con thử làm cho nhà mình bố nhá ?

Bố: tuyệt vời con tôi, còn gì bằng. Thằng này có chí hướng quá đi mất. Cố mà tập con ạ, sẽ có nhiều ích lợi vô cùng, lại đỡ đi chơi lêu lổng. Nào là gương chiến đấu, vào tù ra tội của ông, bà … rồi những quá trình đóng góp, cương vị của bố … cũng kha khá đấy nhá ! Các con sẽ nhìn vào mà tự hào, mà noi theo … Mình gọi nó là “gia sử”, nhẩy ?

Hôm nọ

Con: bố ơi, bố thử nghe con đọc “gia sử” nhà mình con ghi bố nhé.

Bố: chà chà, con tôi giỏi quá. Nào đọc ngay đi, hồi hộp quá !

Con: “… ông tôi già yếu lắm, xưa ông đi cách mạng bị đi tù …”

Bố: đấy, phải nói được những cái quan trọng như thế …

Con: “… bố tôi chưa bị bỏ tù nhưng chắc cũng có công to nên đi đâu cũng có ô tô cơ quan chở cả. Bố chăm làm việc lắm. Tối đến là có nhiều người đến nhà làm việc, đem đến cả các thứ, lại đưa cả thư nữa, nhiều lắm. Mà sao thư không gửi bưu điện mà lại đưa tận tay tôi cũng không biết, chắc là quan trọng lắm …”

Bố: hừ … không ổn rồi …

Con: “… thế mà ông vẫn cứ hay mắng bố, hôm nọ mắng là “mày là cái thằng tiêu cực”, “mày lợi dụng danh tiếng tao” …” (tiêu cực, danh tiếng là gì hả bố ?)

Bố: chết, chết thật ! … Mà này … bố bảo nhá. Con ghi thế này là không đúng … kiểu “lịch sử” rồi. Đưa đây bố, rồi bố bầy cho ghi. Chưa được học có khác.

Con: thế thì ghi thế nào hả bố ?

Bố: là … là … phải ghi những cái gì … tốt này, vui vẻ này để nêu gương … À, với lại phải những việc lớn cơ, chứ chuyện nói năng, khách khứa … nó … vớ vẩn quá.

Con: … nhưng hôm nọ bố bảo là phải ghi tất cả cơ mà … À, con có cách rồi !

Hôm nay

Con: ông ơi, bố ơi, nghe con đọc “gia sử” nhà mình nhá.

Ông: ôi, ngạc nhiên quá nhẩy. Thằng này đặc biệt lắm đây.

Bố: con dạy nó đấy bố ạ. Nào, con đọc cho ông tự hào về “sử gia” của ông đi.

Con: “… ngày xưa ông đi hoạt động bị tù tội …”

Ông: tốt quá !

Con: “… hôm nọ tôi đọc cho bố tôi nghe, nhưng có nhiều đoạn về bố thì bố bảo không được đưa vào, nên tôi ghi riêng ra quyển khác tên là “gia sử bí mật” …

Bố: cái thằng mày làm trò gì …

Ông: yên nào !

Con: … giờ cháu đọc cái quyển “gia sử bí mật” ông nhá “… Quyển sử này để cất bí mật trong nhà không cho người ngoài xem … Bố làm việc vất vả, tối cũng làm, lại có nhiều người đến làm cùng, đem cho bố nhiều đồ dùng mới nguyên, cả thư từ nữa. Ông mắng bố “mày là thằng tiêu cực”. Nhưng bố bảo tôi là không được ghi thế, lịch sử phải ghi những cái gì tốt đẹp thôi. Tôi nghe lời bố nhưng tôi không hiểu gì cả. Chẳng nhẽ ông mắng bố, là bố dạy con mà lại không tốt à ? …”

Ông (chỉ bố): á, thằng đểu, nó viết đúng quá mà mày dám dạy nó lếu láo, dối trá hả. Cút ngay khỏi nhà này !

Bố: này cụ ơi, cụ cổ lỗ lắm rồi … Mà con cút thì ai nuôi cả cái nhà này … , ai xe đưa xe đón oách-xì-dầu cho cụ đi họp hành “cựu” nọ “cựu” kia ? …

Con: … ông ơi, bố ơi … thế con nghe lời bố, con ghi luôn là … hôm nay ông với bố cãi nhau như thế …. vào cái quyển “Gia sử bí mật” bố nhá ?

Ông: này, tao cấm! Để đấy, hôm nào ông bảo cho mà ghi. Chúng mày … bố lếu bố láo hết. Học với chả hành !

Con: hay là ông cho cháu lại ghi vào một quyển nữa, gọi là “Gia sử bí mật nữa“, ông nhá ?

Ông/Bố: …

Ba Sàm

(Tạp chí Thế giới Văn hóa – số 40-2006)

Posted in Bài của Ba Sàm, Giáo dục, Lịch sử | Leave a Comment »

Kính thưa …ai ?!

Posted by adminbasam trên 02/11/2007

Kính thưa …ai ?!

Nguyễn Hữu Vinh

Trong phiên họp cuối cùng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11, các vị đại biểu đã bất ngờ thảo luận khá công phu về chuyện có nên có câu “Kính thưa…” hết thảy các vị lãnh đạo trong mỗi cuộc họp. Chuyện có vẻ như nhỏ nhặt, nhưng quả tình lại là rất lớn, vì đã có rất nhiều sự kiện, hiện tượng ít nhiều có liên quan tới cái “kính thưa” này, những thứ “tàn dư phong kiến” đeo bám dai dẳng, xin được nêu ra ở đây để bạn đọc suy ngẫm:

1. Người cộng sản khi tranh đấu giành chính quyền luôn tự coi mình là con dân, dựa vào sự che chở của dân, khi giành được chính quyền rồi thì nhận mình là đầy tớ của dân. Nghĩa là họ phải luôn kính trọng dân. Còn giữa những người cộng sản, họ luôn là đồng chí, bình đẳng, không phân biệt đẳng cấp, nguyện đấu tranh lật đổ những chế độ bất công, phân biệt giai cấp, chủng tộc… Gần 80 năm đã qua…

2. Nước Việt Nam DCCH chấm dứt chế độ phong kiến cách đây cũng đã hơn 60 năm, bước vào một hình mẫu xã hội mà theo như học thuyết Marx thì còn văn minh hơn cả chế độ tư bản. Vậy giá trị “văn minh” đó gồm những gì, có cái bình đẳng, không phân biệt đẳng cấp xã hội giữa người với người hay không ? Chắc chắn là phải có!

3. Lại thêm 20 năm đổi mới, mở cửa nữa, đâu có thấy chút tàn dư phong kiến nào ở ngoài du nhập vào, chỉ thấy văn minh phương Tây thôi.

4. Và trên thực tế suốt hơn 60 năm qua thì sao?

– Dường như trong thái độ, lối cư xử của người dân và rất nhiều công chức vẫn còn luyến tiếc những hủ tục cũ kỹ, gây ra tiếng xấu cho nhiều cán bộ cấp cao là nặng tư tưởng phong kiến, thích được xu nịnh, thưa bẩm như những ông vua ông quan. Vì cái “phong kiến” không phải chỉ ở mấy chữ “kính thưa” trong mỗi cuộc họp, mỗi bài diễn văn, mà là đầy dẫy trong mọi ứng xử của cuộc sống, như đánh giá cán bộ, nội dung báo chí (luôn thấy hình ảnh các lãnh đạo được đưa long trọng trang đầu của báo, chiếm thời lượng đáng kể đầu chương trình thời sự ngắn ngủi của truyền hình). Mỗi lần các vị “vinh quy” là đón rước linh đình, xe cộ như nước, diễn văn toàn những lời lẽ hoa mĩ, tâng nịnh… Thậm chí ngay cả khi các vị đang sắm vai “ông nghị” đi gặp dân để nghe lời “chỉ bảo”.

– Người ta còn làm hỏng hình ảnh đẹp đẽ của lãnh đạo là khi có vị nào đó chót sai phạm, hoặc ra những chỉ thị vội vã dễ gây thiệt hại lớn cho dân cho nước thì lại nghĩ là các vị cũng như mình, sợ sự thật mà sẽ không chịu lắng nghe, nên đã không can gián, để các vị lại dấn sâu hơn vào sai lầm nguy hiểm.

– Khi cần bầu chọn những người có đức, có tài vào vị trí lãnh đạo thì người ta cũng dễ dàng để mặc các vị quyết định vị trí cho mình (hoặc chỉ “bầu” một thôi, để tránh “tổn thương” cho những vị bị thất cử ?) mà không dám lên tiếng phát biểu về quan điểm riêng. Trong khi đó lại vẫn rỉ tai nhau vô số những thông tin tồi tệ về các vị đó ở bên ngoài xã hội. Họ còn xuyên tạc, đổ tại là nếu công khai phát biểu ý kiến không đồng tình ai đó thì sẽ bị trù dập.

– Không thiếu gì người lãnh đạo vừa có tài năng, đức độ, cả sức khỏe để cống hiến trọn đời, thế mà cứ máy móc căn cứ theo độ tuổi chung chung để bắt hết thảy các vị ai cũng như ai phải về hưu khi “đến tuổi” theo kiểu “cá mè một lứa”. Đó thực chất là hậu quả của cái lề thói cũ trong những người cấp dưới thừa hành khi đề ra chính sách, đổ tại là vì nể nang, ngại được lòng người này lại mếch lòng người khác, thậm chí lo các lãnh đạo sinh lục đục đấu đá nhau vì không được “cùng nghỉ”.

– Cái sự khúm núm, cung cúc với “quan trên” chẳng khác nào với chánh tổng, lý trưởng ngày xưa đã lan đến tận hang cùng ngõ hẻm, tới độ là nếu không may có vị quan to nào trót dại ăn cướp của dân, bị đi “bóc lịch” thì thường vẫn cứ được gọi bằng “ông”, được nghe những lời kể tội rất nhẹ nhàng bóng bẩy, trong khi một tay dân đen mới bị nghi ăn cắp là trở thành “thằng”, “hắn”, “y” ngay tức thì.

Rõ là thái độ sợ sệt, luồn cúi, xu nịnh, tâng bốc lãnh đạo đều từ bên “dưới”, tức là từ dân chúng và cán bộ cấp dưới. Có điều, ở đây nó cũng có cái quy luật “cung-cầu”. Không có “cầu” thì làm sao có “cung”, nhất là “cầu” này lại thuộc về một dạng “khách hàng đặc biệt”, tức là có quyền lực, không dám nói là như Thượng đế thì cũng gọi là có “quyền sinh quyền sát”. Lại rất dễ nảy sinh cái tình trạng khi “cầu” mạnh quá mà “cung” không kịp, không đủ thì ắt là to chuyện rồi. Còn “cầu” mà không có thì thử hỏi “cung” biết giành cho ai ? Nói rõ ra là nếu chẳng có vị lãnh đạo nào ưa trò nịnh bợ, thì dẫu ai đó có thói xun xoe cũng sẽ tự thấy xấu hổ, vô ích mà rút lui thôi.

Vậy nên, thiết nghĩ cái hủ tục phong kiến kiểu “kính thưa” đó có thể khả dĩ mà lượng thứ nếu bắt nguồn từ người dân, cán bộ cấp dưới, chứ không thể chấp nhận có ở các cấp lãnh đạo. Không thể có những hiện tượng ví như: đọc thiếu một chức vụ của các vị trong một buổi lễ, không đưa tin các vị đi thăm chỗ nọ chỗ kia, ảnh các vị đăng trên báo có hơi nhỏ, thiếu một câu “kính thưa” với quý vị trong diễn văn, đọc danh sách đại biểu không đúng cái trật tự bất thành văn là chức vụ từ to xuống nhỏ… mà lại làm các vị bực bội, cho là mình bị coi thường, bị chơi xỏ, rồi kiếm cớ gây chuyện trù úm sau này.

Phải gạt bỏ ngay những hủ tục kiểu làng xã vừa nêu, đặc biệt ở những cán bộ cấp cao, để trước tiên tránh mọi nghi kỵ làm xấu, hạ thấp đi hình ảnh các cấp lãnh đạo của chúng ta, nhất là khi các vị đang bước ra thế giới sánh vai cùng lãnh đạo các quốc gia văn minh tiên tiến.

(Tạp chí Nhà Quản lý – số 53 – tháng 11/2007)

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị | 3 Comments »

Tự đề cử

Posted by adminbasam trên 30/10/2007

 Tự đề cử

Nguyễn Hữu Vinh

Vậy là một kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khá sôi động sắp được khép lại. Kể từ kỳ bầu cử thứ nhất cách nay 60 năm, người dân lại có được chút cảm giác hồi hộp, mong chờ. Tuy còn đó những hẫng hụt, những phỏng đoán mù mờ khi có quá nhiều ứng viên xin rút, bị loại không qua lá phiếu cử tri (kể cả số được đề cử), hay những vội vã, lúng túng trong nhiều khâu tổ chức từ hiệp thương, “gạn lọc”, cho tới khai báo, xác minh tài sản, đơn thư khiếu nại, tố cáo …, nhưng nếu những ai biết kiên nhẫn và chịu khó quan sát thì sẽ thấy được những tín hiệu đáng mừng. Cái mừng lớn nhất là một số lượng người tự ứng cử đông chưa từng thấy (223, so với 60 ở khóa 11), trong đó lại còn có nhiều người có tiếng tăm, những người đã, đang ở cương vị lãnh đạo cao cấp của nhà nước ít nhiều có được cảm tình trong dân chúng (cũng là chưa từng thấy). Đáng mừng nữa là nhiều vấn đề từng bị coi là “nhạy cảm” xưa nay ngại nói ra, giờ dân cũng được biết qua báo chí, như những băn khoăn về quy trình hiệp thương e còn thiếu khách quan, chuyện có tới 29 ứng viên thuộc diện Bộ Chính trị, trung ương quản lý bị đơn thư khiếu nại, tố cáo, hay việc một vị cựu thứ trưởng tự ứng cử đã được “trên” gọi điện thông báo là không ứng cử nữa … Nhưng cũng từ những tín hiệu đáng mừng này, nếu suy nghĩ rộng ra, xa hơn cho một tương lai xắp tới của bộ máy tổ chức nhà nước, cho kỳ bầu cử Quốc hội khóa 13 chẳng hạn, thì sẽ lại rất lo. Đó là cái khả năng phát sinh một khoảng trống lớn từ cách thức lựa chọn ứng viên để bầu ra những người đại biểu của dân.

Trừ kỳ bầu cử đầu tiên năm 1946 mang sắc thái hoàn toàn khác biệt, thì một điều rất dễ nhận thấy trong cách thức lựa chọn ứng cử viên để bầu đại biểu Quốc hội trong thời gian qua là chỉ có hai hình thức hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng lại có chung một điểm yếu. Một do cơ quan, đoàn thể của đảng, Nhà nước đề cử. Hai là cá nhân tự ứng cử. Hình thức thứ nhất chiếm vị trí tuyệt đối và kéo dài suốt từ Quốc hội khóa 2 cho tới nay. Còn hình thức thứ hai chỉ mới manh nha cách đây 10 năm, nhưng thực sự bắt đầu có ý nghĩa thì mới từ khóa 12 này.

Tại sao nói là “trái ngược” nhưng lại có điểm chung ?

Trái ngược: một do đảng, nhà nước “chọn”, một do cá nhân tự chọn.

Điểm yếu chung: những người được đề cử đều đang phải đảm đương trọng trách của đảng, nhà nước, hoặc đoàn thể thuộc đảng, nhà nước, nên gặp khó khăn rất nhiều cho công việc của Quốc hội. Phần đông trong số họ lại được chọn bởi các cơ quan hành pháp, tư pháp, hoặc dẫu có bởi đoàn thể thì cũng ít nhiều chịu sự “chủ quản” của cơ quan hành pháp. Như vậy tính đại diện và điều kiện để đại diện cho dân của họ chắc chắn bị hạn chế rất nhiều. Còn người tự ứng cử, không phải do đảng, nhà nước “chọn”, tính đại diện cho dân có vẻ rõ hơn, nhưng thực sự vẫn yếu. Vì người tự ứng cử thường không hoạt động trong một đoàn thể quần chúng nào, hoặc có hoạt động thì cũng không phải được đoàn thể đó đề cử, nên họ không được sự tôi luyện, đánh giá sâu sát cũng như mang tính đại diện của một nhóm quần chúng cử tri nào. Đây là điểm bất lợi cho chính các ứng viên đó, cũng là bất lợi chung cho việc chọn lựa đại biểu cho Quốc hội; nhất là trong hoàn cảnh mà thói quen của đông đảo cử tri qua nhiều năm là nghi ngại, không tin rằng thời buổi này mà vẫn còn có những kẻ sẵn sàng “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, chưa kể ý thức về một cơ quan dân cử phải thực sự trực tiếp từ dân, từ các hội đoàn của dân cũng chưa được nhiều và mạnh. Có thể cũng lại chính từ việc hiểu rất rõ thực tế này mà nhiều cá nhân có tâm huyết, năng lực, điều kiện để ra ứng cử cũng không mặn mà gì, họ mang cảm giác cô độc. Họ không muốn “đánh cá” uy tín của mình, vì dù sao thì việc trúng hay không cũng ít nhiều đánh giá sự tín nhiệm của quần chúng, kể cả bị “chụp mũ”, nghi oan là kẻ có ý đồ “cá nhân”, háo danh.

Chính vì vậy mà hoạt động tổ chức bầu cử Quốc hội vừa qua dường như đã gặp phải những lúng túng. Trong đó không thể không có những lo lắng về năng lực, tư cách, điều kiện của những vị tự ứng cử ra sao, bằng cách nào để đánh giá chính xác. Nếu vẫn theo cách “sàng lọc” rất hẹp và khá là đơn giản bằng lấy ý kiến cử tri nơi cư trú, nơi làm việc như lâu nay, cho một số lượng ứng viên quá lớn như vậy, liệu có bị “lọt lưới” nhiều người không xứng đáng không ? Còn nếu phải dùng đến biện pháp “thô”, là loại khi hiệp thương lần cuối ở hội đồng bầu cử, thì e rằng ít nhiều mất đi cái bản chất “trực tiếp” của quy trình bầu cử như luật định, là đã thay cử tri đi bỏ phiếu rồi. Cũng không loại trừ những lo ngại là rất có thể một kẻ “vô danh tiểu tốt” nào đó lại thắng cử trước một quan chức được đảng, nhà nước cử, chỉ do các khâu sàng lọc lâu nay quá bất hợp lý; nảy sinh nghi vấn rằng quan chức này kém tư cách, năng lực, mà chưa quen được tâm lý coi đó là chuyện bình thường. Rồi từ lo lắng này mà có thể phải sử dụng đến biện pháp hiệp thương để sàng lọc một cách khiên cưỡng. Đáng lo là những băn khoăn chính đáng rất có thể đã bị lẫn lộn với những thái độ muốn níu kéo lề lối cũ, e ngại sự có mặt của những người có năng lực, dám bảo vệ quyền lợi của người dân.

Còn có rất nhiều sự lúng túng khác nữa mà chỉ người trong cuộc thì mới có thể rõ hết được. Nhưng chỉ với cái kết quả “rơi rụng” còn lại 30 ứng viên trong tổng số 223 vị tự ứng cử là có thể thấy được bản chất vấn đề.

Thế mà một thực tế rất rõ là trong những kỳ bầu cử Quốc hội sau này sẽ càng phải giảm đáng kể số ứng viên do đảng, nhà nước chọn, những vị đang tại vị trong cơ quan hành pháp, tư pháp. Đương nhiên cùng lúc là phải tăng đáng kể những ứng viên không phải nằm trong diện này, nhất là ngày càng cần nhiều hơn số đại biểu chuyên trách, ngoài đảng và ít bị ràng buộc bởi những cơ cấu thành phần cứng nhắc như “độ tuổi”, “dân tộc”, “nữ” … Nhưng nếu vẫn lặp lại hiện trạng vừa qua, vẫn chỉ có hai loại ứng viên trên, thì chắc chắn không thể có được một Quốc hội mạnh, chưa kể sẽ nảy sinh những lúng túng, rồi dẫn tới những quyết định không hợp tình hợp lý, thậm chí thô bạo trong khâu “sàng lọc” ứng viên.

Để lấp cái “khoảng trống” trong phương pháp chọn lựa này, một điều hiển nhiên mà ở các nước văn minh đã thực hiện từ rất lâu, đó là việc “tự đề cử”. Những ứng viên này không thuộc diện được đảng, nhà nước chọn (đề cử), cũng không phải là cá nhân tự ứng cử, mà là được các hội đoàn quần chúng (ngoài số 6 tổ chức quần chúng của đảng và một vài hội, liên hiệp hội được “cơ cấu” cho phép đề cử ứng viên như lâu nay) cử ra. Họ là những người được tín nhiệm từ số 320 hội hoạt động trong toàn quốc, hơn 2150 hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, thành thuộc trung ương và hàng chục nghìn hội ở các quận, huyện … Những tập thể quần chúng khổng lồ như vậy mà dường như lâu nay bị quên lãng. Một sự quên lãng quá ư đáng tiếc và phi lý ! Họ phải được, phải có sự khích lệ, giúp đỡ để tự đề cử những người đại diện của mình. “Tự” ở đây là tự các hội đoàn đó đề cử ứng viên, chứ không phải là đảng, nhà nước, hội đồng bầu cử “cơ cấu”, “phân bổ” chỉ tiêu vài ứng viên cho riêng vài hội, cũng không phải các ứng viên đó “đơn thương độc mã” tự mình ra ứng cử. Như vậy sẽ rất thuận lợi cho việc đánh giá và trợ giúp cho họ. Nhất là gần đây có những ý kiến rằng: nên buộc các ứng viên phải lấy được bao nhiêu chữ ký ủng hộ của cử tri thì mới đủ tiêu chuẩn, thậm chí cả một số tiền “đặt cọc” nữa, sẽ không còn là chuyện nan giải. Bởi vì cái sự “lấy chữ ký” mà không được đặt cơ sở của một vài hội đoàn, tập thể nào đó giới thiệu thì rất dễ trở nên chuyện cười cho thiên hạ (bằng việc lấy chữ ký bà con họ hàng, người qua đường chẳng hạn). Kể cả việc đảng cần có sự lãnh đạo thì cũng có thể gián tiếp thông qua các hội đoàn này, mà vẫn đảm bảo tính khách quan nhất định. Giờ đây các ứng viên có được sự hậu thuẫn của đoàn thể, từ vận động tranh cử, quyên góp tiền bạc, cho đến cả việc bảo vệ uy tín, sự an toàn nếu như có khiếu kiện, đe dọa nào đó. Nhưng đáng tiếc là hàng chục năm nay, chúng ta đã quên mất rằng những hội đoàn này chính là cơ sở tốt nhất để tạo điều kiện thử thách, rồi chọn lựa cho các ứng viên, không chỉ cho Quốc hội, mà còn cho tất thảy Hội đồng nhân dân các cấp. Có điều cái sự “quên” này đã đi vào thói quen quá lâu, giờ phải được nêu ra, cho phép và tập dượt. Đây chính là phương pháp có tính chất “trung dung”, mà lại sẽ là chính yếu sau này, để lấp đi cái khoảng trống của hai phương pháp kia, một sẽ phải “teo” dần, một mới sinh ra nhưng đầy mong manh, thiếu hợp lý.

Tất nhiên trong thời gian tới, bằng Luật về Hội và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội mới, có thể sẽ có những chuyển biến mới rõ ràng hơn cho việc chọn lựa đại biểu Quốc hội, nhưng việc dự thảo luật cũng rất cần lưu ý nhấn mạnh tới hình thức tự đề cử này, và khi luật đã đi vào cuộc sống cũng vẫn phải có ý thức rất mạnh mẽ thì mới thay đổi được những thói quen cũ.

(Tạp chí Nhà Quản lý – số 47)

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị, Đảng/Nhà nước | 1 Comment »

Lệ đá

Posted by adminbasam trên 30/10/2007

Lệ đá

– Uở, sao đi thị sát du lịch dzìa mà coi bộ buồn so dzậy sếp Phó Bí của em ?

– Lo thì đúng hơn Út Măng ạ … Thắng cảnh khắp nơi xuống cấp, “bê tông hóa” … Còn có cái núi đá Hòn Vợ Chồng giữa cánh đồng mênh mông là rõ đẹp, mọi người chen chúc xem, nhưng lại …

– Sếp lại hay lo nghĩ ảnh hưởng sức khỏe …

– … Tớ cứ nghĩ miên man suốt mấy ngày nay. Chuyện không phải là bình thường đâu. Chả là năm ngoái, chẳng hiểu do động đất thế nào mà cái Hòn Chồng nó lăn ra … “chết”, tức là đổ đánh ầm cái vỡ tan tành. Thế là tất cả các ban ngành vội vàng họp lại, bàn bạc không thiếu ý gì, mời cả nhiều đẽo đá gia tài danh, lại cả “Thần Đèn” nữa, xin trên chỉ đạo suốt mấy tháng trời. Cuối cùng ra cái “nghị quyết” là phải phục chế Hòn Chồng. Vừa “ngân sách”, vừa huy động toàn “Mạnh Thường Quân” khét tiếng, sử dụng công nghệ tiên tiến nhất, máy móc tinh vi nhập gấp từ tận Mỹ … tốn kém tới dăm tỷ. Nên mặc dù phải thêm thắt nhiều đá lấy các nơi về mà xong rồi là y hệt khi còn … “sống”.

– Chu cha, giỏi quá ta !

– Chưa xong đâu … Chỉ lạ là từ ngày Hòn Chồng nó “sống” lại thì tự dưng cái Hòn Vợ lại dở chứng …

– Nó lại muốn “chết” ?

– Không, nó … “khóc” mới quái chứ (lúc Chồng “chết” chả thèm “khóc”, giờ “sống” lại thì … Rõ cái giống đàn bà đỏng đảnh !) Tức là chả cứ giời mưa hay nằng đổ lửa, ở cái quãng “mắt” ấy, nước phun ra cứ gọi là chứa chan, nom rõ là … Được cái là từ đận í thì du khách tăng vọt, dê-đê-pê địa phương cũng vọt hẳn.

– Quá hay, phải dzui chớ sao sếp lại lo lắng dzậy ? Hay Sếp cũng bị “mê tín dị đoan” rồi ?

– Cậu đúng là cái loại “vô chính trị”, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện … tiền ! Nghe này. Người xem đông, lại nhiều người khóc lóc theo, là ảnh hưởng tình hình chính trị địa phương lắm … cậu hiểu chửa ? Kinh nhất là bọn nhà báo Tây cứ quay phim chụp ảnh lung tung. “Quan trên trông xuống, người ta trông vào”, ai biết là bà con khóc cái hòn đá. Họ lại tưởng là …

– Úi, da … da … sếp Phó Bí của em sâu sắc quá ta. Đúng là một “chánh trị gia” có cỡ. Nhưng mà “chính trị” quá hóa vô … í … là hóa không để ý tới “văn hóa” đó nghen. Còn em á, thì em hiểu cái lý do “bà vợ” đó khóc rồi, cả chuyện nhiều người khóc cũng dzậy. Nên giờ em thử đề xuất một sáng kiến, sếp coi được hông.

– Nói nhanh đi.

– Dạ … giờ ta xin thêm “ngân sách”, trên cái “Hòn Chồng phục chế” mình khắc cái biển thiệt nhỏ, đề là “Tượng Ngài Hòn Chồng”. Còn kế bên cái “tượng” đó thì mình xây cái nấm mồ, gom “xác ổng” còn dư mảnh nào thì đưa dzô đó. Trên cái mồ mình ghi là “Nơi đây yên nghỉ Ngài Hòn Chồng”. Dzậy là êm hết. “Bà vợ” sẽ hết “khóc”, mà du khách cũng vẫn đông mà không bị khóc nữa. Rồi các “Mạnh Thường Quân”, các nhà thầu, chánh quyền đều … dzui cả.

– Nghe cũng hoành tráng đáo để nhẩy, mà có vẻ “hút khách” nữa … Nhưng mà sao nó cứ lằng nhằng quá, tớ chưa hiểu cái “thâm ý” của cậu …

– Sếp ráng động não chút đi … “chánh trị gia” của em thông minh lắm mà. Nếu cần triệu tập họp các ban ngành lần nữa. Nhưng lần này thì khỏi mới mấy “đẽo đá gia”, mà nên mời mấy cha nội “khoa học xã hội và nhân văn” là rõ hết à.

– Thôi, … nhưng mà cũng vui rồi … vui rồi …

“Hỏi đá xanh rêu bao nhiêu tuổi … rồi

… Ái ân bây giờ là … hết khóc … lá là là lá lá là la …”

Ba Sàm

(Tạp chí Thế giới Văn hóa – số 36)


Posted in Bài của Ba Sàm, Văn hóa | Leave a Comment »

31 năm – Vết thương chưa lành

Posted by adminbasam trên 26/10/2007

31 năm – Vết thương chưa lành

Nguyễn Hữu Vinh

Đó là vết thương của cuộc chiến 30 năm, trong lòng bao người. Hàng triệu người vẫn hoan ca, nhưng cũng hàng triệu người còn âm thầm tự chữa trị, dễ cũng tới nửa đời người, tâm lý thắng-bại, được-mất … còn đeo đẳng. Với thời gian thì những ai sống trong nước, cái cảm giác dài lê thê không thể ví với người xa xứ. Nhịp sống-làm việc gấp gáp giúp vơi đi phần nào, nhưng không biết có phải do xa cách và cảnh sống phù hoa làm cho họ khó giành được sự cảm thông. Vì, nói cho cùng thì những biến đổi giúp yên lòng hơn phỏng đã được bao nhiêu ? Tác động của “đổi mới” cùng chuyện về thăm, gửi tiền, quà cho người thân dễ dàng cũng mới được mười mấy năm nay. “Học tập cải tạo”, làn sóng vượt biên, chuyện lo chạy xuất cảnh đoàn tụ, diện HO, con lai không còn ồn ã nữa … Vậy mà còn bao nhiêu chuyện không nhỏ, sao thật khó vượt qua. “Visa về nước” cho bà con – những người luôn được coi như “một bộ phận của Dân tộc” nghe sao mà lạ, tưởng đã bỏ, lại cũng vẫn còn. Việt Nam đã đi sau Trung Quốc, Ấn Độ, Philippins … về điều này, trong khi đáng ra phải trước họ bởi những vết thương chiến tranh, của các sự kiện 1954, 75′, 79′ … rất cần “thuốc” mạnh để giúp hàn gắn. Để là “một bộ phận của Dân tộc” không có nghĩa cứ phải khư khư một quốc tịch Việt Nam, trong khi cả thế giới đang chuyển dần sang xu hướng toàn cầu hóa. Luật Quốc tịch không công nhận công dân có hai quốc tịch, nhưng nghiễm nhiên ngày ngày có bao người vào quốc tịch Mỹ, Canada .. mà vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Đã qua rồi cái thời “Hội Việt kiều yêu nước” với đông đảo hội viên, hoạt động hăng say chống chiến tranh, giúp đỡ trong nước, tương thân tương ái. Giờ thì có được bao lăm trong trăm, ngàn hội đoàn, nhà thờ, chùa chiền người Việt ở ngoài “nối vòng tay lớn” với trong nước ? Quả là quá hiếm ! Rồi báo chí, văn hóa phẩm qua lại giữa trong-ngoài, cũng mới chỉ như “hương hoa” thôi.

Những hiện tượng như thầy Thích Nhất Hạnh, cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, ca sĩ Elvis Phương, nhạc sĩ Phạm Duy, … về thăm, hồi hương, kể cả gần đây – sự lên tiếng của cựu trung sĩ thông dịch Trung Hiếu (qua chuyện Nhật ký bác sĩ Đặng Thùy Trâm), mà nếu có ai được sống trong lòng cộng đồng người Việt ở Mỹ, Úc thì mới cảm được hết cái ý nghĩa ghê gớm của nó. Họ đã phải đấu tranh, hy sinh, vượt qua ác cảm, mặc cảm, lo sợ … để hướng tới những ước vọng cao cả là quê hương, là tình đồng loại. Thế mà đã có người bằng giọng bề trên độ lượng, vội bảo rằng “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”. Tưởng hay, nhưng ngẫm lại thật buồn. Sao gọi là “chạy lại” mà không nói được rằng đó như là “lá rụng về cội” ? Sao có thể làm cái vẻ hạ cố rằng “không đánh” mà không nói được là đất nước giang tay đón những người con xa xứ trở về ? “Không đánh” mà nhiều khi như đuổi, thậm chí “đẩy” bà con sang bên kia chiến tuyến. Nếu cứ mải mê với những chuyện “địch-ta”, “bỏ nước” … thì đến bao giờ non sông mới thực sự liền một giải ? Hàng tỉ đô la, ngàn vạn lượt người về thăm đâu dễ là minh chứng rằng những vết thương đã khép miệng. Phải chăng vì quá nghèo, ngàn năm chân lấm tay bùn nơi đồng ruộng, rồi dốc xương máu kiệt quệ cho ngày chiến thắng làm ta khó có được thái độ khoan hòa hơn, dễ quen cân đong đo đếm mọi sự chỉ bằng con số, mà quên rằng có những điều không thể nào đo đếm nổi ? Ví như vào những “Ngày kỷ niệm chiến thắng” này, không khí nô nức bằng băng cờ, khẩu hiệu … làm sao không khỏi chạnh lòng bao người từng một thời vì cái lẽ nào đó mà ít nhiều liên hệ với chế độ cũ. Có ai nghĩ rằng cũng nên tìm một lối thể hiện khác cho cái khung cảnh hân hoan đó không ?

Mới đây thôi, người ta đã công phu tập hợp sử liệu để chuẩn bị cho ra đời cuốn “Lịch sử thể dục thể thao cách mạng Việt Nam”. Ô hay ! Sao chuyện lớn vậy mà vẫn còn có người “vô tâm” lạ, dễ thường họ sẽ còn làm tiếp một cuốn “Lịch sử TDTT không cách mạng VN” nữa hay sao (nghĩa là đơn giản chỉ vì chưa có khả năng để thu thập sử liệu ở miền Nam giai đoạn chiến tranh, hay vì điều gì khác để mà từ cái lối “chính trị hóa” mọi thứ trở thành không có “chính trị” đến vậy) ? Lại nữa, giữa thái độ nhiệt thành của bao người hâm mộ, hiện tượng Phạm Duy đã bị dội một gáo “nước sôi” bằng một bài báo đầy những lờl lẽ nặng nề, xa lạ với tất cả những gì gọi là nghệ thuật. Và còn nhiều nhiều những câu chuyện kiểu như vậy, từ cách nói quen miệng nào là “phản cách mạng”, “ngụy” … cho đến cái “chủ nghĩa lý lịch” còn đeo dai dẳng cùng thói ưa thích tụng ca chế độ quá lời khiến mất đi bao nhiêu người tài để rồi thu nạp vào nhiều kẻ cơ hội.

“Người xây, kẻ phá”, vết thương khó lành, ít thuốc chữa, chỉ mới nhiều thuốc giảm đau thôi, vậy mà còn đi xát muối nữa sao ? Trở lại cách đây 60 năm khi Chính phủ đầu tiên của Nhà nước VNDCCH non trẻ ra đời, từ vị Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tới nhiều bộ trưởng đều là “dân Tây học”, “Tây du”. Giờ đã có một chính quyền vững mạnh, ta lại không thấy yên tâm, để mà quá hiếm những trí thức được đào tạo kỹ lưỡng ở nước ngoài (kể cả dưới chế độ cũ) giữ trọng trách trong chính quyền.

Quả là gian nan trên con đường tìm lại với nhau của Dân tộc. Chợt nhớ về ngót nửa thiên niên kỷ trước, khi Chúa Nguyễn Hoàng làm cuộc Nam tiến, mang theo lời chỉ giáo của Trạng Trình “Hoành sơn nhất đái/Vạn đại dung thân“. Rồi ngâm nga mấy vần thơ Huỳnh Văn Nghệ “Từ độ mang gươm đi mở cõi/Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long“. Thấy cảm khái cho cái nghĩa tình hòa quện Nam-Bắc, Trong-Ngoài.

Đảng, Nhà nước kêu gọi đại đoàn kết Dân tộc, nhưng để được “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” thì khó có thể chỉ chủ yếu bằng lời, mà phải mạnh mẽ hơn, ví thử bằng Luật (hay Pháp lệnh) về Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc.


(Tạp chí Nhà Quản lý – số 35/2006:  Liệu nên có Luật Về hòa giải và hòa hợp Dân tộc?)

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị, Chiến tranh VN, Gia đình/Xã hội | 5 Comments »

74:Hội nhập xóm giềng

Posted by adminbasam trên 23/10/2007


Hội nhập xóm giềng


Mờ sáng

Rầm! Chát! … Xoảng! …

– Á, mày giết tao à thằng chó …

– Con đĩ, mày dám láo à …

– Ối! Tôi không sống nổi với các người …

– Con mở cửa cho mẹ …

– Đóng cửa lại ngay không tao chém!

Hàng xóm 1(gõ cửa): này có chuyện gì thế?

– Ông bố (thò đầu máu me): có gì đâu, đùa vui tí í mà …

Choang! … Uỳnh! … Rắc! …

– Ái … gẫy tay bà rồi …

– Này, gẫy cũng khẽ mồm … “xấu chàng hổ ai” … mày không biết giữ “đoàn kết”, “đóng cửa bảo nhau” là tao cho “đi tàu suốt” luôn đấy!

Hàng xóm 2(hỏi vọng sang): có chuyện gì cần giúp không chị?

Bà mẹ (giọng tức tưởi): dạ không, … xụt … xịt … chúng em đang tập “diễn xuất” … đóng phim bạo lực đấy ạ …

Thằng con (bật cửa lao ra đường): … ối làng nước ôi … là làng nước ôi …

Ông bố (lao theo): này thằng khốn kia đứng lại … mày dám … “đào nhiệm” à? Không thoát tay tao đâu … về “giải quyết nội bộ” ngay …

Hàng xóm 3 (chặn đường): … đóng phim cả ngoài đường nữa hả bác? …

Ông bố (trợn mắt): này, ông đừng có mà “can thiệp vào công việc nội bộ” của nhà tôi nhá …

Tối mịt

Cả nhà lếch thếch kéo ra đường, quần áo tả tơi, mặt mũi teo toét máu … tay xách nách mang chăn màn nhàu nát …

Ông bố (chụm tay làm loa): loa … loa … xin được bố cáo toàn khu vực ạ … là nhà chúng em xin được hội nhập với xóm giềng ạ …

Hàng xóm: tức là chúng tôi cũng được đóng phim cùng à?

Ông bố (mếu): không có phim phóng gì đâu ạ … giờ là em nói thật đấy … Chúng em xin các bác ngủ nhờ một tối, được “cứu thương”, “cứu trợ phát triển” … đồ đạc vật dụng, sửa chữa nhà cửa … ạ … hu … hu … sao chúng tôi lại khổ thế này …

Hàng xóm: thế xong rồi thì sao?

Ông bố (tỉnh táo): À, xong rồi thì chúng tôi xin lại được … có gì “đóng cửa bảo nhau”, “giải quyết nội bộ” ạ!


Ba Sàm

(Tạp chí Thế giới Văn hóa – số 38-2006)

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền | 2 Comments »

Đúc người vì lợi ích dăm năm

Posted by adminbasam trên 22/10/2007

Đúc người vì lợi ích dăm năm

(Thư ngỏ – Kính gửi các bác lãnh đạo ngành giáo dục từ xưa cho tới mai sau)

Nguyễn Hữu Vinh

Cháu không còn trẻ nữa, cũng không phải đi học nữa, nhưng thấy mình vẫn còn non nớt lắm, nên xin được xưng hô vậy. Già người mà vẫn thấy còn non cái dạ, lại hèn kém, đó chính là một trong những lý do quan trọng thôi thúc cháu viết lá thư này. Ngành giáo dục mà các bác lãnh đạo cháu xin được gọi là “cỗ máy đúc người”, và bức thư này cháu xin được gửi tới hết thảy các bác lãnh đạo của ngành trong nhiều thế hệ mà cháu cũng xin được mạn phép gọi là các “quản đốc phân xưởng đúc”. Tại sao vậy? Cháu sẽ xin được làm rõ.

  • Trước hết là ý muốn chia sẻ nỗi lo của các bác đang vật vã với chuyện đúc người bao nhiêu năm nay, cứ cải (cách) đi rồi cải lại mà càng bế tắc thêm.
  • Cái cỗ máy đúc người này nó làm cháu nhớ tới cuốn phim Đồi thịt băm, tức là nó băm vằm, nuốt chửng danh tiếng và mọi nỗ lực của nhiều thế hệ lãnh đạo các bác (nếu như ai đó thực tâm có). Các bác không thấy được, hoặc làm như không thấy, là nó chỉ như một cỗ máy trong một nhà máy khổng lồ, đã vận hành từ rất lâu với một sức mạnh và quán tính khủng khiếp. Hơn nữa, nó lại đóng vai trò vô cùng quan trọng là đúc ra mọi chi tiết cho những cỗ máy cái ở các phân xưởng khác. Thế mà cứ cố vặn vẹo nó nay tí mai tí mà không chịu cải đổi hẳn đi, không quan tâm tới các cỗ máy khác đang lôi kéo nhằng nhợ với nó thì đương nhiên sẽ bị nó nuốt chửng.
  • Cái cỗ máy này thực ra đã một thời có công tích ghê gớm, có điều hình như chưa thấy ai phân tích cái kiểu công tích này và việc nó tác động lại theo lối phản tác dụng ghê gớm ra sao tới xã hội chúng ta, và đến chính nó, cái cỗ máy làm ra công tích đó.

1. Công

Phải nói là giờ nhớn rồi, lại được mở mang hiểu biết ra bên ngoài nước mình, cháu mới càng thấy một điều là cái kiểu đúc người (giáo dục) ở ta trong những năm chiến tranh quả là tuyệt diệu. Đó là “triệu người như một”, đều tăm tắp, tuân lệnh răm rắp, không giống bên Tây nó “đúc” thì ra mỗi người mỗi kiểu. Duyên do thì nhiều lắm, cháu xin kể lể vài điều ra đây. Số là dân mình tuyệt đại đa số vốn đã nghèo khổ, ngoài việc chả biết gì ngoài lũy tre làng, lại phải chịu ảnh hưởng đủ thứ tư tưởng, văn hóa Nho Khổng, Phật, Lão nhưng bị thăng trầm méo mó đi qua bao đời, nên con người ta sống rất chi là khiêm nhường, yếm thế với “bề trên”, không kênh kiệu như bên Tây. Đến khi cách mạng nổi lên, giành độc lập, họ được bảo là mình giờ thành ông bà chủ xã hội hết rồi, nhưng khốn nỗi lại cứ bị các bố đầy tớ (tức là cán bộ – “đầy tớ của nhân dân”) mắng mỏ dạy bảo đủ kiểu, từ trẻ nứt mắt cho tới già kề miệng lỗ. Thành thử bà con chả biết đâu mà lần, càng phải khiêm tốn tợn, phát triển thêm luôn cái đức tính giả vờ nữa, tức là nói, nghĩ một đằng làm một nẻo. Điều này vô cùng là móc xích với cái công nghệ đúc người ở ta. Cụ thể là bọn trẻ con chúng cháu là nhân dân, thì nhẽ ra thầy cô, đến cả các bác bộ trưởng nữa, phải là đầy tớ của chúng cháu, đúng với cái khẩu hiệu của chế độ, là phải hết lòng phục vụ. Thế nhưng sự tình nó cứ ngược lại hết làm cho chúng cháu quen dần cái lối sống giả vờ mà ngày nay các bác đang khốn khổ để “tuyên chiến”, ấy là “gian dối trong thi cử”, “bệnh thành tích trong giáo dục”. Khởi đầu là cái “cá nhân” trong mỗi con người luôn được đè nén xuống dí dị; làm gì, nghĩ gì cứ là vừa phải theo “tập thể”, “đoàn thể”, vừa phải tin tưởng tuyệt đối ở “trên” (tức là ở các ông bà đầy tớ). Từ ngày còn bé tẹo, chúng cháu đã biết nhận thức là mình rất ngu, rất hư, rất chi là “cá nhân chủ nghĩa,” nên mọi hoạt động phải đi vào khuôn phép. Nào là hát đồng ca, vỗ tay đồng loạt, tập đánh vần cũng phải đồng thanh theo nhịp thước cô gõ chan chát (có nhẽ để sau này nhớn lên mà phát triển cái “đồng tình”, “đồng chí”, “đồng lòng”…?) Học được mấy bài hát mà thấy bài nào cũng có từ “ngoan”, “cố gắng”, “không khóc nhè” nên nó ngấm vào máu cái tính “ngoan” hết mực, đói mấy cũng phải tươi cười tin tưởng phơi phới. Kế đến là cái khoản “xin-cho” thôi thì đủ kiểu. Đến cả buồn tè, mót ị mấy cũng phải giơ tay xin phép, cô cho thì mới được đi, không thì cố mà nín, đùn ra đấy là rất hư, hết cả “phiếu bé ngoan”. (Ngày qua ngày, càng già cháu càng rõ là cái cảnh xin xỏ này nó cứ diễn ra suốt đến lúc chết. Nào là xin vào trường học, xin đăng ký hộ khẩu, xin khai sinh, khai tử, xin khai thành tích để được khen… Còn cái chuyện “nín” thì càng lớn lên càng giỏi, cháu xin nói ở phần sau). Cô kể chuyện xong mà không vỗ tay là hỗn, cũng hư là cái chắc. Thành thói quen như từ cha sinh mẹ đẻ để sau này cấp trên có nói (bậy) ra cái gì cũng cứ vỗ tay rào rào, làm láo mà cũng phải khen nức nở.

Nhớn lên tí, học cái kiến thức thì cũng rất đặc biệt, chúng cháu được vun đắp thật là nhiều, những thứ rất cao siêu nhưng thuộc “phe ta” thôi; những gì về thế giới bên ngoài, của kẻ địch, hay phe khác thì được coi là nọc độc nên rất hạn chế. Còn chuyện hai bên đánh nhau thì cũng toàn ta dũng cảm, khôn ngoan, thắng ào ào, địch thì hèn nhát, ngu si nên thua chạy như vịt cả. Viết bài luận về thơ, văn của các vị nổi tiếng, nhất là có chức sắc nữa, là cứ phải khen ngất giời chứ cấm có được chê, kể cả hơi “băn khoăn” tí cũng ăn điểm không là còn nhẹ. Làm văn về đất nước là phải “rừng vàng biển bạc”, phải có “gương người tốt việc tốt”, “chế độ ta tươi đẹp”. Tóm tắt là cái gì của ta, từ “trên” là “cực kỳ” (đúng, tốt), còn của địch là khốn nạn hết. Trong quá trình vun đắp là phải căng tai trợn mắt ra mà lĩnh hội, chứ đứa nào nhỡ có hơi “thiên nhiên” tí, nảy nòi ra cái tính thắc mắc, cãi bướng, ưa tranh luận là mệt ngay. Cái kiểu dạy “thầy đọc trò chép” mà giờ các bác đang khốn khổ loại trừ phát sinh chính từ đây, nó giúp cho chúng cháu là những kẻ được “lập trình” vào đầu ngay từ tấm bé cho những nhận thức là ý kiến của “trên” thì chỉ có đúng, phải tuân theo răm rắp, kẻ nào không đồng ý với “trên” là coi như kẻ thù. Còn đã là kẻ thù thì ắt xấu xa, phải tiêu diệt nếu như không chịu cải tạo. Để được rèn giũa thì ngoài thầy cô còn có tầng tầng lớp lớp các đoàn thể ngay từ nhi đồng, thiếu niên… kèm cặp cho chúng cháu ngày càng ngoan (nghĩa là kiểu “gọi dạ bảo vâng”, “đặt đâu ngồi đấy”), có thêm “tinh thần tập thể”, giảm bớt cái “cá nhân” đi (mà giờ cháu mới hiểu là bên Tây nó hay gọi là có “cá tính”). Chưa hết, lại còn một lực lượng kiểu cảnh sát dân sự biệt danh là “Cờ đỏ”, tai mắt của thầy cô, xem có đứa nào vẫn còn hư không, làm cho đứa nào cũng cảm giác khó hiểu về bạn bè mình, còn mình thì lại tập cái tính sống ít hồn nhiên đi, thích phát hiện những đứa bạn hư để hớt lẻo với cô, để được công tích cho đỡ bị bảo là hư, là ngu. Mà chuyện công tích thì quan trọng khủng khiếp, trong hơn cả một đời người, từ khi đẻ ra cho qua cả lúc chết rồi. Vì có nhiều danh hiệu vô cùng để phấn đấu mà đạt cho được. Đứa nào không được danh hiệu thì sợ hãi khủng khiếp, cảm giác như bị bọn có danh hiệu nhìn ngắm mình như quái vật; vì số này rất ít, nên dưới đẳng cấp này thì chỉ còn có bọn tội phạm đi tù, cải tạo thôi. Để có danh hiệu là phải qua những công đoạn chấm điểm rèn luyện kỷ luật, từ đầu tóc, quần áo, nói năng, giờ giấc, rồi bọc, dán nhãn, giữ gìn sách vở sạch đẹp… (nhiều không kể hết được, cho cả cá nhân và tập thể). Thế rồi tính toán, “cân đối”, bình bầu, kèm theo là nhiều cuộc họp hành nữa. Cả trường xếp hàng nghe đọc điểm thi đua mỗi tuần, điểm cao là được khen, thấp là bị bêu riếu. Không khí ganh đua kèn cựa nhau từng li một muốn nghẹt thở, cứ gọi là mụ mị cả người, cảm giác tội lỗi, hèn kém luôn thường trực trong mình. Lại còn luôn luôn được hô những khẩu hiệu đạo đức mà những chữ “khiêm tốn”, “đoàn kết”, “kỷ luật” cứ gọi là ưu tiên hàng đầu. Trong mọi ngôn từ hàng ngày cho tới bài vở viết ra chúng cháu đều được dạy những từ ngữ rất chi là hoành tráng, gọi là ngôn ngữ ngợi ca. Nên cái không khí chung là cực kỳ… (xin lỗi, cháu không tìm ra được từ nào để diễn tả nữa). Và các bác sẽ chả lạ gì cái lối làm “bài văn mẫu” ngày nay đầy dẫy là có ngọn nguồn từ đây. Đến như cái “khẩu hiệu” nhiều năm nay trường nào cũng có, nghe rất chi là “đậm đà bản sắc dân tộc”, là “tiên học lễ, hậu học văn”, mà nào có mấy ai từ thầy đến trò được hiểu cho đúng cái chữ “lễ” của cụ Khổng Tử nó mênh mông đến nhường nào đâu. Cứ nghĩ theo lối tộc tệch là bọn trò chúng cháu phải trước hết “thấm nhuần” cái thái độ “lễ bái”, “lễ độ”, “lễ phép”, nhũn như con chi chi, có khi lại phải dâng “lễ lạt”, “lễ vật” nữa (tức là có… “phong bì”, “con gà nải chuối” cho thầy cô).

Ngoài nhà trường ra thì khắp nơi hang cùng ngõ hẻm, trong xóm ngoài làng, xưởng máy, ruộng đồng, cơ quan, đoàn thể, đêm ngày bằng mọi phương tiện từ báo, đài, thơ, truyện, ca, múa, nhạc, kịch, thể thao… cả “chuyên” và “không chuyên”, chúng cháu luôn luôn được tiếp tục “hun, đúc” không ngừng tất tật những gì thuộc về lòng trung thành, tin tưởng tuyệt đối, tự hào vô cùng về hiện tại, tương lai đất nước, chế độ, “bề trên”, căm thù tận xương tủy kẻ thù xấu xa. Tức là cái gì cũng có ranh giới tuyệt đối: tốt và xấu, ta và địch. Nên cái chữ “trồng người” nó phải được gọi là “đúc người” mới phải. Nghĩa là không có chăm bón, vun xới, nâng niu theo lối mơn trớn, “dân chủ giả hiệu” gì sất, mà là nung chảy, đổ khuôn, rèn, đột, dập, mài, dũa, cắt gọt, đánh bóng cho đến nhẵn thín, tròn xoe ra mới… vẫn chưa thôi.

Thế là những lớp người được trở nên vô cùng hoàn hảo, chả có chống đối, nghi ngờ, thắc mắc, tơ tưởng “đứng núi nọ trông núi kia”. Bảo đi là đi, bảo đánh là đánh, không một tí tiếc rẻ tài sản, máu xương. Sống cực kham khổ nhưng vẫn tươi hơn hớn, có biết bên ngoài người ta sống ra sao, nghĩ cả thế giới này cũng vậy, phần thì tin tưởng, phó thác ở “trên” dẫn lối chỉ đường hết. Cả triệu người như một hàng quân, tay nào khác đi một tẹo, dù là ý nghĩ, ánh mắt là trơ thổ địa ra, dễ bị nghi là phản động ngay, ít ra cũng là “thiếu kiên định”, phải tự đấm ngực kiểm thảo. Những diện có thể có những biểu hiện khác thường nhất, như là các nhà thơ, văn, nhạc…, dễ bất ngờ “thai nghén” những sản phẩm tinh thần trái cựa có nguy cơ ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu, lòng trung thành tuyệt đối, thì cũng được luyện làm sao các sản phẩm đó không những vẫn ở trong vòng kiểm soát (được gọi là theo “định hướng”) mà còn phải trở thành những khẩu hiệu hành động nóng dẫy. Những nhu cầu bản năng của con người từ ăn uống cho tới làm tình đều bị phỉ nhổ là thấp hèn, phải cố mà nín nhịn, kể cả nín không được mà tuôn ra thành văn, xổ ra thành tranh là cũng “ăn đòn” ngay; ngộ nhỡ có hơi tham tí mà “ăn vụng” lại không biết “chùi mép” là thôi rồi, tương lai mờ mịt luôn (dạo ấy có cái từ nghe còn kinh hơn án tử, gọi là “hủ hóa.” May quá giờ hiếm ai nhắc đến nữa). Vì rõ là mọi thứ nó đều có “suất” cả (giờ gọi là “bao cấp”). Sợ chết, thèm ăn, thèm “sinh hoạt” cũng phải bảo là không sợ, không thèm. Tức là cái trình độ nghĩ một đằng, nhưng nói, làm một nẻo điêu luyện lắm, như được “lập trình” sẵn cả rồi. Tóm tắt lại thì cháu tự cảm thấy mình như thể một thứ người-máy-sinh-học, được đúc ra từ cái phân xưởng đúc mà các bác gọi là “ngành giáo dục,” lại còn được nhiều phân xưởng khác gọt dũa, “mông má” thêm, nên giờ nhớn như lão già rồi mà nhìn ra thế giới thấy mình vẫn còn non nớt lắm. Cứ thế, cái thế hệ người-máy này lại quay lại rèn đúc, đẽo gọt thế hệ người-máy khác (nói bỏ quá, chứ cháu biết các bác cũng nằm trong số này, có khác chăng là thuộc loại “chất lượng cao” thôi – tức khả năng bắt chước, giả vờ, tuân lệnh răm rắp là hơn hẳn đồng loại). Cũng thi thoảng có vài người-máy do bẩm sinh hoặc quy trình đúc bị lỗi mà sinh cái tật hay có ý kiến riêng là được căn chỉnh ngay. Đó là loại bướng bỉnh, thiếu ý thức tập thể, tinh thần đoàn kết, bản lĩnh chính trị kém. Mà căn chỉnh tức là “kiểm điểm”, “kỷ luật”, “mất thi đua”… cuối cùng là ảnh hưởng đến lương, thưởng, tem phiếu. Vậy là đâu lại vào đấy. Thật là tuyệt!

Báo hại cho phe địch cứ cậy giàu có văn minh mà không biết là đánh nhau với những lực lượng này thì chỉ có thiệt trở lên. Vì bên họ thì không có cái lối đúc người như thế này, mỗi sản phẩm mỗi kiểu, nên nó có cuộc sống rất là “cá nhân chủ nghĩa”. Nào là thắc mắc, đấu tranh, buồn nhớ nhà thì rên rỉ, hát nhạc vàng, rượu chè cờ bạc, ăn diện phè phỡn, gái mú. Ngoài đời họ cũng chả có đông đảo các ban ngành đoàn thể, phát động tuyên truyền, văn hóa tinh thần để rèn đúc theo kiểu “đồng tâm nhất trí” như ta; đã vậy lại còn để cho nhiều đoàn thể, báo đài nói cái giọng phản tuyên truyền lung lạc ý chí chiến đấu của quân dân nữa chứ. Nhất là cái lối thấy đánh nhau bị thua, chết nhiều quá là xót, đòi xem với xét. Thế thì khác gì bàn lùi, là nhận mình kém cỏi, không có chính nghĩa. Như thể hai phe dàn trận ra, một bên thì “triệu người như một” đều bắn, cùng a-la-sô đánh chí chết, chấp nhận hy sinh vô hạn, còn bên kia thì lại phải cãi nhau tiến hay lùi, không “tin tưởng ở trên”, lo thiệt hại nhiều nhân mạng. Thua sặc tiết là cái chắc! Thế mà giờ vẫn còn cãi nhau như mổ bò là vì sao bị thua. Giá chịu khó ngó đến lịch sử xa xưa thì sẽ thấy xã hội này được tổ chức cũng hao hao như cái thị quốc quân sự hùng mạnh Sparte ở Hy lạp thế kỷ thứ V trước Công nguyên, để mà biết mà dàn hòa chịu thiệt ngay từ đầu thì có phải yên chuyện không.

Đó là tóm tắt vài biểu hiện trong cái công tích của cỗ máy đúc người, chứ đi sâu chỉ ra hết, phân tích rõ thì đa dạng, thâm thúy vô cùng tận, phải những trí thức học giả mới làm nổi.

2. Tội

Thế rồi hòa bình lập lại, nhiều năm sau nữa mà cái cỗ máy đúc này nó chạy lại còn khỏe hơn hẳn xưa. Hình như cũng có nhiều vị hay chữ kiến nghị phải thay nó đi, đơn giản là xưa “đúc” chiến binh là chính, giờ thì phải “trồng người” như bên Tây để cho ra nhiều trí thức, công nhân bậc cao, nông dân giỏi công nghệ. Xưa đánh nhau lo mất nước, có phe nọ phe kia, nên cần “muôn người như một”. Giờ đâu còn lo nữa, thế giới đơn cực, chế độ thì vững như bàn thạch rồi, lại còn chơi với tất tật, kể cả những loại ngày xưa là kẻ thù nữa. Với lại cái trò đúc ấy nó cũng có mặt trái kinh khủng, làm cho ta thiếu hẳn những người-thật. Trước nay mình toàn “đúc”, mà người ta thì “trồng”; như cái cây ấy, chăm bón, vun xới rồi tự nó nhớn lên mơn mởn mỗi cây mỗi vẻ, chứ cứ khuôn hình “đúc” ra cứng nhắc, khô không khốc thì có mà đánh nhau mãi à? Hậu quả đau đớn là cứ bị mắc hết sai lầm này đến sai lầm khác, mới ngộ ra là vì ta quá thiếu người-thật, chỉ rặt những người-máy thôi, nào có dám cãi lại khi thấy “trên” làm sai. Thêm nữa là do “trên” thì các bác quản đốc, giám đốc biết thân biết phận, tâm niệm cái câu “ba anh hàng da thành anh Gia Cát Lượng” nên lãnh đạo theo lối “tập thể”, chứ không chơi kiểu “cá nhân” như bọn tư bản. Yên tâm quá, có chuyện gì thì cũng chịu trách nhiệm “tập thể”, tức là “hòa cả làng.” Cùng lắm là các bác đổ tại cái thằng… “cơ chế”, sợ gì chuyện làm sai, nên càng hay sai. Các bác lại còn thích kiểu ăn quả chắc, nên tuyển toàn loại người-máy thôi, ngại tuyển người-thật vì chúng nó hay cãi, dám hỗn láo vạch mặt cả cấp trên. Nhưng người- máy thì trông nó cứ “muôn người như một” nên cũng cực kỳ khó chọn, lý lịch anh nào thấy cũng na ná như anh nào, toàn “chấp hành”, “trung thành”, “khiêm tốn” cả. Các bác đành tổ chức thi… “chạy”. Anh nào “chạy” khỏe là ăn. Nhưng hóa ra những tay “chạy” khỏe thì làm việc lại cực ngu. Thế là các bác lại càng dễ mắc thêm sai lầm nữa.

Nhưng có lẽ các bác vẫn tính là thể nào cũng còn đánh nhau? Hay là cần các trí thức có phong cách như chiến binh người-máy? Hay các bác thấy giờ vi tính, rô-bốt ở tây nó phát triển quá nên nghĩ mình cả nửa thế kỷ nay thế là đi đúng cái kiểu “đi tắt đón đầu” rồi (đúc được người-máy)? Nên cỗ máy đúc vẫn cứ được dùng tiếp. Thi thoảng có tiếng kêu ca thì các bác lại xê dịch nó đi tị tẹo, sơn phết vào, hô là “cải cách”! Thế là yên chuyện.

Nhưng cái lũ người-máy-sinh-học giờ nó cũng quái ra phết. Không thấy đánh nhau nữa, lại thấy nhờ có cái “cơ chế thị trường” nên các người-máy có “cương vị” sống hơi bị Tây quá chứ không kham khổ như xưa nữa. Còn nhìn ra ngoài thì mới thấy là mình “thua em kém chị” ghê gớm. Thế là chúng nó nhao nhao lên. Một số thì lăn vào mà kiếm tình, tiền các kiểu, trong khi vẫn giữ cái vỏ người-máy. Số khác thì cố công nhồi nhét kiến thức bị hổng bao lâu nay, chỉ có điều nó vẫn bị cái thói quen là nhút nhát, sợ sệt không sửa được mấy, nên nhiều khi có cái sáng kiến cũng đành câm miệng, sợ dạy khôn người trên là bị mắng “thiếu khiêm tốn”, “gây mất đoàn kết nội bộ”. Cũng có một số ngộ ra là mình phải được có tí quyền này nọ chứ không thể như lớp trước mãi. Vậy là nảy sinh những xung đột xưa nay chưa từng thấy. Như tại xưởng đúc, nhiều thợ đúc bắt đầu áp dụng các ngón nghề cai ngục như ép học thêm, tra tấn, hỏi cung, lăng nhục người-máy, nhưng họ thường chỉ nhắm vào những loại hiền lành, ù lì thôi (khôn thế, chứ tra tấn loại người-máy khùng khùng có khi lại bị nó tra tấn lại thì khốn. Vì cũng có vài vụ người-máy nổi điên “xử lý” thợ đúc rồi). Đến độ nhiều người-máy bị hỏng “phần mềm”, bác sĩ gọi là sì-chét, là tâm thần, nói năng hành động lung tung, có những trường hợp tự tử nữa mới kinh. Tình trạng này giờ nhiều quá, công luận lên tiếng đòi có giải pháp, làm cho các bác quản đốc rối tinh không xoay xở kịp.

Khổ nữa là trong cái công cuộc “ra biển lớn” này (tức là làm ăn, quan hệ với khắp thế giới), những người-máy được đúc ra theo công nghệ cũ ngày càng bộc lộ kém cỏi. Vì không quen tự học hỏi, thường thụ động nên đơn giản là ra biển gặp sóng to gió lớn, cá mập, cướp biển nó rình rập mà cứ “gọi dạ bảo vâng”, “đặt đâu ngồi đấy”, chả có sáng kiến tối kiến gì cho ra hồn; khó khăn tí thì lại đòi về xin ý kiến chỉ đạo của “trên”, “trên” lại thỉnh thị “trên” nữa, hoặc dở “cẩm nang” ra đọc, thì có mà làm mồi cho bạch tuộc tư bản, nó chả phải vươn vòi gì mà cũng kiếm ăn tại chỗ được.

Vậy mà nhiều năm nay, cỗ máy cổ quái này lại còn được gia cố để hoạt động mạnh hơn. Vì tình hình hai chục năm qua theo cái “cơ chế thị trường”, nhiều vị chức sắc cũng kiếm ra phết, cả danh lẫn lợi (nói trắng ra là chức tước, đô-la và bằng cấp, thành tích rởm), đến độ nổi tiếng ra cả thế giới chuyện ta bị giặc nội xâm tham nhũng nó đánh, chả kém tiếng tăm ngày xưa ta đánh giặc ngoại xâm; thế nhưng các em người-máy có biết được bác nào là “giặc” thì cũng im thin thít, an toàn quá chứ còn gì. Lại có nhiều người-máy có cương vị vào là muốn được đúc lại, nâng cấp, dán thêm tem nhãn cho oách, dễ được lên làm đốc công, quản đốc… Cả xã hội giờ cứ như một đại công trường đúc người-máy. Các kiểu đúc: Đúc giả, giả vờ đúc, đúc lại, giả vờ đúc lại, giả vờ đã được đúc, đúc “tại chức”, đúc “từ xa”, đúc “thường xuyên”, đúc kiểu nâng cấp, kiểu khẩn cấp, “đẳng cấp quốc tế” nữa (nghe nói đang có phương án), vân vân và vân vân, mà lại vẫn cứ rập khuôn theo cái công nghệ cũ ấy. Cỗ máy đúc giờ phải tăng ca, ngày tới 4-5 ca mà vẫn không hết việc, thế mà các bác lại còn mới đưa ra chỉ tiêu phải đúc nâng cấp thêm mấy chục nghìn nữa mới ghê. Cung không kịp cầu nên tức khắc phát triển cực mạnh cái dịch vụ mua bán tem nhãn chứng nhận rởm là đã được đúc, được nâng cấp (mới thử kiểm tra cái tỉnh gì trên Tây Nguyên mà đã ngót gần hai nghìn vị “dính” rồi). Thử hỏi làm sao mà thay cái cỗ máy này đi được, nhất là ai cũng thấy “đúc” dễ hơn “trồng” rất nhiều, cho cả thợ đúc lẫn người-máy. Chỉ thấy thay hết đời bác quản đốc này lại đến bác quản đốc khác mà điều tiếng thì ngày càng nhiều là tại sao chất lượng người-máy ngày càng tệ. Rồi còn nảy sinh ra đủ kiểu phong phú, như thi thoảng lại có bác quản đốc phân xưởng khác muốn được giả vờ đúc lại, giả vờ nâng cấp để được tại vị hoặc lên chức giám đốc, mà to thế thì phải chiều chứ. Chưa kể mỗi khi các bác có hô hào “từ nay chấm dứt cái trò giả vờ đúc nhé” (tức là phát động “nói không với bệnh thành tích”, “chống gian dối trong thi cử”), cũng không ăn nhằm gì, vì các phân xưởng khác họ cũng “làm giả, ăn thật” đầy dẫy ra cả rồi, mà thu nhập, năng suất của họ lại còn bằng vạn phân xưởng đúc. (Nên nói trắng ra là người nhớn, “bề trên” không làm gương chống gian dối, “bệnh thành tích” trước đi mà lại bảo trẻ con, kẻ nghèo hèn chống thì chống thế nào được). Thành thử công nhân phân xưởng của các bác cũng phải thi đua tăng thu nhập với họ thì mới sống nổi chứ. Vậy là các người-máy nay được đúc ra thậm chí còn tệ hơn với sản phẩm của cái lối “nhanh, nhiều, tốt, rẻ” ngày xưa. Mệt nữa là các phân xưởng khác còn có đủ những quyền hạn khống chế cái xưởng đúc này để mà “vào guồng” cùng với mình. Ví như bên thiết kế (kiểu như tuyên giáo í mà), hay bên tài vụ (giống cái ngành tài chính ấy), quyền hành họ rất to, không nghe theo là họ “siết hầu bao”. Nhưng cũng chả thể đổ tại thiên hạ hết được vì cái công nghệ đúc của các bác nó quá lỗi thời rồi, trẻ con giờ nó lên vi tính, nhoằng một cái là nó biết hết ở bên Tây người ta thế nào, thế mà các bác cứ muốn nó phải nghe, phải tin những lời giáo lý theo kiểu “nói vậy mà không phải vậy” mãi sao được. Các bác cũng nào có chịu tin là bao nhiêu tệ nạn xã hội, giặc nội xâm tham nhũng, trò giả vờ ở cái xã hội này một phần chính là do cái lối đúc người của các bác mà ra. Có điều, thi thoảng cũng thấy thương các bác thật. Ấy là chuyện các công nhân đúc, họ vốn xuất thân cũng người-máy cả, quen cái công nghệ cổ quái này rồi, giờ đổi lại là họ chóng mặt, “chập mạch” ngay. Rồi xoay đủ kiểu để đánh bài cù nhầy. Nhất là giờ họ phải lo nhiều hơn tới cuộc sống, vì của đáng tội, lương ba cọc ba đồng sống sao nổi, nhìn ra ngoài thì đâu đâu cũng kiếm mạnh quá, họ có phát khùng lên, hay không chịu cố mà đổi từ “đúc” sang “trồng” cũng không lạ. Vừa rồi các bác mới hứa đại là mấy năm nữa thì lương họ được nâng lên mức “đủ sống”. Nói hay thế! Thế nào là đủ sống, sống dật dờ, hay sống phây phây? Thế lâu nay chả phải là họ vẫn sống, có thợ đúc nào chết đói đâu? Làm sao họ tin được. Càng rõ là ngay trong bản thân nhiều vị trong số các bác cũng không nhận ra hoặc không chịu nhận là mình có những thói quen cũ khác gì những công nhân đúc dưới mình đâu, thậm chí còn nặng hơn nhiều. Thật nan giải vô cùng!

Vậy thì thấy ngay là muốn thực sự đúc (trồng) được người-thật theo kiểu tiên tiến như bên Tây, phải bắt đầu bằng các bác lãnh đạo nhà máy, rồi tất tật các phân xưởng khác nữa đồng tâm nhất trí mới được. Đằng này các bác chỉ ở tầm quản đốc phân xưởng đúc thôi, đơn thương độc mã mà xoay xở, thì có bị nó nuốt chửng cũng chả oan. Chưa nói tới chuyện (xin lỗi các bác đừng giận) trong số các bác, nhiều vị i-qui cũng hơi bị cao, biết tỏng là chẳng đi đến đâu, nhưng thôi thì tặc lưỡi chấp nhận cống hiến theo kiểu “ngậm miệng…” là khỏe. Nên bao nhiêu năm nay cứ nghe các bác “cải cách” hết đợt này đến đợt khác xoành xoạch, mà toàn theo kiểu “giật mình,” tức là theo lối hình thức, manh mún, vội vã, chứ không có chiến lược lâu dài gì cả. Thành thử cái ngành “đúc người” càng đi vào ngõ cụt thêm, càng nhiều thêm chuyện tồi tệ trong học hành thi cử, từ các quan chức, thầy cô cho tới học trò.

Từ bé cháu đã nghe mãi lời giáo huấn “… vì lợi ích trăm năm trồng người”, nhưng cháu nghĩ quả tình chả thấy các bác trồng trọt gì mấy, thấy toàn là đúc thôi, ra rặt những người-máy, còn người-thật khan quá. Cái lợi ích thì cũng có, nhưng nó nặng về trước mắt vài năm để phục vụ chiến tranh, chứ làm gì được tới trăm năm, cho việc xây dựng đất nước, chưa nói tới chuyện “lợi bất cập hại” thì vô cùng tận, khó mà nói ra được hết.

3. Chữa trị

Giờ thì chắc các bác sẽ mắng “thế mày giỏi thì hiến kế đi xem nào”! Vâng, cháu xin hiến kế, để chia sẻ cái cơn vật vã của các bác với công cuộc “trồng người” này.

Thứ nhất: trước hết nếu đồng ý với những lý sự này của cháu, rằng cái lối đúc người bao năm nay là nguyên nhân đem đến nhiều thói tật tệ hại, ăn vào máu mấy thế hệ, vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, dưới đủ mọi hình thức, mức độ, giờ thay đổi là vô cùng khó, vướng víu nhằng nhịt với cả thiết chế xã hội, thì các bác hẳn đọc tiếp.

Thứ hai: các bác đừng sợ là “trồng người” theo kiểu Tây thì sinh ra những loại người-thật là sẽ “khó bảo”, hay “chống đối”, là mình “mất chế độ”. Nghĩ thế là các bác không tin tưởng vào đường lối đổi mới của “trên” rồi. Còn cứ sợ bóng sợ vía, lại cả nuối tiếc cuộc sống phè phỡn với bọn giặc nội xâm, rồi đâm ra nhùng nhằng, giả vờ cải cách, chẳng kiểu nào ra kiểu nào, dở Tây dở ta chẳng những tốn kém vô cùng, mà còn đúc ra thêm những người-máy quái dị nữa thì càng gay. (Thí dụ chả đâu xa, cái bác quản đốc xưởng đúc vừa về hưu ấy, rất tỉnh, biết tỏng là mình cũng dạng người-máy, nên xin tiền nhà máy để sang Tây cho nó “trồng” lại mình thành người-thật, chả biết để về mà làm gì. Thế là sinh chuyện dở mếu dở cười). Với lại cháu đọc sách mới biết là cách nay cũng gần trăm năm rồi, các cụ tiền bối mà ta tưởng là cổ hủ đã từng khuyên là phải học Tây, Nhật cái cách “trồng người” chứ có phải không đâu. Khi nước mình còn nô lệ, có cụ còn bỏ tiền túi ra đưa khối mầm non sang Nhật cho họ “trồng” hộ, đến lúc vừa độc lập mình còn mời nhiều vị được Tây thực dân nó “trồng” về giúp đất nước giỏi phết. Chưa hết, nhiều vị còn tranh thủ học Tây tại chỗ nữa, nên trội hơn hẳn, mới được tôn lên cầm đầu cách mạng. Thế là một phần nhờ những vị này, được học Tây, Tây học mà nên người-thật, để sau đó ta cướp lại được chế độ lần nữa chứ nào có mất mát (chế độ) gì đâu.

Có điều hình như nhiều bác cũng vẫn đinh ninh, là lối đúc người này của ta lâu nay, chính là học theo “Tây” từ lâu rồi, nên cứ yên trí vậy mà theo. Nhưng các bác hơi bị nhầm. “Tây” mà ta học theo ở đây thực ra là Tây-đông, tức là nước Liên-xô, thành trì XHCN đã sụp đổ mười mấy năm nay rồi. Mà bố này sụp đổ thì ta còn chạy theo học làm gì nữa, có mà học cái bóng ma! Hay là các bác cũng muốn…?

Thứ ba: khi đã “quán triệt” hết rồi (tức là phải cả ban giám đốc nhà máy, nhiều phân xưởng cũng chịu cắn răng mà theo), thì ta phải tìm ra tất tật những biểu hiện của lối đúc người theo kiểu cũ, mà cháu mới đưa ra được có vài ví dụ ở trên thôi. Tìm quyết liệt như truy nã tội phạm ấy. Phải nhấn mạnh là nó nhiều vô cùng vô tận, chọc sâu cắm rễ cực chắc vào toàn bộ đời sống xã hội, các ban ngành đoàn thể, tác động khủng khiếp tới cái công cuộc “trồng người”. Từ những ngôn ngữ cửa miệng (ví dụ ngay như cái từ “quán triệt” cháu quen mồm mà vừa dùng ấy, cũng nên bớt đi), chữ nghĩa trên sách, báo, diễn văn, bài học, khẩu hiệu, giọng điệu nói năng hàng ngày kêu cứ choang choang (như trên vô tuyến cứ ra rả “Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là một bông hoa đẹp. Cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”, e là thứ hoa sớm nở tối tàn, nên bỏ dần)… cho đến tác phong, thái độ, hành động cư xử giữa con người với nhau, đâu đâu cũng thấy tràn ngập cái lối đúc người lồ lộ. Tiếp đến là các danh hiệu này nọ thôi thì nhiều vô thiên ủng, các đoàn thể gọi là “quốc doanh” với những bộ máy khổng lồ. Hai thứ này mấy chục năm nay tham gia vào cái công cuộc đúc người vô cùng đắc lực. Tạm gọi các đoàn thể này nó như những phân xưởng đánh bóng, mạ kền cho sản phẩm đúc. Còn những danh hiệu này nọ lại như cái nhãn mác “hàng Việt Nam chất lượng cao”… Tất cả nó đi vào luôn chuyện dạy dỗ, nhìn nhận, đánh giá con người, không theo kiểu “trồng”, mà là “đúc.”

Thứ tư: khi tìm ra hết rồi, giờ mới đến cái thực sự được gọi là “tuyên chiến”. Đó là tuyên chiến với cái bệnh hoạn này trong toàn xã hội, chứ không phải chỉ riêng trong cái ngành đúc người của các bác. Mà tuyên chiến là rất nghiêm trọng rồi (như kiểu chiến tranh giữa hai nước), thì phải lập tức đưa ngay vào hệ thống luật pháp. Phải sửa luật giáo dục, luật báo chí, luật thi đua khen thưởng (nên cho luật này teo dần), luật dân sự (cả luật nhà giáo, luật về hội mà các bác đang tính làm nữa) v.v…, để có biện pháp áp chế từ kỷ luật cho tới phạt tiền, bỏ tù những ai mắc cái căn bệnh đúc người theo lối cũ. Sửa lại, thay thế hết những sách, báo, văn bản rặt những ngôn ngữ kiểu đúc người.

Có luật rồi thì phải có cái bộ máy nó chấp hành luật này. Vậy là cái tòa án để xét xử phải được coi trọng, được độc lập, phát triển mạnh vào, để cho phép học trò nó kiện cả nhà trường nếu vi phạm, chứ đừng coi đó là hỗn. Vì ta cứ hô chế độ ta dân chủ gấp triệu lần chế độ cũ thì phải chứng tỏ ra chứ.

Có hai cái này rồi, giờ nếu bố bộ trưởng nào mà có bằng tiến sĩ theo kiểu “học giả bằng thật”, nhân viên nó kiện ra tòa là mất chức như chơi. Trẻ con nó nhìn vào đó mà hãi, không dám học kiểu lếu láo nữa. Thầy cô mà lại đi hành hạ, đấm đá, cưỡng bức học trò, dạy kiểu “đọc-chép”, “làm bài văn mẫu”, “lớp mẫu”, “giờ dạy mẫu”, không chịu khích lệ tự học, tranh luận là nó cũng kiện ra tòa luôn. Quan tòa nào mà kiếm cớ không xử thì cũng bị… ra tòa luôn. Bố nào mà quen mồm, đọc diễn văn toàn kiểu “thành công rực rỡ”, “phấn khởi thi đua”, “đồng tâm nhất trí” là phạt tiền luôn, thậm chí đưa ngay vào trường để được “trồng” lại theo chương trình mới. Có thể lúc đầu thì các bác chưa quen, dễ bị ăn phạt, phải châm chước tí chút, nhưng rồi dần dần sẽ quen thôi, là ổn.

Nhưng có lẽ các bác lại bảo “phạt lắm thế, mà lương thì ba cọc ba đồng, lấy đâu mà nộp?” Ấy là cái chuyện xã hội hóa giáo dục, y tế. Khởi thủy là do các bác cứ cố, cứ vội mà chứng tỏ chế độ ta ưu việt hơn bọn Tây tư bản, vì sợ không làm nhanh thì lại “mất chế độ”, nên chơi kiểu “nhà nước lo tất”; rồi lại sợ thả ra cho tư nhân thì lại chả phổ cập được cái công nghệ đúc người, lo nó trồng người kiểu tư bản thì mình cũng “mất chế độ”. Khốn nạn là nhà nước giờ đang còn nghèo lấy đâu ra tiền mà “lo tất”. Báo hại vô cùng, “ôm tất” rồi chả còn tiền mà trả lương cho các bác để có ngày nộp phạt. Nhưng giờ bỏ kiểu đúc này rồi, mà chuyển sang trồng người hẳn hoi, thì phải nhanh chóng cho phát triển tư nhân để họ gánh đỡ cho nhà nước chứ gì nữa. Còn sợ “mất chế độ” á? Cứ sợ thế nên mới mất lòng tin, mất nhân tài, tài nguyên… thậm chí mất cả thể diện quốc gia, rồi có ngày mới mất chế độ vào tay bọn giặc nội xâm thật ấy chứ.

Nhưng cũng phải đề phòng khả năng các vị lập pháp lại không đồng lòng sửa những luật này, vì thực tình trong ngót 500 vị, thể nào cũng không thiếu những vị chịu ơn nghĩa cái lối đúc người cũ. Vậy chỉ còn cách nữa là ông chủ tịch nước ra cái sắc lệnh, bao quát hết luôn, chiếu vào đó mà thực hiện thôi.

Song song với luật (sắc lệnh) và tòa là phải có cái bộ máy để tẩy não cho người-máy, tức là tuyên truyền. Mà những bộ máy này cũng phải được quản chặt bằng luật, nếu lơ-tơ-mơ tuyên truyền theo kiểu cũ là cũng phạt. Nhất là phải cho các vị này đi học, tự học, tự đọc tử tế mà thấm nhuần, biết chọn lọc trong những giáo lý Phật, Lão, Khổng đẹp đẽ cao quý từ ngàn đời cả thế giới người ta kính nể, rồi đưa vào cuộc sống, vào nhà trường, chứ cứ để các vị “tự biên tự diễn” chế ra những lời dạy, khẩu hiệu của mình mà bắt người ta tin như là của thánh hiền bao năm nay là nguy hiểm vô cùng.

Còn chuyện nan giải nữa là những thợ đúc, đông đúc như thế mà thay đổi để họ đều biết cách trồng trọt là khó lắm. Phải đưa họ đi trồng lại thôi. Ai lo chuyện này? Đành giật gấu vá vai vậy. Đó là những thợ đúc trông đỡ giống người-máy nhất, nói trắng ra đó mới thực sự là thành phần ưu tú. Thêm nữa là khi đỡ lo “mất chế độ” rồi thì phải mạnh dạn mà thuê thợ trồng trọt bên Tây, nhất là số anh chị em định cư bên ấy thuộc diện gọi là “một bộ phận của dân tộc” về để cùng mở lớp. Ta cứ lặng lẽ mà làm thôi, đừng hô hoán là “đẳng cấp quốc tế” này nọ như lâu nay, chả lại bị phạt. Có tốn kém, thiếu kinh phí thì cứ cắt bớt ngân sách của mấy cái phân xưởng đánh bóng, mạ kền đi cũng tạm ổn, vì số này ngốn tiền là hơi bị kinh.

Thế là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, tuyên chiến với một thứ giặc giã mới từ nhà trường cho tới xã hội – giặc gian dối, giả dối, háo danh hão, hám thành tích cuội, u mê, đớn hèn… rồi sinh ra tham nhũng.

Nhưng cũng còn nhiều biện pháp lắm, chứ chả phải làm qua quít mà xong đâu, cháu cứ nôm na tạm vậy đã, để phần cho các chuyên gia của các bác lo tiếp.

Cháu xin hết và cũng xin các bác bỏ quá nếu cháu ăn nói có hàm hồ, hỗn xược, vì cháu vẫn còn non nớt như đã thưa ngay từ đầu.

Kính chúc các bác khỏe, luôn tỉnh táo để khỏi bị cái máy đúc nó nuốt chửng mất sự nghiệp.

© 2007 talawas

Bài được đăng trên blog Ba Sàm từ năm 2007, nhưng do bị tin tặc đột nhập, xóa mất, nay đăng lại nên không còn các phản hồi ban đầu.

Posted in Bài của Ba Sàm, Giáo dục | 3 Comments »

Tự giáo dục

Posted by adminbasam trên 19/10/2007

Tự giáo dục


Thế là vụ việc đình đám về cái website của Bộ Giáo dục – Đào tạo bị học trò Minh Trí “nghịch ngợm” (tạm gọi là vụ Hacker Trí*) đã coi như được khép lại sau những tranh cãi kéo dài, cả những thông tin trái chiều. Duy chỉ có một điều khá thú vị mà không cần phải đợi tới khi mãn cuộc mới đánh giá được. Đó chính là sự cần thiết vô cùng phải Tự Giáo Dục (trước hết) cho ngành giáo dục của chúng ta.

Ngôn từ nghe có vẻ lạ. Bởi xưa nay, người ta thường nói tới chuyện “tự học”, đã ai bảo rằng phải “tự giáo dục” ? Ví như chỉ trong hơn một thế kỷ qua, bao nhiêu bậc thức giả của đất nước để lại bao công trình văn hóa, tư tưởng văn minh tiến bộ mà đến hôm nay chúng ta còn chưa học hỏi, truyền thụ, áp dụng được nhiều (từ những Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch…, cho đến Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Phan Ngọc, Nguyễn Hiến Lê…), vậy mà trong số họ, phỏng có được mấy người có những học hàm, học vị giáo sư, tiến sĩ này nọ ? Rõ là chủ yếu bằng con đường tự học mà các vị đã có những kiến thức uyên bác. Nhưng lâu nay ta đã quen khi dùng từ “học” thường hàm ý chỉ kiến thức, còn nói tới giáo dục là nói tới điều to tát hơn, bao gồm cả nhân cách nữa. Tựa như câu “Tiên học lễ, hậu học văn” vậy – tức giáo dục dạy cả “lễ” và “văn”. Đương nhiên, không ai không hiểu rằng các vị tiền bối đó ngoài thuần túy tự học kiến thức, đã phải tự rèn nhân cách đến thế nào mới có thể để lại cho hậu thế từ tri thức uyên thâm tới lòng kính trọng vô cùng.

Vậy thì ta cần học tập ở các vị tinh thần “tự học”, “tự giáo dục” bản thân – tự học kiến thức và tự rèn nhân cách. Mà muốn “tự” được thì không phải chỉ ở trường lớp, mà còn ngoài xã hội, qua sách vở… Không phải chỉ khi còn tuổi cắp sách tới trường, mà phải luôn học khi vào đời, bất kỳ ở địa vị nào trong xã hội, cho tới nhắm mắt xuôi tay.

Và quanh vụ Hacker Trí, cái sự “tự giáo dục” đã trỗi dậy trong lòng người để biết ơn nghĩa, tự nhận lỗi, rộng lượng, trung thực, dẹp bỏ lối đố kỵ, ganh ghét, thù vặt, sĩ diện – giấu dốt, đạo đức giả,… Cụ thể:

1. Với em Trí: Có được sự tự học kiến thức ngoài nhà trường thì em mới có được khả năng “hack” như vậy. Nhưng còn những khiếm khuyết từ ý thức tôn trọng pháp luật, đến bản tính hiếu thắng của tuổi trẻ, hay cả sự thiếu “khôn ngoan” cần thiết của một con người để có được một cuộc sống bình an trong xã hội này… thì Trí còn phải tự học, tự rèn rất nhiều.

2. Với ông Quách Tuấn Ngọc: Cái học là học kẻ “dưới cơ” mình, một tay “mơ” thôi nhưng cũng làm những chuyên gia hàng đầu về công nghệ thông tin của Việt Nam phải một phen rát mặt. Sự rèn là ở phép ứng xử. Từ chỗ vội phản ứng nặng nề, thái quá, ông đã bình tĩnh lại, có lời xin lỗi trên báo chí(2). Quả là đáng quý !

3. Với ông Nguyễn Tử Quảng: trong khi nhiều sự còn chưa rõ ràng, ông đã ném ra một “quả bom”. Đó là việc Trí sử dụng thẻ tín dụng của người khác(3). Nếu ông thực công tâm, hiểu hơn về pháp luật, về cả đạo lý ở đời thì chắc chắn sẽ không vội tung ra thông tin này; chưa nói tới việc đối tượng mà ông vội ám chỉ như kẻ tội đồ (ăn cắp?) cũng như một học trò của ông thôi. Đến như ông thượng tá trưởng phòng Chống tội phạm cộng nghệ cao-C15 Bộ Công an, người nắm rõ và có trách nhiệm nhất trong việc này, mà cũng còn phải rất thận trọng, khi được hỏi mới dè dặt rằng “việc đó chúng tôi đang tiến hành điều tra“(4).

Liên tưởng tới điều mà dân gian hay chê cười, là lối “bới lông tìm vết” và “tung hỏa mù”. Tựa như chuyện B tố cáo A ném đất vào nhà mình, trong khi mọi người đang nghi hoặc thì, để có thêm trọng lượng cho lời tố cáo của mình, B kể thêm “tội” là hình như năm ngoái A ăn trộm gà ở làng bên. Vậy là A rất dễ… ăn đòn đủ. Với cái lối tư duy và hành xử đó, nếu là ở một vị quan tòa thì không biết sẽ có bao nhiêu người phải chịu oan gia?

4. Với ông Nguyễn Thiện Nhân: Những cố gắng xông xáo, đưa ra nhiều thông điệp gắng bắt kịp với nhiệm vụ gian nan, mới mẻ từ khi chấp chính đến giờ của ông, chưa hẳn đều thuộc về cái bản lĩnh cao của một “chính khách”. Thêm vụ Hacker Trí cho hiểu hơn điều này. Tuy chuyện có vẻ như “con trẻ”, nhưng lại cho ông một bài học mới về việc cần phải “tỉnh” của một vị lãnh đạo đầu ngành.

Trong toàn bộ nội dung bức thư của ông, những nhầm lẫn về thời điểm em Trí đột nhập trang web của Bộ, rồi thái độ phê phán nghiêm khắc với Trí mà lại “quên” phê cái tắc trách, chê cái kém cỏi của thuộc cấp của mình, “quên” làm cho rõ thực hư việc em Trí đã cảnh báo bằng nhiều cách với người có trách nhiệm của trang web để mà … cám ơn em, kể cả lời đính chính vụng về của ông sau đó (nhưng lại cũng “quên” làm gương bằng việc xin lỗi em Trí vì mình đã nhầm lẫn nên đã tạo ra một “tình tiết tăng nặng” cho cái “tội” của em (5) thực tình vẫn chưa đáng gọi là bài học lớn lắm so với tầm cỡ lãnh đạo như ông. Mà là ở chỗ: như một vị tướng chỉ huy binh chủng, năng lực bao quát và tầm nhìn cho cả chiến cuộc mới là quan trọng, chứ không phải là nhảy vào những sự vụ, ôm súng xông lên bắn vào lô-cốt địch – những việc của mấy anh binh nhì, cao hơn thì cấp trung, đại đội. Thậm chí trong “chiến dịch” này, dường như nhiệm vụ “đánh địch” chủ yếu lại không phải thuộc về “binh chủng” của ông, cùng lắm là “hiệp đồng tác chiến” thôi – nó thuộc về công ty VDC, ngành Bưu chính Viễn thông, Tòa Dân sự (nếu như thuộc cấp của ông – chứ không phải đến ông – chọn giải pháp khởi kiện).

5. Với cơ quan tố tụng: Đã rõ là sai phạm của Trí theo luật pháp hiện hành chưa đến mức xử lý hìnhsự, mà chỉ ở mức hành chính-dân sự. Đành rằng trong hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết, nhưng không thể vì vậy mà có thể vi phạm những thủ tục tố tụng, và quan trọng hơn là phạm vào những quyền tự do cá nhân, dù đó là một “đứa trẻ”. Việc gọi hỏi, hay niêm phong và kiểm tra máy tính của Trí là liên quan đến điều đó, nhất là sự vụ lại được thực hiện bởi cơ quan CSĐT. Có lẽ sự việc mang màu sắc nghiêm trọng bởi đã động đến một cơ quan lớn, mà kẻ dám “hỗn” lại quá ư “thấp cổ bé họng” nên đã làm nhiều người quên đi những nguyên tắc tố tụng này, hoặc muốn bỏ qua để cho nhanh được việc.

6. Với báo chí: Những phản ứng quá sớm ở vài tờ báo khi nhiều tình tiết vẫn chưa được làm rõ chưaphải là điều đáng nói. Có hai thái cực, một “bênh” em Trí, một “bênh” những người quản trị trang web. Có những báo đã đăng tải rất nhiều ý kiến phản hồi của độc giả trong nhiều kỳ; dù cái sự “quá tốn nhiều giấy mực” cho một vụ việc không lớn, trong khi còn bao tiêu cực ghê gớm cần giành diễn đàn lên án (như vụ Bệnh viện Chợ Rẫy, hay ngay trong giới chức từ ngành Giáo dục cho tới chínhquyền tỉnh Bạc Liêu, trường Cao đẳng VHNT Đăk Lăk chẳng hạn), thì vẫn chưa phải là đáng bàn bằng việc báo đó chỉ đăng ý kiến một chiều mà thôi. Và vậy là cái tính khách quan tối quan trọng của báo chí đã bị đánh mất, đi liền đằng sau là một dấu hỏi của dư luận!

7. Với địa phương, nhà trường, Cty VDC: Một hình ảnh chung là bình tĩnh, thận trọng và có chừng mực (6).Tuy nhiên, việc nhà trường kỷ luật em Trí (ngoài việc xử phạt hành chính của cơ quan có trách nhiệm) cũng cần được xem lại về quyền hạn qua Nội quy nhà trường và Luật Giáo dục 2005, cácNghị định 75, 139 đi kèm. Bởi vì em Trí thực hiện việc xâm nhập trang web này ở ngoài giờ học, ngoài cổng trường. Nên cái sự “tự giáo dục” nó đã có ý nghĩa ngay ở chỗ: hành xử công minh, đúng mực (đặc biệt là với lớp trẻ, người yếu thế) cho ta kinh nghiệm về sau, với những việc tương tự; cả cho người khác nhìn vào đó mà tự giáo dục mình.

Thế mới biết sự tự học, tự giáo dục ở nước ta nó quan trọng đến thế nào, kể cả khi những mục tiêu hoành tráng như đến năm 2015 sẽ có thêm những 20 nghìn tiến sĩ có phải là thực chất (hay chỉ góp phần làm trầm trọng thêm hai cái “bệnh” mà ngành Giáo dục đang phát động tuyên chiến, là “thành tích” và “gian dối trong thi cử”?). Nhất là trong khi cả xã hội lại đã quá quen tới hơn nửa thế kỷ rồi lĩnh hậu quả khôn lường từ lối học thụ động (bị giáo dục), lười suy nghĩ, sợ ý kiến trái chiều, ham chạy theo bằng cấp, thành tích, hư danh…; lại thêm nặng về trí dục mà đức dục thì sao lãng hoặc “rèn” theo lối áp đặt, “hô khẩu hiệu”, dễ khuyến khích những kẻ đạo đức giả, “ăn theo nói leo”, “đặt đâu ngồi đó”.

(1) Em Trí, học sinh lớp 12 trường THPT chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vĩnh Long, phát hiện lỗi bảo mật trên website của Bộ GD-ĐT, đã để lại file cảnh báo, liên hệ với VDC(Cty đồng quản trị website này) từ tháng 7-2006. Thấy không có phản ứng sửa lỗi, ngày 27-11-2006 Trí đã can thiệp vào website, thay ảnh bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân bằng ảnh của mình.(2) Ông Ngọc (giám đốc Trung tâm CNTT-Bộ GD-ĐT) dùng những từ ngữ nặng nề như “tội phạm”, “bố con chúng nó”, “nó” để nói về em Trí. Sau đó ông đã có thư xin lỗi trên mạng Edunet.(3) Trong một bài báo dài ngót một trang báo, ông Quảng (giám đốc Trung tâm An ninh mạng BKIS) đã đưa ra nhiều “dấu hiệu” về Trí, như “… không chỉ tấn công các website như chúng ta biết mà còn có dấu hiệu sử dụng nhiều thẻ tín dụng mang tên người nước ngoài để mua bán trên mạng với số tiền lên tới hàng nghìn USD…”(4)Khi được hỏi việc ông Quảng đưa thông tin Trí có dấu hiệu sử dụng nhiều thẻ tín dụng mang tên người nước ngoài, thượng tá Trần Văn Hòa: “Khi chưa có kết luận cuối cùng, chúng tôi không thể trả lời ngay được”.(5) Trong bức thư “Nỗi đau của tôi trong ngày 20-11-2006”, ông Nhân nói rằng em Trí đã phá website vào đúng ngày Nhà giáo 20-11 (“Khoảng 12 giờ trưa ngày 20-11, tôi được tin website của Bộ đã bị tấn công”). Sau đó, ông đính chính là “vào dịp 20-11″(?). Như vậy thì cái thư của ông sẽ phải có nhanđề là “Nỗi đau của tôi saungày 20-11″ và nội dung phải được sửa lại… rất nhiều!!!(6) Giám đốc Sở Bưu chính-viễn thông Vĩnh Long “chúng tôi sẽ (…) xử lý trên tinh thần vừa răn đe vừa tạo điều kiện phát triển cho một tài năng tin học tương lai”. Phó giám đốc Sở GD-ĐT Vĩnh Long: “… Trí là một học sinh ngoan hiền, có năng khiếu đặc biệt về tin học (…) đã kiên trì cảnh báo các đơn vị quản trị mạng. Đó là đức tính đáng quý…”. Trưởng phòng phát triển dịch vụ của VDC: “… Dưới góc độ công việc, chúng tôi phải cảm ơn Trí…”.

Nguyễn Hữu Vinh

(Tạp chí Nhà Quản lý – số 46)

Bài được đăng từ năm 2007, nhưng do blog bị tin tặc phá xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu.

Posted in Bài của Ba Sàm, Giáo dục | Thẻ: | 4 Comments »

Đạo đức cởi truồng

Posted by adminbasam trên 17/10/2007

Đạo đức cởi truồng *

Con: bố ơi, hồi con bé bố mẹ không cho con mặc quần à, lại còn chụp ảnh con cởi truồng nữa ?

Bố: ừ …

Con: sao thế ạ ?

Bố (cau mày): cái thằng hỏi buồn cười. Trẻ con mà …

Con: thế sao cứ lớn lên thì mới phải mặc quần ạ ?

Bố (cười, lúng túng): à, là vì không mặc thì ngượng lắm. Nhớn mà cởi truồng ra đường thì … nhất là bạn bè người quen bắt gặp cười cho, xấu hổ có mà chui xuống đất cũng không hết.

Con: thế trẻ con thì không biết xấu hổ hả bố ?

Bố: cũng gần đúng thế, càng lớn càng khôn ra là càng biết xấu hổ.

Con: thế ngộ nhỡ ai không biết xấu hổ mà cứ cởi truồng thì sao ạ ?… Mà người ta đeo mặt nạ vào, như mặt nạ Trung thu bố mua cho con ấy, thì ai biết họ là ai ?

Bố (cười lớn): ái, chà chà … thằng này hỏi quái phết … Thế này nhá … Trong cuộc sống ấy con ạ, ngoài cái xấu hổ, sĩ diện, tự trọng, nặng nữa gọi là nhục, thì còn có luật pháp nó bắt buộc mình phải làm gì, không được làm gì nữa. Chứ không phải là cứ tự ý mình thấy hay thì làm, không hay thì thôi đâu. Học lên nữa con sẽ biết. Nên cu cậu giờ nhớn rồi, mà không biết xấu hổ, cứ tồng ngồng ra đường là bị … “luật pháp” phạt tiền đấy, mà không có tiền nộp phạt là chú công an sẽ tóm cái này của cậu, nhốt lại là hết cả … tè.

Con: thế thì cái “luật pháp” với cái “xấu hổ” thì cái nào to hơn hả bố ?

Bố (trố mắt): khiếp cái thằng, định làm triết gia hay sao đây ! … Chuyện này hơi khó … đại để là mỗi cái đều có cái hay của nó, đều cần thiết. Nếu ai cũng biết xấu hổ mà tránh đừng làm thì chả phải cần đến luật pháp. Nên từ xưa hàng nghìn năm tới giờ mới có cả những học thuyết, rồi cả tôn giáo nữa, khuyên răn đạo đức, dạy phép tắc, lễ nghi, ứng xử … thế nào là hay, là dở cho con người ta kỹ lưỡng kinh khủng. Chỉ bất đắc dĩ ai không biết thế nào là xấu hổ, là sai thì mới phải đưa luật ra. Thành thử cả hai đều quan trọng, cái thì có tính chất dạy dỗ, khuyên bảo, cái thì kiểu đe nẹt, trừng phạt.

Con: thế sao con thấy trên vô tuyến dạo này người lớn toàn cãi nhau là ông này làm thế này là đúng luật, ông kia là sai luật, cả nhiều ông bị đi tù nữa. Nhưng chả thấy nói là ông này xấu hổ, ông kia không biết nhục, rồi có đáng … “chui xuống đất” hay không. Họ không có học thuyết, tôn giáo hả bố ? Họ làm sai nhưng chưa nặng bằng cởi truồng nên chưa xấu hổ à ? Mà bố còn bảo càng lớn càng biết xấu hổ cơ mà ?

Bố: …

Con: bố còn bảo càng khôn thì càng biết xấu hổ nữa …

Bố: à, bố nói thế là nói chung thôi. Chứ bây giờ nhiều người càng khôn thì lại càng không biết xấu hổ ấy chứ lị …

Con: sao người lớn rắc rối thế hả bố ? Mà như thế thì làm sao người lớn dạy cho trẻ con được ạ ?

Bố (thở dài): ừ … gay thế đấy …

Con: thế những ông “không biết xấu hổ” thì họ dạy con họ thế nào ạ ?

Bố: à … Sẽ có hai loại. Một loại thì họ dạy con họ là … là … “chúng mày mà nghe lời tao, làm theo tao là nhục lắm đấy nhá !” Còn loại thứ hai thì họ dạy con họ cứ làm … y như họ.

Con: thế thì loại nào là khôn hả bố ?

Bố: ngu hết !

Con (tròn mắt): ???

Bố: khôn á, thì chỉ có mỗi cách là …. “ngậm miệng … “

Con: là không dạy gì cả ?

Bố:

Con: … à, là “chui xuống đất” luôn !

Ba Sàm

*(Tạp chí Thế giới Văn hóa – số 50-2006: Đạo đức có tuổi tác)

Posted in Bài của Ba Sàm, Giáo dục | Leave a Comment »

Nhạc: đỏ, xanh, vàng, đen, …

Posted by adminbasam trên 13/10/2007

Nhạc: đỏ, xanh, vàng, đen,

Đó là về 4 “dòng” ca khúc ở ta một thời mà không biết có nên tự hào rằng chẳng có nước nào trên thế giới lại có được sự phong phú theo cái lối đó. Sự “phong phú” vương vấn hình ảnh “nồi da xáo thịt” (mà lại vương vào trong thơ ca mới đau chứ). Thiết nghĩ không thể không nói, chúng ta cứ tránh né mãi, tránh né nhiều chuyện quá, làm sao mở rộng cửa mà “ra biển lớn” được.

1. Mở cuốn Từ điển tiếng Việt thì chỉ duy nhất nhạc vàng được cắt nghĩa, là thứ “nhạc bi lụy[1]. Nghe không ổn. Bực mình mua một quyển đời mới hơn, thì được “cập nhật” một nghĩa mới nữa là “có giai điệu buồn[2]. Nghe càng tệ (dễ lẫn với cả nhạc … “đỏ” chứ chả chơi – như cái bài “Hồn tử sĩ” chẳng hạn, lễ tang các vị cấp cao là đều cử hành); mà dẫu có phải bổ sung thêm rằng khái niệm đó chỉ “sống” có một thời – thời chiến tranh 1954-1975, chủ yếu được các nhạc sĩ phía Nam sáng tác, thì cũng vẫn không thể đầy đủ cho cái sự “phức tạp” của nó. Vì nếu đi vào phân tích cái chất nhạc rất đặc biệt không lẫn đi đâu được của thể loại này thì phải giành cho các nhà chuyên môn.

2. Còn khái niệm nhạc đỏ, có lẽ là trong dân gian, để nói tới thứ nhạc có lời ca ngợi đất nước, “tăng gia sản xuất”, cách mạng, đảng, lãnh tụ, có yêu đương cũng gắn với lao động, chiến đấu … và tất tật những gì minh chứng rằng chế độ ta tươi đẹp; mà nhạc điệu thì đương nhiên là phải phù hợp với lời rồi, vui cùng vui, buồn cùng buồn (vẫn phải là điệu buồn bi tráng). Nhưng cẩn thận hơn, giở lại cuốn Từ điển đời mới, thì đã có thêm khái niệm nhạc đỏ, là “nhạc thường có âm điệu sôi nổi, mạnh mẽ, có nội dung ca ngợi tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc2. Đơn giản thế là cùng. Thật là tiếc cho các nhà từ điển học dày công biên soạn cả chục năm !

3. Thế còn nhạc xanh ? Cái tên này cũng trong dân gian thôi, có lẽ đó là thứ nhạc về tình yêu đôi lứa, “mây gió trăng hoa” … linh tinh, mà lời ca không “động” tới những gì thuộc về … nhạc đỏ, nét nhạc cũng không có cái “bi lụy” đặc thù như nhạc vàng. Vậy mà một thời cũng ít nhiều bị “hạn chế”, vì dễ làm sao lãng tư tưởng cách mạng trong thanh niên, những người lính ra trận.

4. Nhạc đen ? Quả tình đây là khái niệm mà người viết bài này mạo muội đưa ra để chỉ tất cả những ca khúc chưa được các nhà quản lý “duyệt” cho … “sinh” hoặc “phục sinh”. Nên tới tận hôm nay, sau hơn 30 năm chiến tranh kết thúc mà ta vẫn chưa được thưởng thức hàng chục ngàn ca khúc – những đứa con tinh thần của các nhạc sĩ tài năng như Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, … – vì chúng vẫn đang nằm trong “bóng tối”. Nhưng vẫn phải nói cho rõ vì sao có những hai loại muốn được “sinh” và “phục sinh”. Đó chính là những ca khúc của các nhạc sĩ sống dưới chế độ Sài Gòn trong khoảng những năm 1954-1975 (cần “phục sinh”) và các nhạc sĩ ở hải ngoại sau 1975 (cần “sinh” … trong nước).

5. Nhưng, có chia như vậy mà thấy vẫn không ổn. Vì cũng có thể có người bảo: đã gọi là “đen” thì phải là thứ “phản động”. Còn không “phản động”, nhưng có “vấn đề”, chưa được duyệt thì phải gọi là “xám” chứ.Và như vậy thì phải có tới năm, bảy “dòng” nhạc chứ chả chơi. Người khác lại cãi: phân loại kiểu đó là kiểu”chính trị”, phi nghệ thuật … Càng rắc rối hơn nếu như có một nhạc sĩ hải ngoại nào đó (nhất là diện có lý lịch “xấu”) lại nổi hứng sáng tác một bài hát cực kỳ “đỏ” vào, thì không biết liệu có được … duyệt, đưa vào danh sách nhạc đỏ để lưu hành trong nước không ? Chưa hết ! Lại có người muốn phát hành cái đĩa CD gồm những ca khúc thuộc diện “đen”, “xám” nhưng người ta lại chơi nhạc không lời thôi (không hát) thì sao ? Cái “phản động” là nó ở trong lời ca chứ có phải do điệu nhạc đâu. Còn nếu sợ có tên bài “mang nội dung phản động” thì người ta chọn những bài có tên “không phản động” thì sao ? v.v.. Chà … quá là rối rắm phải không quý vị ? Nếu có nhiều kẻ thích sinh sự như kẻ viết bài này thì chắc các “quan văn hóa” phải xin bỏ hết chế độ kiểm duyệt đi mất. Mà không rõ cái chế độ kiểm duyệt của ta có cái “ba-rem” gì không, như lối chấm bài văn bao năm nay mà nhà văn Nguyên Ngọc[3] vừa mới “than Trời” ấy ? Giả sử có “ba-rem”, thì liệu có được xây dựng nên một cách nghiêm cẩn, chí ít bởi các nhà chuyên môn về âm nhạc, chứ không phải được tuỳ ý quyết định chỉ bằng vài ba cán bộ quản lý ? Còn nếu không có thì đã rõ là trong lĩnh vực âm nhạc này còn đáng phải “đổi mới” không thua gì là chuyện giáo dục ấy chứ. Chẳng nói đâu xa, như trong điện ảnh, cách nay hơn 20 năm, bộ phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai đã phải “lên” đến các cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước để quyết định có được công chiếu hay không.

6. Còn nếu có ý thức nghiên cứu mang tính học thuật, lịch sử, gạt sang một bên những thiên kiến chính trị, thì không thể bỏ qua bất cứ thể loại âm nhạc nào nêu trên. Cùng với nhiều hiện tượng văn hóa khác, âm nhạc hiện đại của nước ta đã có bước nhảy vọt khác thường chỉ trong khoảng nửa thế kỷ, do chịu ảnh hưởng của trào lưu âm nhạc phương Tây, nhưng lại vẫn hòa quyện rất rõ với âm hưởng nhạc dân tộc. Ví như nhạc vàng, không biết đã có ai đi sâu nghiên cứu về nét gần gũi của nó với nhạc cải lương (đơn giản, dễ hát, âm điệu buồn phương Nam, nhưng không phải lúc nào cũng “uỷ mị”, hoặc thậm chí có “uỷ mị” nhưng lại thấy yêu đời hơn) ? Hay với nhạc đỏ, khó lý giải được vì sao trong đó có rất nhiều ca khúc tuy chất “chính trị” rất “nặng”, nhưng chất “nghệ thuật” vẫn cao, từ giai điệu cho tới hòa âm không khác gì những bản aria (có khi lại đầy chất dân tộc, vừa “tây” vừa rất “ta” nữa) mà lời ca cũng rất thơ. Nó đã đóng vai trò là một công cụ tuyên truyền rất mạnh. Càng khó lý giải hơn (?) khi chỉ sau năm 1975 không lâu, hầu như vắng bóng những ca khúc có được “đẳng cấp” nghệ thuật như vậy; nhiều nhạc sĩ cố công sáng tác phục vụ công tác tuyên truyền nhưng vẫn chẳng thể nào có được tác phẩm đáng để “đi vào lịch sử”. Một ví dụ dễ thấy là đợt vận động sáng tác quốc ca cách đây hơn 20 năm chẳng hạn, đủ các điều kiện thuận lợi, các giải thưởng chờ đón, thế mà chẳng có được bản nào sánh nổi với bản Tiến quân ca. Phải chăng đã có một “cơ duyên” lịch sử không bao giờ được lặp lại, khi mà cùng lúc, một thế hệ những nhạc sĩ, họa sĩ, nhà văn, thơ … Việt Nam phát lộ tài năng bởi tiếp thu nền văn minh, dân chủ phương Tây đồng thời hồ hởi với công cuộc giải phóng dân tộc nên đã có biết bao tác phẩm nghệ thuật “để đời” đến vậy (không phải chỉ trong âm nhạc) ?

Nhạc “ta” ít được nghiên cứu, tìm con đường phát triển hợp lý cho nó trong thời kỳ mới, trong khi những thể loại âm nhạc hàn lâm một thời dày công đào tạo, giờ không dễ tiếp tục theo lối đó; còn những “bài ca đi cùng năm tháng”, tuy giá trị nghệ thuật khá cao nhưng mang nhiều dấu ấn lịch sử, chính trị không thể cứ “ca” mãi. Tác động của âm nhạc lên đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam ta là rất lớn chỉ trong một thế kỷ qua, thời tiền chiến, rồi thời chiến nó mang những ý nghĩa khác hẳn với thời nay. Không thể không suy nghĩ khi mà những giá trị đạo đức đang băng hoại nghiêm trọng đều có phần tác động không nhỏ bởi lối tư duy thực dụng coi thường giá trị thẩm mỹ (trong âm nhạc, hội họa, kiến trúc, sân khấu, điện ảnh …) qua hệ thống giáo dục, qua phương tiện thông tin tuyên truyền, hoạt động văn hóa nghệ thuật.

Thế mới càng thông cảm với giới trẻ ngày nay cứ bị người già khó chịu vì hát hỏng nhạc tây chán lại thêm những trò break-dance, hip-hop … , có hát nhạc đỏ thì có khi nó lại xuyên tạc đi. Có thể vì chúng nhảy nhót hát hò mà không biết “quán triệt” như người lớn – “chẳng có chính chị, chính em gì sất”. Nhưng cũng chớ nên nghĩ rằng chúng không cảm thấy hẫng hụt, cô đơn khi cứ phải “xài đồ ngoại” mãi như vậy.

 Nguyễn Hữu Vinh

(Tạp chí Nhà Quản lý – số 52)


[1]Từ điển Tiếng Việt, 1997, Trung tâm Từ điển học

[2]Từ điển tiếng Việt, 2007, Trung tâm Từ điển học

[3] Tia Sáng, số 18/2007, Gỡ sao đây ?

Posted in Bài của Ba Sàm, Văn hóa | Thẻ: , , | Leave a Comment »

82:Bí mật đời … riêng

Posted by adminbasam trên 09/10/2007

Bí mật đời … riêng

.

– Đọc gì mà say sưa thế Út Măng ?

– Dạ thưa sếp, em đọc cái “Hồi ký … của một ả ca-ve” …

– Cái gì ? Nó tên là gì … đưa xem nào !

– “Em-so-ri” … Em thấy sếp Phó Bí của em ưa đi múa karaoke quá nên em chọc sếp chơi đó mà …

– Cái thằng …

– … Mà giờ sao các chị em vùng lên dữ quá, đua nhau ra hồi ký, làm nhiều cha lên ruột … rồi nhào đi mua. Cha thì lo mình “được” thành nhân vật chánh trong đó, cha thì muốn học hỏi kinh nghiệm … “tình trường”, “chơi” làm sao mà sau này khỏi được vinh danh trong “hồi ký” của các em. Thêm các bà nữa, ngờ ông xã mình dính chấu … cũng mua gấp coi. Còn cánh xế tụi em thì tò mò coi xem có … sếp mình trong đó không. Dzậy là sách bán chạy như tôm tươi … Cười muốn chết !

– Thôi chết ! Đúng thế hả ?

– Bộ sếp nhiều việc quá hổng có đọc sách báo gì hết trơn …

– Vậy là phải có biện pháp quản lý, chứ kiểu này thì …

– Thì lộ hết bí mật “tư tác”, bí mật “đời riêng”, con riêng, tài sản, tài khoản riêng …

– Không phải chuyện đùa đâu nhá.

– Nhưng theo ngu ý của em thì phát triển ba cái “hồi ký” này cũng hay chớ. Không chừng mình còn phải phát động thành cái phong trào … Từ rày mấy cha nội đỡ đi quậy … lo lỡ có ngày nó ra đời cái “Hồi ký của một ả ca-ve” thiệt thì gay. Chưa nói tới mấy quan tham xộ khám rồi, ngồi bóc lịch là dễ “nhàn cư vi … viết hồi ký” … Bán cũng chạy khủng khiếp luôn … Còn mấy tay “dựa cột” thì khỏi nói, sắp mất mạng thì còn gì nữa mà mất mà sợ, “hồi ký” bán ra là con cháu mấy đời tiêu xài khỏe re, khỏi … phấn đấu, khỏi lo đấu tranh đòi xóa cái “chủ nghĩa lý lịch” nữa.

Dzậy là các “ô dù”, “huynh đệ” ngồi nhà tha hồ mà run …”lạy Trời từ kiếp sau con xin chừa …”

– Đúng là … khủng khiếp quá ! Sao mình không lường trước được chuyện này nhỉ? Phải cấm, phải quản lý hết mới được !

– Dạ, nhưng mà sếp tính cho kỹ chớ rủi họ lại “lách luật”, họ không ra cái “hồi ký”, mà ra cái thứ kêu bằng “hồi ức”, “hồi tưởng” … thì … chào thua !

– Đấy, cái kiến thức “làm luật” ăn nhau là ở chỗ ấy. Mình phải bao quát hết, quản chặt tất cả những loại “hồi” nọ “hồi” kia …

– …

– Mà này … cậu không nghe gì à ? Hí hoáy cái gì đấy … viết cái gì đấy ?

– Dạ, em viết những chỉ thị của sếp … dzô cái … nhật ký của em.

– “Nhật ký” ?

– Chà, sếp dzô tư quá đi. Không những em viết mà em còn tính xuất bản đó …

– Hả ? Cậu định giết tôi đấy hả ? Cậu mà chơi kiểu này á, … là còn nguy hiểm hơn cái trò “hồi ký” đấy. Cậu có biết lâu nay cậu đã là người của …

– … của công chúng ?

– … Bao nhiêu mánh bí mật “quân cơ” tôi tâm sự, đem ra hỏi ý kiến cậu thì lộ béng hết chứ còn gì … là tôi đi tù chứ còn gì.

– Nhưng như dzậy thì em mới khỏi mắc tội “không tố giác tội phạm”, mới được khen thưởng, cất nhắc …

– Bố láo ! Cậu định phản tôi, định phắn trước hả ?

– Dạ không … mà là em cũng phòng hờ, rủi … chị nhà có giận gì sếp, giận “bề trên” của sếp mà ra cái hồi ký thì chắc em chết chùm theo sếp luôn …

– Nguy to … nguy to … Đã thế thì cấm cả “nhật ký” luôn !

– Dạ, dzậy thì em xin chuyển qua viết cái “tuần ký”, “nguyệt ký” … Giờ mình dzô cái Vê-kép-tê-ô rồi, nên áp dụng luật nó phải như bên tây, từ ngữ là phải thiệt chính xác đó sếp …

– Cấm tất, cứ có chữ “hồi”, có chữ “ký” là cấm.

– Dzậy thì ba cái “bút ký”, “ký sự”, “ký họa” … ?

– Cũng cấm luôn cho yên chuyện ! Chặt chẽ thế thì hết cửa chưa ?

– Dạ, dzậy đúng là “hết cửa”, là cấm cửa … cả làng Văn-Hóa-Nghệ-Thuật luôn!


Ba Sàm

(Diễn Đàn – ngày 9-9-2007)

Posted in Bài của Ba Sàm, Tiểu phẩm Tếu, Văn hóa, Đảng/Nhà nước | Thẻ: | 2 Comments »

Hỏi ý con Kiến con

Posted by adminbasam trên 06/10/2007

Hỏi ý con Kiến con


Con: bố ơi, bố nhìn này … con sâu to thế mà bọn kiến nó khiêng được, nom cứ như thể là nó đưa đám ấy bố nhỉ …

Bố: ối giời ơi … Biết cái quái gì mà đưa đám … Mà đưa tao cái điếu cày đã nào, cả tăm nữa … Nó đem về nhà nó chén đấy …

Mẹ: này mình ơi, ra em bàn cái vụ “nghỉ hè, nghỉ Tết” cái xem nào. Chứ người ta hỏi ý kiến phụ huynh, vô tuyến đài cứ là loạn cả lên chả biết thế nào cả.

Bố: ối giời ơi … lại cũng “kiến” với chả “voi”. Mấy chục năm nay vưỡn thế, giờ các bố muốn làm gì cứ làm, giỏi thì cứ thử đi. Sai thì lại sửa …

Mẹ: nhưng mà nó là cái chuyện thiết thân, giảm nghỉ hè cho chúng nó thì mình đỡ lo cái đận học hè, chơi bời lêu lổng, “chữ thầy giả thầy”, chán bi đáo rồi lại ra sông ra hồ vầy nước thì không khéo … Với lại Tết mình lại có thêm thì gian cho chúng nó lên thị xã chơi nữa chứ …

Con: a, hoan hô ! Tết này được nghỉ thêm hả mẹ ?

Bố: yên nào, nhóc con hóng chuyện người nhớn …

Con: con tưởng là bàn chuyện chúng con được nghỉ Tết thêm chứ ạ ?

Mẹ: đúng rồi … Việc của chúng mày đấy … là giảm … là nghỉ hè in ít thôi, tăng cái nghỉ Tết, nghỉ lễ lên cho nó “giảm tải” học hành … Ừ mà lạ nhỉ, sao nhà trường với lại ở “trên” người ta không hỏi ý kiến chúng nó nhỉ …

Con: hỏi ý kiến con thì con cứ là giơ cả hai tay …

Bố: này, mẹ con mày ở trên giời xuống đấy hở, mà háu bở thế ? Gớm … ý-kiến-con … có mà ý-con-kiến thì có ! Các “ông Nhà nước”, các ông í như voi như hổ, còn mình chỉ phận “con sâu cái kiến” thôi nhá. Các bố quyết gì, bảo gì thì chúng con phải theo thôi … Cái ngữ suốt ngày vục mặt xuống bùn với phân gio mà cày bừa đồng áng thì biết đằng mò nào mà …

Con: thế còn trẻ con … ?

Bố: chúng tao là “kiến” … thì chúng mày chỉ là phận … con của con kiến chứ còn gì … là con ấu trùng í. Ai điên mà đi hỏi cái lũ ấu trùng. Hiểu chửa ?

Con: à … có khi bố nói đúng thật đấy. Cô giáo con cô í dạy những câu như là “người đông như kiến cỏ” này, … rồi phải chịu khó “kiến tha lâu đầy tổ” … , “con kiến mà kiện củ khoai” … “con kiến mà leo cành đa” … là nói người dân đấy bố ạ.

Bố: thì chả là dân đen này chứ còn thằng nào vào đấy nữa … Là “dân đen” tức là nó nghèo khổ bửn thỉu, đen nhẻm như cái lũ kiến đen kia kìa …

Con: thế nhưng cô giáo lại bảo là đừng tưởng con kiến bé nhỏ là yếu ớt, ngu ngốc đâu. Cô kể cái chuyện “Voi-Kiến”buồn cười lắm cơ … Là lũ Kiến sợ Voi lắm, nhưng chúng nó biết đoàn kết, lại khôn đáo để. Nên một hôm chúng nó chui được vào tai con Voi …

Bố: … rồi nó đốt chứ gì ?

Con: không đâu ạ. Nó không đốt … Nhưng Voi thì tức lắm, chỉ chờ chúng nó ra là trị tội dám láo …

Bố: đúng quá !

Con: thế mà bọn Kiến nó còn đẻ ra đấy nhung nhúc những lũ Kiến con nhá ….

Mẹ: rõ khiếp !

Con: vâng … nó làm tổ luôn trong í, ngày ngày ra ra vào vào kiếm ăn tha mồi về mà Voi lại chả dám làm gì …

Bố: sao thế ?

Con: … vì duyên do là lũ Kiến con í, chúng nó suốt ngày nô đùa, nhảy nhót, tranh ăn … lại còn tẩn nhau khóc lóc loạn cả lên. Thế là anh Voi đinh tai nhức óc, điên đầu nhưng chả làm được gì, lại còn sợ nữa chứ …

Mẹ: ừ nhỉ ?

Con: … từ đấy giở đi Voi ta rõ là hiền lành ngoan ngoãn, nhũn như con … giun. Đi đâu, làm gì cũng phải rón rén se sẽ thôi, cũng phải hỏi-ý-kiến lũ Kiến con, chỉ lo chúng nó mà tức lên … nó lại la hét …

Bố: ối giời … Lại còn mai kia chúng nó nhớn lên, không biết điều là nó còn … đốt cho, thì có mà …

Con: đúng đấy ạ !!!

Ba Sàm

(Tạp chí Thế giới Văn hóa – số 10-2007)

Posted in Bài của Ba Sàm, Giáo dục, Tiểu phẩm Tếu | 1 Comment »

58:Con thú tật nguyền

Posted by adminbasam trên 05/10/2007

 

 

Con thú tật nguyền[1]


 

Nguyễn Hữu Vinh


Có ai đó chợt hỏi tôi “con người hơn con vật ở cái gì ?” Tôi đã chỉ ngay vào đầu. Người đó cười “sao không đặt tay lên ngực nhỉ ?” Tôi bảo từ bé tôi được dạy vậy, coi cái trí khôn (ở trong đầu) giúp cho con người chiến thắng muôn loài, làm ra của cải vật chất … là quan trọng hơn cả. Vậy còn thứ kia, cái con tim ấy, nó làm gì ? Nó không giúp tôi suy nghĩ, nhưng nó lại biết rung động, cho tình yêu đôi lứa, yêu con người, thiên nhiên, cuộc sống tự do … Nói đơn giản thì cái đầu là để nghĩ, còn con tim là để yêu.

Nhưng khổ cho con tim, khi tôi khốn khó, cần có cái ăn cái mặc, thì nó không được coi là quan trọng. Thế rồi khi có ăn có mặc, tôi lại có cái thói quen … quên nó mất rồi, nên nó lại tiếp tục bị quên, để tôi còn lo bon chen hơn nữa … tức là làm giàu, sống xa xỉ. Đến một ngày, tôi bắt đầu chán cái sự xa xỉ, vội sờ tay lên ngực mình, không còn thấy con tim thổn thức nữa. Nó đập như một cỗ máy.

Nhưng có lần tôi chợt để ý, khi nghe con gà trống ngoài vườn gáy rất nhiều, nó còn kêu … túc … túc … , nhặt lên lại thả xuống cái hòn sỏi, như mời gọi, rủ rê ai đó ? Hóa ra cu cậu vừa xổng chuồng, thoáng nghe tiếng cô gà mái nhà bên đang kêu … coóc … coóc … Một hôm khác, tôi lại nghe con chim vành khuyên trên cây sau nhà hót … chích … chích … rõ vui, nhìn ra thấy nó luồn cành bắt sâu chăm chỉ. Nó như thăm hỏi con chim bạn đang lặng lẽ, ngày qua ngày luẩn quẩn trong cái lồng đẹp đẽ tôi treo trên cành.

Tôi tự hỏi có phải con gà trống, con chim vành khuyên, chúng có thứ hơn mình, một con tim để mà rung động ? Thế thì so với chúng, tôi tuy là “con thú khôn nhất” nhưng “không tim” – không biết yêu.

Tôi quyết thử đi tìm cách hâm nóng cái con tim như cỗ máy của mình.

Lần thứ nhất: tôi tìm đọc sách, thấy sao nửa đầu thế kỷ trước trên văn đàn có thật là nhiều tác giả tài danh, tác phẩm hay thế. Mà không phải chỉ đơn thuần có truyện, còn bao nhiêu là sách nghiên cứu văn hóa, lịch sử. Lại còn thơ, nhạc, họa nữa cũng tuyệt diệu, gọi là để đời. Tôi tự gọi cái thời đó là thời “Phục hưng (hay Khai sáng chẳng hạn) của văn hóa Việt Nam”. Còn bây giờ thì sao nhỉ ? Đất nước ta độc lập, thống nhất rồi, đời sống lại còn có vẻ tấn tới nữa. Thế mà sao khác quá. Người ta ít đọc, đọc thì toàn sách “ngoại”, hát cũng phải nhạc ngoại mới hay. Khổ nhất là cái món thơ ngoại thì hơi bị khó “nhá”, trong khi thơ nội thì dù có đưa vào chương trình học mà cũng ít bài nào làm người ta thuộc nổi chứ nói gì tới ngâm vịnh cả đời như thơ thời phong kiến, thực dân. Lạ nhất là có hàng nghìn tiến sĩ, giáo sư, nhà nghiên cứu văn hóa … chứ đâu phải lác đác vài vị như ngày trước, thế mà hiếm thấy tác phẩm nào sánh được với người xưa. Hay là các vị viết chuyên phục vụ … xuất khẩu cả (như giày dép, quần áo chẳng hạn) ? Tôi thử lần hỏi bạn bè ở nước ngoài, thì tịnh không thấy có tác phẩm nào. Thế là cái con tim tôi nó lại lạnh đi. Chẳng oan cho nó, vì bao nhiêu những nhạc sĩ, văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ … , những người thường có con tim dễ “thổn thức” nhất mà còn vậy, huống hồ …

Lần thứ hai: tôi quyết định thử làm “sĩ” xem vì sao nên nông nỗi này. Đầu tiên là định làm văn, thi sĩ, nhưng hỏi các vị đàn anh thì họ cười chua chát, bảo rằng nếu tôi có cái tài viết thì vẫn chưa đủ, mà còn phải biết viết theo kiểu “lách” nữa. Ngoài những bí ẩn mà tôi chưa hiểu nổi, thì cái gọi là “lách” đó, theo họ, nào là phải tránh “đụng chạm”, tránh nói quá xấu, mà phải có “gương tốt điển hình”, kể cả văn vẻ, nhân vật cũng không nên gai góc quá vì nó không phải là “phổ biến”, nhất là phải đúng với mục tiêu phấn đấu của …. triệu năm nữa, vân ..vân ... thì cái anh xuất bản, phát hành mới chịu (hỏi tại sao, thì họ hay chỉ tay lên trên … trời). Kế đến là phải cẩn thận, rất dễ được các nhà gọi là phê bình “mổ xẻ” ra trò nếu như mình có cái gì đó hơi khang khác, quai quái. Họ sẵn sàng dùng dao búa (tức là dùng ngôn từ “đao to búa lớn”, chứ đừng nhầm là kiểu xã hội đen) để chỉ vẽ cho người viết, mà không cần hiểu rằng độc giả mới là người quyết định. Vì quả tình trên văn đàn cũng quá thiếu mục tiêu để mà phê bình, nên mình nhú lên một chút là các vị đang muốn luyện bút liền ca bài “Trước ngày hội … bắn” ngay. Chưa hết đâu, sẽ còn có cả các vị quản lý của các vị này nữa, mà vũ khí thì tối tân hơn. Tức là chả cần “phê” với “bình” gì sất, mà là a-lê “kiểm điểm !” … Ôi, chưa hết đâu, cứ gọi là “Người người lớp lớp“, nhưng mệt quá rồi, không kể nữa. Nên tốt nhất là cứ viết theo kiểu “nhạt” là an toàn nhất (thực tình thì đây cũng là cách sống khôn ngoan của con người luôn). Nhưng viết “nhạt” thì quá dễ rồi, đúng với cái con tim lạnh của tôi rồi, trong khi tôi đang cố hâm nóng nó cơ mà. Đang bực mình thì đúng lúc nghe có cái hội nghị về lý sự, phê phán gì đó trong cái lĩnh vực này, tôi cố tìm hiểu để, thôi thì biết đâu quán triệt được cái định hướng tư tưởng một cái là mình yên tâm, nổi hứng viết hay thì sao. Nhưng chả có cách nào biết nội dung cái hội nghị, cho rõ đường lối chủ trương, tôi đành (chơi sang tí) kiếm nhờ cái vi tính, bật lên lướt oép một cái. Thế mà chả thấy đâu cái trang oép của cái hội văn thơ, chỉ thấy toàn oép của mấy xã ở tận Đồng Nai (họ lại còn có cả phần tiếng Anh mới oách chứ). Tội nghiệp quá, thế mà cứ nghĩ hội này của nhà nước thì cũng phải tươm lắm chứ. Giá các vị biết mà ké cẩm tí chút vào cái oép của xã nào đó thì hay biết bao, bà con nông dân lại còn được nhờ nữa.

Tôi lại thử ngó qua mấy “sĩ” khác, như bên sân khấu, điện ảnh, âm nhạc … Hóa ra cũng có chung một mô-tip cả. Thí dụ trong âm nhạc, có vị cố mãi lấy cảm hứng mà vẫn chưa được ca khúc nào trứ danh, đành tạm chấp nhận sáng tác những bài tầm tầm cho thanh niên nó nhảy nhót, tán tỉnh nhau; nghĩ “thế cũng là đóng góp rồi, cho chúng nó đỡ lêu lổng”. Nhưng báo hại là lại bị “đặt vấn đề” ngay là loại nhạc “gây sốc”, ăn búa rìu luôn (có vị luật sư còn hiến kế là nên xem xét vấn đề vi phạm pháp luật nữa mới hãi chứ). Vội nhảy sang loại nhạc “ngợi ca”, cứ hô khẩu hiệu loạn cả lên là ổn, chả có ai phê là nhạc … “gây ngủ” gì cả, mà lại rất dễ đắt với các Đài phường (tức là cái loa truyền thanh công cộng kêu choe choé của các phường xã cưỡng bức người ta nghe). Nếu quý vị chưa phân biệt được hai cái trường phái này thì tôi xin dẫn chứng. Đại để bài hát mà có câu “anh tức em sao chảnh dễ sợ”, sẽ dễ bị liệt vào loại “gây sốc”, là phiền. Nhưng đổi tí thôi, thành “anh góp ý em sao lơ là phấn đấu” là ổn ngay (biết đâu, tích cóp lại là có ngày còn được danh hiệu ấy chứ), dù “em” chả bao giờ biết thế nào là “phấn đấu” cả, nghe chỉ có gây ngủ. Nhưng an toàn vô cùng. Và tôi chợt ngộ ra là phải luôn sáng tác nhạc bằng cái … đầu lạnh, thật người lớn vào, già khọm thì càng tốt, chứ cứ bằng con tim hơi bốc một tí, trẻ con một tí là gay.

Thế mà vẫn chưa hết, nhiều vị, nhất là diện cao niên và danh tiếng, còn phàn nàn quanh chuyện phong tặng danh hiệu. Nào là phải làm đơn xin xỏ, xét lên xét xuống, tranh cãi, mà muốn tránh cũng không được (vì “chơi” khác người là “mệt” ngay – như phần trên đã viết. Nhất là sẽ bị trơ khấc ra là kẻ “chậm tiến”, nhục lắm !). Thế là hết cả hứng sáng tác, vì buồn bực, giận dỗi, cả cảm giác bị xúc phạm; chẳng khác gì đang được bay bổng thì … hết xăng, rơi bẹt xuống đất, “chết” luôn … cái tâm hồn nghệ sĩ của mình. Vì các vị ấy thì ta đều biết là những người tuy có thể thiếu cái đầu lạnh, nhưng lại có con tim nóng và thường nhạy cảm, khái tính. Vẫn chưa hết. Lại còn chuyện có vị do có trái tim cũng hơi … âm ấm, làm người ta nhầm tưởng là đa tài, là thể nào cũng có cái đầu lạnh nữa, nên được đưa qua kiêm luôn làm “quản lý”-tức là chăn dắt cái giới “sĩ” của mình. Một số vị khác thì thấy tim mình hình như hơi bị … man mát đi, nên ứng biến rất khôn, nhảy ngay sang nhóm đầu lạnh (quản lý). Nảy sinh ra bao nhiêu là chuyện dở khóc dở cười.

Còn vô vàn chuyện nữa đã làm tôi nản chí, nghĩ nếu cứ quẩn quanh quanh quẩn mãi thế này thì chả biết đến bao giờ cái ngành “sĩ” của ta mới khấm khá lên được. Thế là tôi cũng hết muốn hâm nóng con tim, thề nhiều kiếp sau cũng quyết không theo cái nghiệp “sĩ”. Đang chán nản quá thì có ông bạn hí hửng khoe là dạo này hình như có tí “khởi sắc” trong cái làng văn, mấy cuốn sách hơi bị “nhạy cảm” mà vẫn lọt lưới được. Hỏi ra thì đúng vậy. Một cuốn của cái ông Trường viết về lịch sử nội chiến ở Việt Nam, nhà Nguyễn đánh ông Quang Trung. Đụng đến chữ “nội chiến”, rồi “hạ” ông Quang Trung, “nâng” nhà Nguyễn có ông Nguyễn Ánh bị các nhà sử-chính trị cách mạng gắn cho cái tội “cõng rắn cắn gà nhà” là quá liều rồi)[2]. Cuốn thứ hai của nhà ông Hoài, đem cái Cải cách ruộng đất long trời lở đất ra mà bôi bác (cũng quá là táo tợn đi)[3]. Cuốn thứ ba là của ông Ngọc, ai đời lại đi ca ngợi là đế quốc thực dân ngày xưa cũng đem lại cho ta nào là chữ quốc ngữ, rồi văn hóa văn minh phương Tây … (trái với “đường lối tuyên truyền” rồi)[4]. Nghiến ngấu hết ba cuốn sách, tôi phấn khởi tợn, sắm ngay bút mực định khởi công viết, ấy thế mà lại có tay khác nói ngang ngay. Hắn bảo “ối giời … toàn những tác phẩm viết ra từ đời tám hoánh, của mấy bố “điếc” không sợ … kiểm điểm“. Tôi giật mình, ngẫm mới thấy đúng thật. Ba nhà này, một bác thì đang yên vị tít tận phía bên kia trái đất, hai cụ ngồi ngay Thủ đô nhưng thuộc diện “xưa nay (cực) hiếm” rồi, gọi là U90. Bảo “điếc” không sợ, quả cấm có sai ! Thương cảm nữa là cụ Ngọc, trong lời phi lộ của cuốn sách lại phải những hai lần nhắc tới cái sống cái chết của mình. Vậy có lẽ là các vị quản lý cũng biết thương, còn tí cái đạo lý người Việt “kính lão đắc thọ”, nên tha không kiểm điểm (hay là sợ đang kiểm điểm giữa chừng thì ngộ nhỡ các cụ … ? Thôi chả dám nói). Chưa xong, tay bạn còn bảo “thử hỏi cái cô Tư nhà văn chân đất mà xem, bạn đọc cứ là cả triệu, thế mà vẫn được mấy bố tuyên huấn cạo rửa ra trò vì cái “tội” nói xấu chế độ … tỉnh nhà. Báo chí, Hội văn thơ phải lăn vào mà bảo vệ một ngôi sao hiếm hoi trên bầu trời văn nghệ “đêm … sau đổi mới”. Thoát cái “tội” viết thì lại đến cái ” tội” phát ngôn thiếu suy nghĩ. Thế là cũng phải cúi đầu xin lỗi mới yên để tìm đường viết theo kiểu lách[5].

Thế là tôi lại nản. Chả nhẽ giờ phải chơi kiểu như chị em mình ngày xưa chửa hoang, “đẻ con tinh thần” ra, nuôi dấm nuôi dúi trong nhà, rồi chờ đến lúc xắp … về cõi mới chạy giấy khai sinh, mới xin cho nó bước ra cửa, để cho nó tiễn đưa mình luôn à ?

Nhưng được cái là con tim tôi từ dạo đó nó khôn lên bao nhiêu. Nó biết … nghĩ mới quái chứ, không thua gì cái đầu. Nhờ nó, tôi đâm ra khôn kinh khủng, vì có thêm cả con tim không những không làm cái đầu “chệch hướng”, mà còn biết nghĩ thay cho cái đầu nữa, nó không bao giờ thèm thổn thức, rung động, kể cả lỗi lầm. Họa chăng khi cần thì nó cũng giả vờ thổn thức, … là tuyệt cú mèo. Cũng từ dạo đó, tôi chẳng thèm quan tâm đến bọn gà, chim nữa, còn nỗi đau niềm vui của thiên hạ thì càng xa lạ.

Không giống ai. Tôi tuy vẫn có con tim biết yêu, nhưng yêu một cách … lạnh lùng. Còn cái đầu thì lại lười đi, nó ít phải nghĩ hơn. Tôi như “con thú tật nguyền”.


(Tạp chí Nhà Quản lý – số 44/2007 – trên blog này là bản đầy đủ)


[1] “Đạo tên” truyện của Ngụy Ngữ

[2] Tạ Chí Đại Trường – Việt Nam thời Tây Sơn Lịch sử nội chiến 1771-1802

[3] Tô Hoài – Ba người khác

[4] Phan Ngọc – Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp

[5] Nguyễn Ngọc Tư – Cánh đồng bất tận

Posted in Bài của Ba Sàm, Văn hóa | 2 Comments »

Thảm họa sập cầu Cần Thơ: Những cái lý để từ chức

Posted by adminbasam trên 03/10/2007

Thảm họa sập cầu Cần Thơ

Những cái lý để từ chức

Trong cuộc sống hàng ngày, bất cứ nỗi đau nào của con người cũng rất cần được một sự xoa dịu an ủi nào đó. Có nhiều đối tượng cần có cử chỉ xoa dịu với những người có nỗi đau, nhưng tựu chung chỉ có hai loại: người trợ giúp và kẻ phải đền bù. “Trợ giúp” là từ phía những người vô can, tức là không mắc lỗi đối với nỗi đau đó. Còn “đền bù” là từ những kẻ liên can, mắc lỗi ít nhiều gây ra nỗi đau. Về hình thức, cũng có nhiều cách để trợ giúp và đền bù, nhưng chỉ dưới hai dạng: vật chấttinh thần. Trợ giúp hay đền bù về vật chất đều không khác nhau bao nhiêu (cả hình thức lẫn mức độ nhiều ít) gồm sức lực, tiền bạc, của cải, hay một phần cơ thể như hiến máu, tủy, nội tạng. Còn về tinh thần thì trợ giúp và đền bù lại khác hẳn nhau (cả hình thức lẫn mức độ). Trợ giúp là bằng tiếng nói, lời ca, vần thơ, câu chuyện … tường thuật, phân tích, an ủi, ca ngợi, động viên, và bằng hành động làm chứng trước công luận, tòa án. Còn đền bù là bằng lời nói hối lỗi, tự xỉ vả và hành động nhận lỗi từ xin chịu hình phạt bằng thôi công việc, từ chức, chịu kỷ luật,  bị trục xuất, nhận tội rồi đi tù, cho tới tự tử, hoặc chuộc lỗi là làm việc gì đó để hạn chế, bù đắp tổn thất. Một khi không tự giác đền bù thì sẽ không tránh khỏi búa rìu dư luận, cao hơn sẽ có biện pháp tổ chức, xử lý hành chính, hình sự, đây cũng chính là điểm khác nhau căn bản nữa giữa “trợ giúp” và “đền bù” – đó là ý thức tự giác.

Mỗi loại, mỗi dạng xoa dịu đều có những giá trị, ý nghĩa khác nhau.

Từ đó, ta thử nhìn lại thảm họa sập cầu Cần Thơ[1] vừa qua, gây nên nỗi đau ghê gớm không chỉ cho những gia đình có người thân bị nạn, mà cho tất cả những người dân Việt – trong, ngoài nước, cho cả ít nhất là những người không phải dân Việt nhưng có liên quan ít nhiều, như đang sống, làm việc ở Việt Nam, yêu quý người dân Việt Nam v.v.. Hai dạng xoa dịu – vật chất, tinh thần – chúng ta đều đã rõ trong mấy ngày qua, nhiều tỉ đồng, bao nhiêu thời gian, công sức và máu, những bài báo, thư điện, đoàn lãnh đạo, quần chúng thăm hỏi. Trong hai dạng đó có đủ hai loại – trợ giúp và đền bù ? Quả tình chúng ta mới chỉ thấy những người trợ giúp, là tất cả những con người, cơ quan, tổ chức “vô can” trong vụ này. Còn loại xoa dịu bằng đền bù từ những người “liên can” thì sao ? Đó chính là điều đáng bàn ở đây.

Lần đầu tiên sau 3 ngày cầu sập, ngày 29-9-2007 đã có cuộc họp báo[2]của chủ đầu tư-Bộ Giao Thông Vận tải và nhà thầu chính-liên danh TKN. Đây thực chất là những bên “liên can” cần phải có những cử chỉ đền bù để xoa dịu nỗi đau cho cả trăm triệu con người. Và họ đã làm gì ? Chủ tịch tập đoàn Taisei và những người đại diện cho các nhà thầu Nhật Bản đã gửi lời xin lỗi đến toàn thể nhân dân Việt Nam và hứa “chăm sóc tốt gia đình những người bị nạn và những người bị thương”. Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng cũng gửi lời “xin lỗi tới toàn thể nhân dân, người bị nạn và gia đình”. Đó là một phần của sự đền bù bằng tinh thần. Còn cao hơn, như nói ở trên, bằng xin thôi công việc, từ chức, đi tù … thì chưa có. Bộ trưởng Dũng khi được hỏi về trách nhiệm thì ông nói “nhà thầu chính sẽ chịu trách nhiệm chính, chủ đầu tư là Bộ GTVT cũng có trách nhiệm về mặt quản lý nhà nước”; thậm chí ông còn phủ nhận là ngày 27-9 ông đã nói “trách nhiệm chính thuộc chủ đầu tư dự án”. Về khả năng xin từ chức, ông bảo “phải đợi đến sau khi điều tra, xác định nguyên nhân từ đâu và trách nhiệm của bộ trưởng đến đâu, từ đó chiếu theo quy định của pháp luật tôi sẽ xem xét đến việc có từ chức hay không”.

Đến đây nổi lên một điều quan trọng là trong hai đối tượng phải chịu trách nhiệm chính trong vụ sập cầu này, một – nhà thầu Nhật Bản – gần như sẽ phải chờ tới phán quyết của cơ quan pháp luật, còn một – chủ đầu tư, Bộ GTVT – lại không hẳn phải như vậy. Ông bộ trưởng Dũng nói việc ông có xem xét tới chuyện từ chức hay không còn phải chờ kết quả điều tra, nhưng ông lại quên chính điều ông nói ngay trước đó là Bộ GTVT của ông “cũng có trách nhiệm về mặt quản lý nhà nước”. Mặc dù ông đã cố làm nhẹ vấn đề bằng những từ ngữ dễ gây cho người đọc phẫn nộ về thái độ lẩn tránh trách nhiệm, nhưng ít ra cũng gợi nên cho bất cứ ai am hiểu có thể nhận ra rằng việc đi tù thì phải đợi tới kết quả điều tra, nhưng việc làm kiểm điểm, xin từ chức, chịu kỷ luật đảng v.v.. thì lại không cần phải đến vậy, đó chính là cái trách nhiệm về quản lý nhà nước mà ông nói. Cũng như trong câu hỏi của nhà báo, rằng ở các nước khác, khi xảy ra sự cố nghiêm trọng như vậy, bộ trưởng thường từ chức, họ đâu có phải như ông – đòi đợi có kết quả điều tra ? Ông cũng như họ, đều có cái trách nhiệm về quản lý nhà nước, một khi xảy ra sự cố nghiêm trọng thuộc phần hành mình quản lý, lẽ đương nhiên mình phải chịu trách nhiệm tức thì.

Có điều, ở đây ta cũng thử đi tìm sự cảm thông nhất định với ông Dũng, đó là từ việc cất nhắc cho tới từ chức của ông còn phụ thuộc vào “tổ chức”, vào sự sắp xếp của đảng, ông không dễ “tự ý” mà xin được. Vậy thì ông có thể “xin” được tự kiểm điểm, nhận hình thức kỷ luật nào đó trong trách nhiệm người cán bộ, đảng viên hay không ? Ông có rất nhiều “vũ khí” cho mình, ví như tinh thần “phê, tự phê” của người đảng viên chẳng hạn. Nhất là nếu như ông còn là bí thư hay phó bí thư Đảng đoàn, Ban cán sự cơ quan Bộ nữa.

Một lần nữa cảm thông với ông Dũng khi ông nói cần “chiếu theo quy định của pháp luật” để xét việc ông có xin từ chức hay không, ta thử lần tìm tới văn bản pháp luật liên quan. Đó là Pháp lệnh công chức 1998 (được sửa đổi năm 2000 và 2003)[3], thì chỉ có 6 hình thức kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc – Điều 39) chứ hoàn toàn không có hình thức “xin từ chức”. Điều này quá dễ hiểu vì đã là “xin” có nghĩa phải là “tự”, là tự giác. Liệu ông bộ trưởng GTVT có biết điều này ? Hay “pháp luật” mà ông nói ở đây là Luật Xây dựng, Luật Hình sự ? Dĩ nhiên hai bộ luật này (cùng kết quả điều tra) chỉ xác định trách nhiệm cụ thể, thường là gián tiếp, của ông trong thảm họa sập cầu Cần Thơ chứ không quy định việc ông có phải tự “xem xét đến việc có từ chức hay không”.

Thế nên thật rõ ràng rằng việc “xin từ chức” chính là một giải pháp nằm ngoài quy định của pháp luật, tuy nhiên nó lại gắn liền, nằm ngay sau những quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước, của công tác tổ chức cán bộ, thái độ gương mẫu của người lãnh đạo, của phẩm chất người đảng viên, và nằm trong cái đạo lý của một con người bình thường, cao hơn thì ở cái tiết tháo của một “nhà quan” khi đối mặt với những đau đớn tột cùng của muôn người, không thể không tự nhận cho mình một hình phạt để tựa như sự đền bù cho những tổn thất mà mình phải gánh phần trách nhiệm chính. Ông có thể tham gia hiến máu cho những người bị thương, có thể nghẹn ngào khi đọc lời tạ lỗi, nhưng với cương vị một bộ trưởng “liên can”, từng đó thôi chưa đủ, chưa xứng, thậm chí dễ gây nghi ngại thành phản tác dụng cho đòi hỏi phải xoa dịu nỗi đau.

Có một cái lý đời thường nữa, là nếu người lãnh đạo thực sự nghiêm minh, có năng lực, ý thức trách nhiệm thì đương nhiên bộ máy của mình sẽ ít khả năng gây ra tổn thất lớn, còn một khi thực tế ngược lại (để xảy ra sự cố vừa qua) thì có nghĩa ông ta đã không đủ tiêu chuẩn cho vị trí của mình. Vẫn biết rằng ông rất dễ lại đổ cho “cơ chế”, thế nhưng cái “tập quán” này cũng không thể để tiếp tục “sống” dai dẳng; đơn giản là cũng nhờ “cơ chế” nên mới có bao nhiêu cái ơn mưa móc, để những con người không đủ tiêu chuẩn vẫn được cất nhắc lên những vị trí trọng yếu, vậy thì khi gây ra tổn thất, không thể quay ra đổ tại cho nó được. Càng cần thiết phải nghiêm khắc hơn khi mà ngành GTVT đã có quá nhiều những bê bối lớn nhất trong lịch sử nước nhà, từ vụ lật tàu E1[4] cho tới vụ PMU18[5] nhưng không hề có sự nhận lãnh trách nhiệm thỏa đáng của người lãnh đạo đầu ngành, chỉ thấy họ được “hạ cánh an toàn”. Thêm nữa, tổn thất trong vụ sập cầu này cũng quá lớn về tiền của, nhân mạng, lòng tin vào chính quyền, lợi ích kinh tế của đất nước, đời sống dân sinh của hàng triệu bà con nông dân đồng bằng sông Cửu Long, … đâu dễ tiếp tục lối tránh né đó mãi ?

Tới đây, liệu có cần thêm một câu hỏi rằng có phải đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn đang phát động, chắc phảibằng hành động chứ không phải lời nói xuông (?), một đợt “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” kéo dài trong nhiều năm ? Và đây rõ là một thử thách khốc liệt cho chính những người lãnh đạo lãnh trọng trách phải đi đầu, làm gương trước dân trong đợt học tập này.

Đó là những cái lý giúp cho ông bộ trưởng GTVT không phải băn khoăn nhiều đến việc xin từ chức.

(Tạp chí Nhà Quản lý – số 52)

[1] VietnamNet 26/9/2007: VideoClip Vụ sập cầu ở Cần Thơ

[2] Báo Tuổi Trẻ, ngày 30-9-2007, Mọi việc hoàn hảo, trừ … thảm hoạ (!)

[3] Trang thông tin điện tử Văn phòng Quốc hội: http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/index.html

Posted in Bài của Ba Sàm, Chính trị, Gia đình/Xã hội, Kinh tế Việt Nam, Đảng/Nhà nước | Leave a Comment »

Giả Dối là cha Gian Dối

Posted by adminbasam trên 02/10/2007

Giả Dối là cha Gian Dối

– Út Măng ơi, ăn mừng đi, quả này thắng lớn rồi …

– Oáo, sếp Phó Bí tôi hồi này còn chơi lô-tô Kiến thiết Thủ đô nữa hay sao đây ?

– … Cậu biết không, các thầy vừa thông báo quyết định đặc cách cho tớ …

– Thành “Ông Trạng” luôn khỏi học ?

– Không, có mà điên ….

– Được làm … thầy luôn ?

– Cậu cứ lăng nhăng. Tức là giờ tớ chả phải thi thố, “vượt rào” vượt cạn môn nào hết. Một phát luận án tốt nghiệp là xong !

– Dóc tổ … à, xin lỗi … là sếp nói chơi hay thiệt dzậy ?

– Tớ có nói dối … mà làm gì … Nhưng mà có điều làm tớ hơi băn khoăn …

– Băn khoăn là không “quay” mà phải chuyển qua “cọp” luận án chớ gì ?

– Không phải, mà là cái tên của nó cơ, là “CHỐNG-GIAN-DỐI-TRONG-THI-CỬ”.

– ???

– Làm sao mà mắt trợn ngược thế ? Cậu cho là khó quá à ? Không biết là tớ đang bán tín bán nghi đây này, là có phải các bố muốn “chơi” mình, thấy mình “dính” mấy quả thi mấy môn trước nên giờ …

– Sếp lại đa nghi rồi. Theo thằng em thì đây là chiến thuật gọi là”dĩ độc trị độc” và “nhất cử lưỡng tiện” cực hay. Tức là các thầy biết sếp quá siêu cái dzụ … “ảo thuật” trong thi cử, giờ vừa khó đối phó với sếp, lại vừa muốn “tìm kiếm tài năng”… trẻ để chống gian dối …, nên mới quyết dzậy.

– Cậu nói nghe có lý … Thôi, giờ mình bàn thẳng luôn vào nội dung nhá. Là theo cậu, sẽ viết gì đây, chẳng nhẽ mình lại … không giữ “bản quyền” các “chiêu” của mình à ?

– … Đúng là khó … À, mà được rồi … em có cách cực hay, đi vào bản chất vấn đề mà lại không lộ “chiêu” …

– Được lắm, nói đi !

– Giờ bắt đầu, mình phải xác định xem căn nguyên làm sao mà sinh ra cái dzụ gian dối này. Nên em hỏi sếp nghen. Sếp có thích đi học không ?

– Có mà điên, vì sự nghiệp … là phải thăng tiến thì đi chứ. Tần này tuổi rồi, lại chả có năng khiếu khỉ gió gì …

“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường,

Ham rong chơi qua mỗi lần trốn học” …

– Đó … vấn đề là ở đó đó … Dzậy nếu sếp không đi học thì sao ?

– Cậu hỏi ngớ ngẩn quá. Thứ nhất là cái bằng này là bắt buộc này, nếu không có nó là … nghỉ khỏe. Thứ hai, cái học vị kia mà không có, thì … mình như cái thằng “vô học”, chúng nó có cả. Lúc đưa lên “bàn cân”, người ta cân nhắc … là mình thua. Ai mà đánh giá rõ được năng lực, tư cách … với lại nói chung cái khoản này, nếu xét kỹ thì mình cũng … hơi bị gay.

– Dzậy là xong, đó là một phần của cái Luận án này, nó được đổi tên là “DIỆT-GIẢ-DỐI-ĐỂ-CHỐNG-GIAN-DỐI” …

– Nghe lạ quá. Giả dối cái gì ?

– Tức là cái chuyện sếp đi học chớ cái gì nữa, đâu phải do nhu cầu nâng cao kiến thức, rồi chuyện đánh giá cán bộ qua bằng cấp, cũng dễ bị “dỏm” theo cái bằng của sếp luôn. Giờ tiếp nghen. Thế em hỏi sếp là nếu sếp, sếp A, sếp B … nhiều sếp bự đi học, mà thi đều bị rớt thì có ảnh hưởng gì không ?

– Ảnh hưởng quá đi chứ. Nhà trường sẽ bị đánh giá chất lượng dạy này, rồi … người ta cười cho … toàn thằng tai to mặt nhớn mà … dốt, lười.

– Quá chuẫn đi. Nghĩa là các thầy cũng sẽ phải tìm cách dạy, thi cử kiểu du di cho các cha đậu “chăm phần chăm” là thầy trò cùng dzui cả. Dzậy là được ba mục trong luận án rồi. Tiếp … Còn sắp nhỏ ở nhà, tụi nó có thắc mắc chuyện sếp đi học không ?

– … À, chúng nó cứ trêu tớ. Thằng nhớn nó còn bảo “bố cứ yên tâm đi, khi nào thi, con chỉ cần đeo râu mang kính vào, con vào con thi hộ bố là … ngon hết”. Bọn trẻ giờ khôn đáo để, gì cũng biết hết !

– Đó, chúng nó “khôn” là tại sếp, tại người lớn hết … Tức là nội cái dzụ “giả đi học” của sếp cũng thành như “vẽ đường hươu chạy” cho tụi trẻ, nó sẽ coi gian dối trong thi cử là … chân-lý-sáng-ngời. Rồi nó cũng phải “phấn đấu” học … “quay” sao cho giỏi, cho hơn cha thì sau này nhà mới có phước chớ. Sơ sơ vài mục dzậy là cũng thấy được tình trạng giả dối tràn lan trong xã hội nó là căn nguyên của chuyện gian dối thi cử, học hành … Tức là mấy thằng Giả Dối nó là cha cái tụi Gian Dối đó. Mình muốn chống Gian Dối, thì trước tiên, mình phải phăn cho ra hết mấy thằng cha … mắc dịch của nó đã. Diệt được thằng cha rồi thì làm sao có được thằng con. Khỏi chống với đỡ gì luôn, khỏe re à !…

– Ấy, hượm đã. Thế còn mẹ nó, mẹ mấy thằng Gian Dối ấy ? Mình mà diệt mẹ nó đi thì có phải tốt hơn không ?

– Á, ý hay tuyệt ! Chứng tỏ là sếp cũng … đâu đến nỗi. Đây chính là phần hai của luận văn. Nhưng hơi bị kẹt đây …

– Kẹt gì ?

– Kẹt vì mẹ tụi nó … là … chính là sếp đó, chớ còn ai …

– Cái gì ???

– … Tức là mấy thằng Giả Dối ấy, nó … “tằng tịu” với sếp, sếp cũng “thương” lại nó luôn, rồi sếp mới mang “bầu”, mới “đẻ” ra mấy thằng Gian Dối … Ghê chưa ?

– Trời ơi ! Nghe khủng khiếp quá ! Thế chả nhẽ …

– … “chả nhẽ” sếp tự diệt sếp chớ gì ? Rồi sếp cũng tội nghiệp cho “người tình” của sếp nữa phải hông ? Dzụ này thì em chịu … xin để sếp quán triệt cái “phê, tự phê” coi …

– Hượm đã ! Út Măng, hượm đã … Thế … thế còn ông nội nó, cụ cố nội nó, cả lò nhà nó … của mấy thằng Gian Dối í … còn sống cả không ?

– Trời ơi Trờ … ời … ! … Bộ sếp muốn “tiêu” luôn hay sao mà hỏi dzậy ??

Ba Sàm

Posted in Bài của Ba Sàm, Giáo dục, Tiểu phẩm Tếu | Leave a Comment »

 
%d người thích bài này: