3406. Biên giới phía Bắc 1979: 30 ngày không thể nào quên (phần 1 và 2)
Posted by adminbasam trên 16/02/2015
Trường Sơn
16-02-2015
Lời Tòa soạn:
Đã 36 năm trôi qua nhưng ký ức của hàng triệu người dân Việt Nam về một trang sử hào hùng của Tổ quốc, ký ức về sự hy sinh của hàng ngàn đồng bào, chiến sỹ đã ngã xuống để bảo vệ từng tấc đất biên cương khởi đầu từ ngày 17/2/1979 … vẫn chưa hề phai mờ. Nhắc lại cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 với 30 ngày khốc liệt để hậu thế chúng ta thêm hiểu hơn về lịch sử của đất nước, để tôn vinh những người con ưu tú đã ngã xuống giống như chúng ta vẫn thường tôn vinh những anh hùng, liệt sỹ trong suốt thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc.
Với mong muốn giúp cho độc giả có một cái nhìn khái quát nhất nhưng toàn cảnh nhất về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc 1979, Infonet xin giới thiệu loạt bài viết được chắt lọc, tham khảo và tổng hợp từ các tài liệu, sách báo đã từng được xuất bản như:
Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân Quân khu 1 và 2;
Lịch sử các quân đoàn 1, 2, Binh đoàn Pắc Bó;
Lịch sử các sư đoàn 3, 316, 337, 338, 346, 395;
Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Lạng Sơn, thị xã Cao Bằng; Lịch sử Bộ đội Biên phòng
Lịch sử Dẫn đường Không quân
Lịch sử Pháo binh QĐNDVN
Báo Quân đội Nhân dân tháng 2 và 3-1979
China’s Aggression: How and Why It Failed – Nguyen Huu Thuy
Chinese Military Strategy In The Third Indochina War – Edward C. O’Dowd
China’s War With Vietnam 1979 – King C. Chen
Bài 1: Tương quan và Thế trận
Ngoài Quân đoàn 41, 42, 55 của quân khu Quảng Châu và 11, 14 của quân khu Côn Minh có sẵn ở phía nam, họ còn điều động các đơn vị dự bị gồm Quân đoàn 20, 43, 54 của quân khu Vũ Hán ở phía đông và 13, 50 thuộc quân khu Thành Đô ở phía bắc. Binh lực tham chiến trực tiếp lên tới 28 sư đoàn chủ lực cùng 2 sư đoàn và nhiều trung đoàn, tiểu đoàn địa phương, biên phòng và dân binh.
Đạo quân này được sự chi viện của 7 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 sư đoàn và 39 trung đoàn pháo binh, 2 sư đoàn phòng không và nhiều trung đoàn bảo đảm (công binh, thông tin, vận tải…). Tổng cộng, Trung Quốc huy động vào cuộc chiến trên bộ khoảng 600.000 quân; 550 xe tăng thiết giáp loại Type-62, Type-59, Type-63; 2.000 khẩu pháo mặt đất và súng cối từ 76,2mm đến 152mm, súng cối 160mm và dàn phóng hỏa tiễn 107mm đến 130mm.
Bên cạnh đó, không quân và hải quân Trung Quốc cũng triển khai 948 máy bay chiến đấu trên 15 căn cứ ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam gồm 706 tiêm kích J-5, J-6, J-7; 120 tiêm kích bom J-6, Q-5 và 122 máy bay ném bom H-5, H-6 sẵn sàng chi viện khi có yêu cầu.
Hạm đội Nam Hải với 300 tàu chiến cũng được đặt trong tình trạng báo động cao, đồng thời tăng cường một biên đội tàu tên lửa xuống khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép.
Lính Trung Quốc cùng sự yểm trợ của xe tăng tấn công vào lãnh thổ Việt Nam. (Ảnh tư liệu)
Cuộc xâm lược được Bắc Kinh tiến hành trên hai hướng.
Cánh đông do Thượng tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou), Tư lệnh Đại quân khu Quảng Châu chỉ huy có 18 sư đoàn chủ lực, 1 sư đoàn địa phương, 3 trung đoàn biên phòng cùng các đơn vị binh chủng và dân binh.
Hỗ trợ cho hướng này là 6 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 sư đoàn pháo binh và 1 sư đoàn phòng không. Cánh quân này đảm nhiệm tiến công ba tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh của Việt Nam, cụ thể:
– Hướng Cao Bằng có 10 sư đoàn bộ binh: 58 (Quân đoàn 20), 121, 122, 123 (Quân đoàn 41), 124, 125, 126 (Quân đoàn 42), 129 (Quân đoàn 43), 150 (Quân đoàn 50), 160, 162 (Quân đoàn 54).
– Hướng Lạng Sơn có 8 sư đoàn bộ binh: 127, 128 (Quân đoàn 43), 148 (Quân đoàn 50), 160, 161 (Quân đoàn 54), 163, 164, 165 (Quân đoàn 55).
– Hướng Quảng Ninh có sư đoàn địa phương quân Quảng Tây.
Cánh tây do Thượng tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), Tư lệnh Đại quân khu Côn Minh chỉ huy có 10 sư đoàn chủ lực, 1 sư đoàn địa phương, 4 trung đoàn biên phòng cùng các đơn vị binh chủng và dân binh. Hỗ trợ cho hướng này là 1 trung đoàn xe tăng, 1 sư đoàn pháo binh và 1 sư đoàn phòng không. Lực lượng này đảm nhiệm tiến công ba tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai), Lai Châu của Việt Nam, cụ thể:
– Hướng Hà Tuyên có Trung đoàn 12 biên phòng cùng lực lượng dân binh.
– Hướng Hoàng Liên Sơn có 8 sư đoàn bộ binh: 32 (Quân đoàn 11), 37, 38, 39 (Quân đoàn 13), 40, 41, 42 (Quân đoàn 14), 149 (Quân đoàn 50).
– Hướng Lai Châu có Sư đoàn 31 Quân đoàn 11 và sư đoàn địa phương quân Vân Nam.
Đương đầu với đạo quân xâm lược hùng hậu của Trung Quốc là các lực lượng vũ trang tại chỗ cùng nhân dân 6 tỉnh biên giới Việt Nam.
Quân khu 1 do Thiếu tướng Đàm Quang Trung làm tư lệnh kiêm chính ủy có 4 sư đoàn và 1 lữ đoàn chủ lực, 7 trung đoàn và 21 tiểu đoàn địa phương. Bố trí trên tuyến biên giới Đông Bắc như sau:
Bộ đội chủ lực:
– Sư đoàn bộ binh 3 (đoàn Sao Vàng) gồm Trung đoàn bộ binh 2 (đoàn An Lão), 12 (đoàn Tây Sơn), 141 (đoàn Hoài Ân) và Trung đoàn pháo binh 68; bố trí tại khu vực Đồng Đăng, Văn Lãng, Cao Lộc và thị xã Lạng Sơn của tỉnh Lạng Sơn.
– Sư đoàn bộ binh 338 gồm Trung đoàn bộ binh 460, 461, 462 và Trung đoàn pháo binh 208; bố trí tại khu vực nam Lộc Bình, Đình Lập của tỉnh Lạng Sơn và An Châu của tỉnh Quảng Ninh.
– Sư đoàn bộ binh 346 (đoàn Lam Sơn) gồm Trung đoàn bộ binh 246 (đoàn Tân Trào), 677, 851 và Trung đoàn pháo binh 188; bố trí tại khu vực Trà Lĩnh, Hà Quảng, Hòa An của tỉnh Cao Bằng.
– Sư đoàn bộ binh 325B (về sau đổi thành 395) gồm Trung đoàn bộ binh 8, 41, 288 và Trung đoàn pháo binh 189; bố trí tại khu vực Tiên Yên, Bình Liêu của tỉnh Quảng Ninh.
– Lữ đoàn bộ binh 242 đảm nhiệm phòng thủ khu vực bờ biển và tuyến đảo Quảng Ninh.
Phần lớn các đơn vị binh chủng trực thuộc Quân khu 1 như Trung đoàn pháo binh 166, Trung đoàn phòng không 272, Trung đoàn xe tăng 407, Trung đoàn công binh 522 cùng tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm thuộc Lữ đoàn pháo binh 675 (đoàn Anh Dũng) tăng cường được tập trung chi viện cho hướng Lạng Sơn.
Bộ đội địa phương:
– Hướng Cao Bằng có Trung đoàn bộ binh 567 của BCHQS tỉnh ở khu vực Quảng Hòa; 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn cao xạ, 7 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Bảo Lạc, Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Quảng Hòa, Hòa An, Ba Bể và 3 đại đội của Thông Nông, Thạch An, thị xã Cao Bằng.
– Hướng Lạng Sơn có 2 trung đoàn bộ binh trực thuộc BCHQS tỉnh là Trung đoàn 123 ở khu vực Lộc Bình và Trung đoàn 199 ở khu vực Tràng Định; 7 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình, Đình Lập, Văn Quan và thị xã Lạng Sơn.
– Hướng Quảng Ninh có 2 trung đoàn bộ binh trực thuộc BCHQS tỉnh là Trung đoàn 43 ở khu vực Móng Cái và Trung đoàn 244 ở khu vực Quảng Hà; 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn cao xạ và 5 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Bình Liêu, Quảng Hà, Móng Cái, Hà Cối, Cẩm Phả.
Lực lượng công an vũ trang có Trung đoàn công an vũ trang cơ động 12 (đoàn Thanh Xuyên) bố trí ở Lạng Sơn, 4 tiểu khu (tương đương tiểu đoàn) ở Cao Bằng và Quảng Ninh, một số đại đội cơ động và 24 đồn biên phòng.
Lực lượng tuyến sau của Quân khu 1 có Sư đoàn 431 và Trung đoàn 852 là khung huấn luyện tân binh cùng 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn bộ binh của các tỉnh Hà Bắc, Bắc Thái.
Quân khu 2 do Thiếu tướng Vũ Lập làm tư lệnh kiêm chính ủy có 3 sư đoàn chủ lực, 8 trung đoàn và 24 tiểu đoàn địa phương. Bố trí trên tuyến biên giới Tây Bắc như sau:
Bộ đội chủ lực:
– Sư đoàn bộ binh 316 (đoàn Bông Lau) gồm Trung đoàn bộ binh 98, 148 (đoàn Sơn La), 174 (đoàn Cao Bắc Lạng) và Trung đoàn pháo binh 187; bố trí tại khu vực Bình Lư, Phong Thổ của tỉnh Lai Châu.
– Sư đoàn bộ binh 345 gồm Trung đoàn bộ binh 118, 121, 124 và Trung đoàn pháo binh 190; bố trí tại khu vực Bảo Thắng của tỉnh Hoàng Liên Sơn.
– Sư đoàn bộ binh 326 gồm Trung đoàn bộ binh 19, 46, 541 và Trung đoàn pháo binh 200; bố trí tại khu vực Tuần Giáo, Điện Biên của tỉnh Lai Châu.
Phần lớn các đơn vị binh chủng trực thuộc Quân khu 2 như Trung đoàn pháo binh 168, Trung đoàn phòng không 297, Trung đoàn công binh 89 được tập trung chi viện cho hướng Hoàng Liên Sơn.
Bộ đội địa phương
– Hướng Hà Tuyên có Trung đoàn bộ binh 122, 191 của BCHQS tỉnh, 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Xìn Mần, Na Hang.
– Hướng Hoàng Liên Sơn có 2 trung đoàn bộ binh của BCHQS tỉnh là Trung đoàn 192 ở khu vực thị xã Lào Cai và Trung đoàn 254 ở khu vực Bảo Thắng; 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Mường Khương, Bát Xát, Bảo Thắng, thị xã Lào Cai, Yên Bái.
– Hướng Lai Châu có Trung đoàn 193 và 741 (ở khu vực Sìn Hồ) của BCHQS tỉnh, 1 tiểu đoàn pháo binh và 5 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Phong Thổ, Mường Tè, Mường Lay, Điện Biên, Sìn Hồ.
Lực lượng công an vũ trang có Trung đoàn công an vũ trang cơ động 16 ở Hoàng Liên Sơn, một số đại đội cơ động và 39 đồn biên phòng.
Lực lượng tuyến sau của Quân khu 2 có Sư đoàn 411 là khung huấn luyện tân binh cùng 2 trung đoàn và 8 tiểu đoàn bộ binh của các tỉnh Sơn La, Vĩnh Phú.
Đóng góp vào thế trận phòng thủ chung trên địa bàn 6 tỉnh biên giới còn có các đơn vị binh chủng (pháo cối, ĐKZ, cao xạ, trinh sát, công binh, thông tin, quân y, vận tải) của các BCHQS tỉnh và huyện, thị; lực lượng công an, cảnh sát và đông đảo dân quân, tự vệ ở khắp các làng bản, huyện thị, nông lâm trường và nhà máy xí nghiệp… được tổ chức ở quy mô từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn (ở mỗi quân khu có khoảng 500.000 dân quân tự vệ).
Từ tháng 1-1979, đối phương bắt đầu ráo riết đẩy mạnh các hoạt động trinh sát vũ trang dọc biên giới. Chỉ trong tháng 1 và tuần đầu tiên của tháng 2-1979, phía Trung Quốc đã gây ra 230 vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ Việt Nam, từ gây hấn, khiêu khích cho tới phục kích, giết hại, bắt cóc người đưa về Trung Quốc, tập kích, bắn phá các đồn biên phòng và trạm gác của công an, dân quân Việt Nam cũng như các cơ sở sản xuất của nhân dân.
Trong những vụ xâm phạm này, lính Trung Quốc đã giết hại trên 40 dân thường và chiến sĩ, làm bị thương hàng trăm người và bắt đi hơn 20 người. Đặc biệt có những vụ diễn ra sâu trong lãnh thổ Việt Nam tới 5km như vụ tập kích trạm gác của dân quân ở Bản Lầu (Hoàng Liên Sơn) ngày 14-1, có những vụ quy mô lớn như huy động 1 tiểu đoàn chính quy tấn công bình độ 400 ở Thanh Lòa, Cao Lộc (Lạng Sơn) ngày 10-2, có những vụ pháo kích lớn đã sử dụng cả tới pháo 85mm, súng cối, ĐKZ… Cùng với đó là hàng chục lần tốp máy bay và tàu thuyền xâm phạm vùng trời, vùng biển của Việt Nam.
Ngày 1-1-1979, theo chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương, các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Ngày 15-2, ngoại trừ các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến 1 được lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Nhiều đơn vị tổ chức cho phần lớn bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, di chuyển, điều chỉnh lại đội hình bố trí…
Tuy nhiên đến rạng sáng ngày 17-2-1979, pháo binh Trung Quốc đã khai hỏa bắn phá các mục tiêu trong lãnh thổ Việt Nam, mở màn cuộc xâm lược. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của quân và dân Việt Nam chính thức bắt đầu.
—-
17-02-2015
Bài 2: Diễn biến trận chiến trên các mặt trận
Trên mặt trận Lai Châu
Trên mặt trận Lai Châu, quân Trung Quốc chia thành hai mũi tiến công. Mũi chủ công đảm nhiệm tiến công Ma Ly Pho, Pa Nậm Cúm vào ngã ba Phong Thổ. Mũi thứ hai tiến công từ Huổi Luông, Pa Tần (Sìn Hồ). Ngoài ra địch còn sử dụng một lực lượng đánh chiếm khu vực bắc Dào San và Mù San (Phong Thổ).
Từ ngày 17-2 địch bắt đầu thực hành tấn công vào các điểm cao 1562 Mù San, 1112 Ma Ly Pho, Hoàng Thểm, Khao Chải, điểm cao 262… cùng một số vị trí khác do Trung đoàn 741 và 193, Tiểu đoàn 2 Sìn Hồ, đồn biên phòng Ma Lù Thàng, Si Lờ Lầu, A Pa Chải… bảo vệ. Đến ngày 19-2 đối phương chiếm các vị trí này và tiến xuống ngã ba Nậm Cáy, Mô Sy Câu, ngã ba Pa So và bắc Pa Tần. Lực lượng ta chặn đánh quyết liệt nhưng đến 24-2 địch làm chủ các mục tiêu trên và tiếp tục tăng cường lực lượng để đột phá tiếp.
Trước tình hình này, Bộ tư lệnh Quân khu 2 điều động lực lượng của Trung đoàn 98 Sư đoàn 316 và Trung đoàn 46 Sư đoàn 326 tăng cường cho khu vực phòng thủ Pa Tần và tổ chức phản công đánh chiếm lại một số vị trí. Tại đây chiến sự diễn ra ác liệt, hai bên giành giật từng điểm chốt như ở cao điểm 805, 551 hay 553 bắc Pa Tần. Sau nhiều đợt tiến công liên tục, ngày 3-3, quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Phong Thổ, Pa Tần và đến 5-3 chiếm được Dào San. Đến 10-3 trên mặt trận Lai Châu địch rút về bên kia biên giới.
Kết thúc đợt chiến đấu này đã có 11 cá nhân và 6 đơn vị chiến đấu trên hướng Lai Châu được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Trên mặt trận Quảng Ninh
Trên hướng Quảng Ninh, ngày 17-2-1979, quân Trung Quốc huy động một bộ phận địa phương quân, biên phòng, dân binh của tỉnh Quảng Tây tiến đánh một số trận địa phòng ngự do các đơn vị thuộc Trung đoàn 41 và 288 Sư đoàn 325B, Trung đoàn 43 và 244 bộ đội địa phương, Đồn biên phòng Pò Hèn… đảm nhiệm ở khu vực Hoành Mô, Đồng Văn (Bình Liêu), Thán Phún (Hải Ninh) và pháo kích vào thị xã Móng Cái. Trong các trận tiến công này địch chiếm được bình độ 300, đồn Pò Hèn và điểm cao 1050 Cao Ba Lanh nhưng đến chiều 19-2 ta phản kích khôi phục lại trận địa.
Ngày 26-2, địch mở đợt tiến công mới nhằm vào khu vực chốt của Trung đoàn 288 Sư đoàn 325B ở điểm cao 1050, 585, đồi Cây Xanh, đồi Không Tên… và ngày 28-2 đánh vào trận địa Trung đoàn 41 Sư đoàn 325B ở điểm cao 500, 600, 781, đồi Khẩu Hiệu… Các đợt tiến công này đều bị đánh bại.
Ngày 28-2, Tư lệnh Quân khu 1 quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận Quảng Ninh do Thiếu tướng Nguyễn Sùng Lãm mới được cử về làm Phó tư lệnh quân khu đứng đầu.
Ngày 1-3, quân Trung Quốc đồng loạt tiến công vào các điểm tựa của Trung đoàn 41 và 288 Sư đoàn 325B, Tiểu đoàn 130 Bình Liêu, Đồn biên phòng Hoành Mô, Đồng Văn, Móng Cái và Đại đội 6 công an vũ trang… chiếm được đồn Hoành Mô và một phần điểm cao 600 và 781 nhưng bị chặn lại trên các hướng khác. Ngày 4-3, địch tập trung đánh chiếm điểm cao 1050 nhưng một lần nữa bị đẩy lui với thiệt hại nặng nề. Cũng trong ngày hôm đó Trung đoàn 41 Sư đoàn 325B phản kích lấy lại điểm cao 600 và 781. Đến đây, mọi nỗ lực tấn công vào tuyến biên giới Quảng Ninh của Trung Quốc đều bị bẻ gãy.
Ngày 5-3, Bắc Kinh tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam. Chiến sự trên hướng Quảng Ninh tạm thời lắng xuống. Trong đợt chiến đấu này, 2 cá nhân và 5 đơn vị đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Trên mặt trận Hà Tuyên
Hà Tuyên là hướng phối hợp, địch không tiến công lớn mà chỉ sử dụng biên phòng và dân binh tỉnh Vân Nam đánh vào các chốt của ta ở xã Thượng Phùng, Lũng Làn (Mèo Vạc), Lũng Cú, Ma Ly (Đồng Văn), Nghĩa Thuận (Quản Bạ), Thanh Thủy, Lao Chải (Vị Xuyên), Bản Păng, Bản Máy (Xìn Mần), Na Khê (Yên Minh). Tại đây bộ đội địa phương, công an vũ trang và dân quân tự vệ đã phối hợp chặn địch. Ngoài ra lực lượng vũ trang Hà Tuyên còn chủ động tổ chức một số trận đánh ngay vào vị trí xuất phát tiến công của đối phương như trận đánh ngày 23-2 của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 122 vào điểm cao 1875 hoặc trận ngày 25-2 của Tiểu đoàn 1 Mèo Vạc tập kích địch đột nhập xã Thượng Phùng và tập kích đồn Hoà Bình.
Từ 4-3, để hỗ trợ cho hai cánh quân trên hướng Hoàng Liên Sơn và Lai Châu, ở Hà Tuyên địch đẩy mạnh các hoạt động tiến công cấp đại đội, tiểu đoàn nhằm vào các đồn biên phòng và các xã biên giới: Ngày 5-3 tiến công đồn Lũng Làn và điểm cao 1379 Phìn Lò (Mèo Vạc), ngày 6 và 7-3 đánh Bản Păng, Bản Máy (Xín Mần); ngày 8 và 9-3 đánh Phó Bảng (Đồng Văn); ngày 11-3 tiến công khu vực Lao Chải (Vị Xuyên); ngày 13-3 tiến công điểm tựa của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 122… đều bị đẩy lui. Đến ngày 14-3 chiến sự tạm thời lắng xuống. Trong đợt chiến đấu này lực lượng vũ trang Hà Tuyên đã tham gia chiến đấu 61 trận, có 1 cá nhân và 1 đơn vị công an biên phòng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Theo công bố chính thức, trên cả ba mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên, các lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến 14.000 quân Trung Quốc (trong đó Hà Tuyên tiêu diệt khoảng 1.000 địch), đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn địch, phá hủy 4 xe tăng và 6 xe quân sự.
Trên mặt trận Hoàng Liên Sơn
Hoàng Liên Sơn là trọng điểm tiến công chính của quân Trung Quốc trên tuyến biên giới Tây Bắc. Tại đây địch tổ chức tiến công quy mô lớn theo hai trục: từ Quang Kim (Bát Xát) đánh xuống Cam Đường, Bến Đền và từ Nà Lốc vào Bản Phiệt (Bảo Thắng) theo quốc lộ 70 đánh xuống Phong Hải, Phố Lu. Để hỗ trợ cho các hướng chính, đối phương còn cho các mũi vu hồi đánh vào Sa Pa, Mường Khương.
Ngay trong đêm 16 rạng 17-2-1979, lợi dụng trời tối và sương mù, quân Trung Quốc đã bí mật cho một lực lượng lớn vượt biên giới, luồn sâu ém sẵn ở các khu vực Na Lốc, Lều Nương (bắc Bản Phiệt), bản Vược Duyên Hải (bờ nam sông Hồng phía tây bắc thị xã Lào Cai), Mường Khương (Hoàng Liên Sơn), đồng thời triển khai đội hình chủ lực sáp sát biên giới Việt Nam.
6 giờ sáng 17-2-1979, sau khi cho pháo binh bắn chuẩn bị với mật độ cao, trên hướng chủ yếu quân Trung Quốc bắc cầu phao vượt sông Hồng và tổ chức tấn công. Các đơn vị của ta lúc đầu bị bất ngờ, bị động nhưng ngay sau đó đã kịp thời triển khai đội hình chiến đấu.
Trung đoàn bộ binh 192, 254 bộ đội Hoàng Liên Sơn, Trung đoàn 16 công an vũ trang, Đồn biên phòng Vạn Hòa, Pha Long, Mường Khương, Nà Lốc, Nậm Chảy… cùng bộ đội địa phương huyện và dân quân tự vệ tổ chức đánh trả quyết liệt trên tất cả các hướng, trong khi pháo binh ta vừa chi viện bộ binh vừa phản pháo các trận địa hỏa lực ở Hà Khẩu và bắn phá các điểm vượt sông của địch.
Tuy nhiên nhờ có ưu thế vượt trội về binh hỏa lực, đến trưa 17-2 quân Trung Quốc đã chiếm các điểm cao ở phía bắc ngã ba Bản Phiệt, toàn bộ cánh đồng Quang Kim, Bản Qua, Bản Vược, thị xã Lào Cai và thị trấn Mường Khương, Bát Xát. Các đơn vị ta bị tổn thất phải lùi về phía sau tổ chức phòng ngự, tuy nhiên vẫn tiếp tục cho lực lượng bám đánh ngay cả ở những khu vực đối phương đã làm chủ và phải đến tận 19-2 quân Trung Quốc mới thực sự kiểm soát được thị xã Lào Cai.
Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Quân khu 2 ra lệnh cho Sư đoàn bộ binh 316 (thiếu Trung đoàn bộ binh 98) từ Bình Lư, Phong Thổ (Lai Châu) cơ động lên tổ chức trận địa phòng ngự ở khu vực Sa Pa từ ngày 19-2. Đồng thời, Sư đoàn bộ binh 345 ở Bảo Thắng nhanh chóng đưa Trung đoàn bộ binh 124 vào xây dựng tuyến phòng thủ ở khu vực nông trường Phong Hải (cây số 18 trên quốc lộ 70).
Ngày 19-2, quân Trung Quốc tiếp tục tiến công chiếm ngã ba Bản Phiệt, dãy Nhạc Sơn và cây số 4 Kim Tân. Ở phía hữu ngạn sông Hồng đối phương chiếm khu vực Đá Đinh, mỏ a-pa-tít Cam Đường. Trên hướng Mường Khương, sau khi chiếm thị trấn địch theo đường 4D phát triển xuống khu vực nông trường Thanh Bình. Trên hướng Sa Pa một bộ phận địch luồn lách từ khu vực Quang Kim lên Bản Khoang rồi đánh lên Ô Quý Hồ (cây số 8 trên đường 4D Sa Pa đi Bình Lư (Lai Châu), một bộ phận khác tiến công từ Cốc San lên Cầu Đôi để phối hợp với mũi vu hồi Ô Quý Hồ đánh chiếm Sa Pa.
Ngày 22-2, cuộc chiến đấu của Sư đoàn 316 trên hướng Sa Pa bắt đầu. Sư đoàn 345 cũng tiến hành chặn đánh địch trên hướng từ Lào Cai đi Bảo Thắng. Trên tất cả các trục tiến công của đối phương, lực lượng vũ trang ta đã dũng cảm chiến đấu tuy nhiên do tương quan quá chênh lệch nên không thể cản được đà phát triển của chúng, phải vừa đánh vừa rút lui để bảo toàn lực lượng.
Ngày 25-2, địch chiếm được thị xã Cam Đường (cách thị xã Lào Cai 10km). Ngày 1-3, địch chiếm thị trấn Sa Pa (cách thị xã Lào Cai 38km) và tiếp tục đánh về Bình Lư. Đến ngày 4 và 5-3 quân Trung Quốc đã tiến xuống cây số 36 trên quốc lộ 70, chiếm được Phố Lu (cách thị xã Lào Cai 32km), Bến Đền. Ngày 5-3, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố rút quân. Từ ngày 6-3 trên hướng này quân Trung Quốc bắt đầu tổ chức rút về bên kia biên giới và hoàn tất vào 13-3-1979.
Theo công bố chính thức, các lực lượng vũ trang và nhân dân trên mặt trận Hoàng Liên Sơn từ ngày 17-2 đến 18-3-1979 đã loại khỏi vòng chiến 11.500 quân Trung Quốc, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn địch, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự. 12 cá nhân và 6 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Bài 3: Diễn biến cuộc chiến đấu trên mặt trận Lạng Sơn – Cao Bằng
Sorry, the comment form is closed at this time.