BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

2104. TRUNG QUỐC: PHƯƠNG ÁN 383

Posted by adminbasam trên 13/11/2013

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)

Chủ Nhật, ngày 10/11/2013

 TTXVN (Hong Kong 7/11)

Ngay trước thềm Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3 khóa 18 của Trung Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc đã đưa ra phương án hành động và tư duy cơ bản của vòng cải cách mới, gọi là “Phương án 383”. Ngày 27/10/2013, tờ “Đông phương Tảo báo” đã cho đăng tải toàn văn “Phương án 383” của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc. Tác giả của “Phương án 383” là Chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Vĩ, từng làm Thư ký cho cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ và Phó Chủ nhiệm ủy ban Cải cách Phát triển Quốc tế Lưu Hạc, người được giới truyền thông gọi là “cố vấn kinh tế cao cấp” của ông Tập Cận Bình. Ngoài ra, “Phương án 383” còn có sự tham dự của nhiều chuyên gia cao cấp, uyên thâm của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc. Do đơn vị đưa ra báo cáo – Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc vụ viện – là một cơ quan chính thức thuộc Chính phủ Trung Quốc, đóng vai trò tham mưu chiến lược và tác giả của báo cáo, nhất là Lưu Hạc, người được chính Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình giới thiệu với Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Tom Donilon khi ông này tới thăm Trung Quốc vào tháng 5/2013 rằng “ông ấy rất quan trọng đối với tôi”, nên báo cáo nhận được sự quan tâm chú ý đặc biệt của dư luận. Dưới đây là toàn văn nội dung “Phương án 383”:

Tổ Chuyên đề, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc vụ viện

Qua đi sâu nghiên cứu và thảo luận, chúng tôi sơ bộ đưa ra ý tưởng cải cách với tên gọi vắn tắt là “Phương án 383”, tức là phương án hành động và tư duy cơ bản của vòng cải cách mới, bao gồm “tư duy cải cách ‘tam vị nhất thể’ (3 mặt của một vấn đề), 8 lĩnh vực cải cách trọng điểm, 3 tổ hợp cải cách liên quan”.

I. Tư duy cải cách “tam vị nhất thể” mới của thể chế kinh tế

1.Mục tiêu của vòng cải cách mới là xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tràn trề sức sống, định hướng sáng tạo, trật tự bao dung và bảo đảm pháp trị. Tràn trề sức sống là phải giảm mạnh sự can dự của chính quyền vào hoạt động kinh tế, thông qua hoàn thiện hệ thống thị trường sản phẩm và các yếu tố sản xuất, huy động tính tích cực trên các phương diện ở mức độ lớn hơn. Định hướng sáng tạo là tạo ra môi trường chế độ có lợi cho sáng tạo, hoàn thiện cơ chế kích thích sáng tạo, xúc tiến nâng cấp việc chuyển đổi, kích thích tính sáng tạo của doanh nghiệp và cá nhân ở phạm vi lớn hơn. Trật tự bao dung là ra sức đẩy mạnh công bằng về quyền lợi, công bằng về cơ hội và công bằng về tiêu chuẩn, để toàn thể nhân dân chia sẻ công băng thanh quả phát triển nhờ vào sự nỗ lực phấn đấu. Bảo đảm pháp trị là để các hoạt động kinh tế và loại hình kinh tế nhận được sự đối xử và bảo vệ công bằng của pháp luật, ổn định niềm tin và kỳ vọng phát triển. Thông qua cải cách, hình thành môi trường chế độ thích ứng với tình hình mới, yêu cầu mới về phát triển kinh tế xã hội, tạo dựng phiên bản nâng cấp của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

2.Thực hiện các mục tiêu trên phải dựa trên cơ sở cải cách thị trường trước đây, cải cách chính phủ và cải cách doanh nghiệp, dồn sức thúc đẩy cải cách “tam vị nhất thể” mới, gồm: hoàn thiện hệ thống thị trường, chuyển biến chức năng chính quyền và đổi mới thế chế doanh nghiệp. Hoàn thiện hệ thống thị trường, trọng điểm là đi sâu cải cách thị trường các yếu tố sản xuất như lĩnh vực ngành nghề cơ sở, đất đai, sức lao động, vốn…, làm cho thị trường phát huy vai trò mang tính nền tảng là phân phối tài nguyên ở phạm vi lớn hơn và có hiệu quả hơn. Chuyển biến chức năng chính quyền, trọng điểm là giảm xem xét xét duyệt, hài hòa nhiệm vụ và chức năng mà chính quyền cần phải làm, nâng cao tính minh bạch, thúc đẩy sự chuyển đổi quan trọng của thể chế tài chính thu thuế, làm cho chính quyền có thể cung cấp các sản phẩm công một cách tốt hơn, bảo vệ công bằng chính nghĩa xã hội. Sáng tạo thể chế doanh nghiệp, trọng điểm là nới lỏng điều kiện tiếp cận thị trường, khích lệ cạnh tranh, xây dựng môi trường bên ngoài mà ở đó các loại hình doanh nghiệp bình đẳng trong việc sử dụng các yếu tố sản xuất và tạo ra tài nguyên, khiến doanh nghiệp phải chuyển từ việc chủ yếu dựa vào ưu thế hình thành từ các yếu tố giá thành thấp sang dựa nhiều hơn vào động lực đến từ việc nâng cấp chuyển đổi và sáng tạo.

3. Trong cải cách “tam vị nhất thể” nêu trên, điều then chốt là xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa chính quyền và thị trường. Chính quyền và thị trường không phải là quan hệ đơn giản kiểu tôi mạnh thì anh yếu và ngược lại, mà nên hình thành quan hệ cộng sinh bổ trợ cho nhau. Kinh nghiệm lịch sử trong và ngoài nước cho thấy một thị trường hữu hiệu thông thường đối ứng với một chính quyền hữu hiệu và ngược lại. Chính quyền nên phát huy vai trò trong các lĩnh vực có hiệu ứng lan tỏa mạnh, bản thân có ưu thế và có thể mang tới hiệu ứng nâng đỡ bổ sung cho doanh nghiệp và thị trường. Như vậy, cùng với sự trưởng thành của thị trường và doanh nghiệp, vai trò của chính quyền cũng có sự tăng trưởng tương ứng. Phạm vi hợp lý để chính quyền phát huy vài trò cũng thay đổi theo sự thay đổi của từng giai đoạn tăng trưởng kinh tế và tình hình kinh tế. Trong giai đoạn kinh tế phát triển tương đối thấp, chính quyền có thể phát huy vai trò quan trọng trong các lĩnh vực có hiệu ứng lan tỏa nổi bật, tính xác định tương đối mạnh, như xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện có lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp, giúp kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao. Tuy nhiên, khi thời kỳ xây dựng cơ sở hạ tầng với quy mô lớn kết thúc, cần phải dựa nhiều hơn vào việc nâng cấp ngành nghề và động lực sáng tạo, chính quyền cần phải giảm thiểu sự can dự trực tiếp vào hoạt động kinh tế, chủ yếu dồn sức bồi đắp môi trường chính sách và môi trường chế độ có lợi cho việc sáng tạo. Trong một số hoàn cảnh đặc thù như khi ứng phó với tác động của khủng hoảng tài chính, chính quyền cần áp dụng một số biện pháp hành chính, nhưng sau khi chuyển sang tăng trưởng bình thường thì phải trả lại những gì mà doanh nghiệp và thị trường nên làm cho doanh nghiệp và thị trường.

II. 8 lĩnh vực cải cách trọng điểm

1. Lấy việc giảm thiểu xét duyệt hành chính một cách mạnh mẽ, thực chất, công khai minh bạch và quản lý theo luật làm trọng điểm, thúc đẩy cải cách thể chế quản lý hành chính. Việc thay đổi phương thức phát triển, thúc đẩy chuyển đổi xã hội, bức thiết yêu cầu phải chuyển đổi chức năng của chính quyền, cần phải nắm chắc thời cơ có lợi cho việc thúc đẩy cải cách hiện nay, thúc đẩy chuyển đổi chức năng, giảm thiểu việc xét duyệt hành chính một cách mạnh mẽ, thực chất, nâng cao tính khoa học trong quyết sách của chính quyền, tăng cường tính minh bạch trong sự vận hành của chính quyền, nhanh chóng đạt được tiến triển thực chất trong lĩnh vực quản lý theo luật.

– Điều chỉnh có định hướng hoặc hoàn thiện chức năng cơ bản của chính quyền. Giảm thiểu các thủ đoạn can dự trực tiếp mang tính hành chính về số lượng như quy mô cho vay, chỉ tiêu đất đai, sản lượng…, chủ yếu vận dụng các biện pháp tổng lượng như tiền tệ, tài chính thu thuế để cải thiện điều tiết vĩ mô. Điều chỉnh trọng tâm giám sát quản lý thị trường, giảm thiểu xét duyệt điều kiện gia nhập ngành nghề mang tính bố trí trước, tăng cường giám sát quản lý từ đầu trên các phương diện như chất lượng, an toàn, bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, tiêu chuẩn công nghệ… Tăng cường mức độ chấp pháp trong lĩnh vực chống lũng đoạn và chống cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ môi trường cạnh tranh công bằng, các ngành giám sát và nhân viên giám sát quản lý liên quan tắc trách gây tổn thất lớn phải chịu trách nhiệm pháp luật và kinh tế tương ứng. Tích cực khuyến khích và ủng hộ các lực lượng xã hội tham gia cung cấp dịch vụ công mở rộng phạm vi bán dịch vụ của chính quyền, thúc đẩy đa dạng hóa trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công.

– Áp dụng các biện pháp đắc lực, giảm thiểu việc xét duyệt hành chính một cách mạnh mẽ và thực chất. Phương án Cải cách Cơ cấu Quốc vụ viện đã xác định rõ phải hoàn thành theo thời hạn đề ra những hạng mục phê duyệt hành chính và cấp phép hành chính cần thanh lý và giảm thiểu. Đối với các hạng mục vẫn cần phải xét duyệt, quy định thời hạn xét duyệt, tới thời hạn không trả lời chính thức coi như là đồng ý. Đối với các hạng mục xét duyệt không liên quan tới an ninh quốc gia và bí mật doanh nghiệp, công bố quy trình, điều kiện và tiến độ phê duyệt trên mạng, chịu sự chất vấn của doanh nghiệp và công chúng xã hội. Xây dựng chế độ truy cứu trách nhiệm đối với lỗi xét duyệt lớn, truy cứu trách nhiệm đối với nhân viên liên quan mắc lỗi trong xét duyệt gây ra tổn thất lớn.

– Nâng cao hiệu suất và tính khoa học trong quyết sách của chính quyền. Cải tiến cơ chế điều phối quyết sách của chính quyền, thay chế độ cùng ký thành chế độ chịu trách nhiệm của bộ ngành dẫn đầu, đối với những quyết sách lớn liên quan tới lợi ích của công chúng, trước khi ra quyết sách phải tổ chức cho các cơ quan tham mưu liên quan tiến hành luận chứng cần thiết, có quyết sách phải tổ chức điều trần. Trong quá trình thực thi, phải tiến hành theo sát đánh giá, điều chỉnh theo sự phản hồi. Sau khi thực hiện xong, cần tổ chức đánh giá hiệu quả chính sách với bên liên quan, gồm cả cơ quan thứ ba, và công bố kết quả đánh giá.

– Nâng cao tính minh bạch trong sự vận hành của chính quyền. Tăng thêm nội dung công khai của chính quyền các cấp trong các lĩnh vực như kinh phí tam công (1), chuyển tiền chi trả (2), công bố tường tận thu chi tài chính của chính quyền các cấp và phương pháp tính toán chuyển chi giữa chính quyền với nhau. Xây dựng chế độ Ngân hàng Nhân dân (3), ngành thống kê và ngành kiểm toán nhân dân định kỳ báo cáo cho Nhân đại Toàn quốc (4), nếu là số liệu thống kê và phương pháp tính toán số liệu thống kê không liên quan tới an ninh quốc gia cần công khai kịp thời. Tổng kết kinh nghiệm liên quan của địa phương, hoàn thiện cơ chế chính quyền địa phương định kỳ báo cáo công tác trước Nhân đại (5), thực hiện các biện pháp như truyền hình trực tiếp qua vô tuyến, qua mạng Internet, nâng cao tính minh bạch trong sự vận hành của chính quyền một cách hữu hiệu.

– Thực thi một cách thực chất việc quản lý theo luật. Dẫn dắt, khuyến khích công dân, pháp nhân và các tổ chức khác thực thi quyền tố tụng hành chính theo luật định, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, giám sát các cơ quan hành chính thực thi chức quyền theo luật định, lựa chọn các vụ án điển hình về “dân kiện quan” để tiến hành tuyên truyền thích đáng. Khuyến khích tố tụng công ích, cho phép tố tụng tập thể nhằm giảm bớt khiếu kiện vượt cấp và các sự kiện mang tính quần thể.

– Hoàn thiện hệ thống lương của nhân viên công chức. Căn cứ vào tăng trưởng kinh tế, biến động giá cả và mức thu nhập bình quân của xã hội, xác định một cách hợp lý mức thu nhập của nhân viên cơ quan công lập, ban ngành chính quyền cũng như cơ chế tăng lương. Xây dựng chế độ tiền trợ cấp liêm khiết hàng năm, để nhân viên công chức sau khi về hưu mà chưa vi phạm sai lầm lớn hoặc chưa bị phát hiện tham nhũng hủ bại có thể lĩnh. Quy định quyền và trách nhiệm từng vị trí, giảm thiểu quyền làm theo ý mình của quan chức chính quyền, xây dựng cơ chế phòng chống tham nhũng “không thể tham, không dám tham, không muốn tham”. Bắt đầu làm từ ban lãnh đạo và cán bộ mới được đề bạt của các bộ ngành công cũng như của các doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh tiến độ quan chức công bố tài sản cá nhân.

2. Lấy việc phá bỏ lũng đoạn, thúc đẩy cạnh tranh, tái dựng giám sát quản lý làm trọng điểm, đẩy nhanh cải cách trong lĩnh vực ngành nghề nền tảng. Tệ nạn lũng đoạn trong ngành nghề nền tảng đã gây ra ảnh hưởng tiêu cực ngày càng rõ ràng đối với toàn cục phát triển kinh tế xã hội. Ra sức đẩy mạnh cải cách ngành nghề nền tảng không thể chậm trễ. Trọng điểm của cải cách là nới lỏng điều kiện tiếp cận thị trường, hình thành kết cấu thị trường mang tính cạnh tranh, đồng thời hình thành sự giám sát quản lý hữu hiệu ở các khâu lũng đoạn tự nhiên.

– Mở cửa đầu tư, tìm kiếm mô hình vận hành đường sắt phù hợp với tình hình đất nước. Trên cơ sở cải cách Bộ Đường sắt trước đây và sơ bộ thực hiện tách bạch chính quyền và doanh nghiệp, lựa chọn nhiều hạng mục có tiềm lực phát triển tương đối lớn, ranh giới nghiệp vụ rõ ràng, thích hợp cho việc thành lập công ty xương sống, đi trước thu hút đầu tư bên ngoài hoặc trực tiếp lên sàn chứng khoán huy động vốn, đồng thời tiến hành thí điểm huy động vốn bằng các biện pháp thị trường hóa khác, bảo đảm đầu tư xây dựng đường sắt tăng trưởng ổn định. Học tập mô hình vận hành trên thế giới như “tách bạch giữa quản lý mạng lưới đường sắt và kinh doanh vận tải hàng hóa, hành khách bằng đường sắt”, “cạnh tranh khu vực”, “công ty xương sống + cạnh tranh song song”, xuất phát từ thực tế, tích cực tìm kiếm mô hình vận hành đường sắt phù hợp với tình hình đất nước. Bộ, ngành giám sát quản lý đường sắt phải đề ra và thực thi các quy tắc liên quan tới việc mở cửa quyền thông đường.

– Lấy việc hình thành cơ chế mới về định giá dầu thành phẩm, nới lỏng điều kiện tiếp cận thị trường thăm dò khai thác tài nguyên dầu khí không thông thường làm bước đột phá, thúc đẩy cải cách ngành dầu mỏ và khí đốt tự nhiên. Xây dựng thị trường giao dịch dầu mỏ có kỳ hạn, giao dịch dầu mỏ kiểu giao ngay liên thông giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế, có sức ảnh hưởng quan trọng về quyền xác định giá cả, lấy dầu thô Trung Quốc làm sản phẩm tiêu chuẩn. Mở cửa hạn chế đối với việc nhập khẩu dầu thô, dầu thành phẩm và khí tự nhiên. Các bộ ngành hữu quan của chính phủ không trực tiếp quy định giá dầu thành phẩm nữa, chuyển sang áp dụng biện pháp can dự mang tính tạm thời khi có biến động tương đối lớn về giá dầu. Nới lỏng điều kiện tiếp cận thị trường thăm dò khai thác dầu khí thiên nhiên không thông thường, hoàn thiện chế độ bán và chuyển nhượng quyền thăm dò và khai thác mỏ, coi các loại tài nguyên dầu khí không thông thường như đá phiến dầu (6) là loại quặng độc lập, đưa vào phạm vi quản lý quyền thăm dò và khai thác mỏ, tăng tốc thăm dò và khai thác tài nguyên liên quan. Tách nghiệp vụ về mạng lưới đường ống dầu mỏ khí tự nhiên ra khỏi các doanh nghiệp dâu khí nhất thể hóa kinh doanh giữa hoạt động khâu đầu (7), hoạt động khâu giữa (8) và hoạt động khâu cuối (9), tổ chức xây dựng một số công ty mạng lưới đường ống dầu khí và xây dựng chế độ giám sát quản lý của chính quyền đối với mạng lưới đường ổng dầu khí.

– Cho phép hộ sử dụng nhiều trực tiếp mua điện, xây dựng thị trường phát điện cạnh tranh theo thời gian thực, đi sâu cải cách thể chế điện lực, Thực hiện hộ sử dụng nhiều trực tiếp mua điện, xây dựng thị trường phát điện cạnh tranh theo thời gian thực, triển khai “hòa mạng cạnh tranh giá cả”, hình thành thị trường điện lực mang tính cạnh tranh lẫy thị trường hợp đồng song phương làm chính và thị trường cạnh tranh theo thời gian thực làm phụ, thúc đẩy cải cách cơ chế hình thành giá điện hòa mạng do cạnh tranh trên thị trường phát điện hoặc hợp đồng song phương giữa doanh nghiệp phát điện và hộ sử dụng nhiều xác định. Thực hiện sự kiểm soát của chính quyền đối với giá điện truyền tải, hình thành giá điện truyền tải độc lập, trực tiếp phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp phụ trách lưới điện. Giá điện dành cho cư dân và các hộ tiêu thụ điện trung bình của ngành công nghiệp, thương mại vẫn thực hiện theo sự chỉ đạo về giá cả của chính phủ. Thực hiện trước việc phân tách tài chính trong nghiệp vụ truyền tải, trên cơ sở thực hiện thí điểm từng bước thực hiện phân tách tài chính hoàn toàn trong nghiệp vụ truyền tải.

– Đẩy nhanh tốc độ mở cửa lẫn nhau giữa các hạng mục nghiệp vụ, thúc đẩy một cách thực chất sự tích hợp của ba mạng lưới. Thực hiện mở cửa cho nhau, thâm nhập vào nhau về nghiệp vụ chính giữa điện tín, Internet và phát thanh truyền hình. Thống nhất lại chức năng giám sát quản lý bị phân tán, xây dựng hệ thống giám sát quản lý thống nhất. Tiến hành tái cơ cấu một lần nữa các doanh nghiệp điện tín, hình thành nhiều công ty kinh doanh điện tín tương đổi có thực lực cạnh tranh, để có lợi cho việc cạnh tranh hiệu quả.

3 Lấy việc bình đẳng về quyền lợi, mở cửa điều kiện tiếp cận thị trường và chia sẻ công bằng làm trọng điểm, đi sâu cải cách chế độ đất đai. Chế độ đất đai hiện hành tồn tại các tệ nạn như chênh lệch về quyền lợi, giá cả bị bóp méo, không công bằng về điều kiện tiếp cận thị trường và phân phối lợi ích gia tăng thu được. Mục tiêu của cải cách là xây dựng hai loại chế độ đất đai bình đẳng về quyền sở hữu đất đai, thị trường thống nhất, chia sẻ lợi ích gia tăng thu được một cách công bằng, xúc tiến chuyển đổi phương thức lợi dụng đất đai và phương thức phát triển kinh tế.

– Cung cấp hạ tầng cơ sở mang tính chế độ để bảo vệ quyền lợi đất đai bình đẳng. Lấy thời điểm thực thi quyền thành viên tập thể và đánh giá lượng tài sản tập thể làm hạt nhân, bảo đảm quan hệ bao thầu đất đai nông thôn không thay đổi trong thời gian dài. Giao và xác định quyền (10) cho từng nông dân. Thực thi chế độ đăng ký bất động sản thống nhất lấy đất đai làm cơ sở Trên cơ sở quyền sở hữu đất đai hiện hành, trao cho nông dân quyền quản lý, thế chấp và chuyển nhượng đất đai tập thế.

– Xây dựng thị trường đất đai bình đẳng về điều kiện tiếp cận và giao dịch công bằng. Dưới sự quản lý về quy hoạch và mục đích sử dụng, cho phép đất đai tập thể ở nông thôn và đất đai thuộc sở hữu nhà nước được bình đẳng gia nhập thị trường đất đai phi nông nghiệp, hình thành kênh giao dịch bình đẳng về quyền lợi, có quy tắc thống nhất. Cùng với việc đất đai dành cho việc xây dựng tập thể ở nông thôn trực tiếp gia nhập thị trường, phải thu hẹp phạm vi trưng thu đất đai tương ứng của chính quyền, từng bước giảm thiểu tiến tới hủy bỏ việc phân chia đất đai phi công ích. Trong bối cảnh đất đai sử dụng để xây dựng tập thể gia nhập khung giao dịch của thị trường, đối với các trường hợp “tiểu sản quyền phòng” (11) đang tồn tại, căn cứ vào tình hình cụ thể, sẽ phải nộp bổ sung một phần nhất định thu nhập từ việc bán đất đai, giải quyết ổn thỏa vấn đề lịch sử để lại này.

– Xây dựng chế độ phân phối lợi ích gia tăng thu được từ đất đai cùng hưởng một cách công bằng. Đối với đất đai bị chính quyền trưng thu, việc bồi thường sẽ thay đổi từ bồi thường theo mục đích sử dụng ban đầu sang bồi thường công bằng, nhà của nông dân bồi thường theo giá thị trường, đất trưng thu của nông dân được đưa vào hệ thống bảo đảm xây dựng của thị trấn, thị xã. Cải cách chế độ xuất nhượng đất đai và hình thức sử dụng đất đai, xác định tỷ lệ đất đai thành phố sử dụng cho xây dựng và đất đai lưu lại cho nông dân. Xây dựng chế độ quỹ đất đai quốc gia.

– Xây dựng chế độ thuế tài sản đất đai thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại. Xây dựng hệ thống đánh giá, giá trị đất đai. Chuyển trọng điểm tính thuế đất từ khâu lưu chuyển sang khâu tồn giữ, thực hiện tính thuế theo giá đất đai. Trước tiên tiến hành thu thuế giá trị gia tăng đất đai với đất sử dụng để xây dựng tập thể, đất dự trữ và đất đầu cơ.

– Xây dựng chế độ huy động đất đai và chế độ kinh doanh tài sản đất đai thuộc sở hữu nhà nựớc. Thay đổi từ việc chính quyền bán đất thành kinh doanh tài sản đất đai thuộc sở hữu nhà nước, chính quyền với tư cách người sở hữu đất đai quốc hữu có đầy đủ quyền về khu đất, thành lập công ty tài sản đất đai thuộc sở hữu nhà nước tiến hành kinh doanh đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Cải tạo cơ chế dự trữ đất đai thuộc sở hữu nhà nước, thành lập thị trường giao dịch đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Hoàn thiện chế độ quản lý sử dụng lợi ích thu được từ việc kinh doanh tài sản đất đai thuộc sở hữu nhà nước, xác định rõ lợi ích thu được từ việc kinh doanh tài sản đất đai thuộc sở hữu nhà nước không được sử dụng ngay, mục đích và hiệu quả sử dụng do Nhân đại xem xét, giám sát. Hoàn thiện chế độ huy động đất đai thuộc sở hữu nhà nước, đất đai sử dụng thế chấp huy động vốn phải có chứng nhận của chính quyền và chủ thể rõ ràng, do bên thứ ba tiến hành đánh giá tài sản.

– Xây dựng thể chế quản lý đất đai hiện đại lấy việc quản lý quyền sở hữu và quản lý mục đích sử dụng làm hạt nhân. Đề ra hệ thống quy hoạch không gian đất đai. Tăng cường quy hoạch tống thể sử dụng đất đai, thực thi nghiêm khắc, kiểm soát thực hiện mục đích sử dụng theo pháp luật. Tăng cường quản lý quyền sở hữu đất đai, xây dựng hệ thống quản lý địa tịch thống nhất. Từng bước hủy bỏ xét duyệt chỉ tiêu đất đai và quản lý kế hoạch theo năm, xây dựng chế độ trách nhiệm về quản lý đất đai ngang hàng giữa quyền và trách nhiệm ở trung ương và địa phương.

4. Thúc đẩy cải cách hệ thống tài chính lấy việc hạ thấp điều kiện tiếp cận ngành tài chính, thúc đẩy thị trường hóa lãi suất và tỷ giá hối đoái làm hạt nhân, cần phải nắm chắc thời cơ có lợi từ quá trình tái cân bằng kinh tế toàn cầu, xây dựng hệ thống tài chính định hướng thị trường, hiệu suất cao và linh hoạt, ủng hộ tiến trình nâng cấp chuyển đổi và đô thị hóa; giải quyết rủi ro tàichính tiềm tàng; phối hợp lẫn nhau giữa thể chế tài chính thu thuế và cải cách giá các yếu tố sản xuất đầu vào, hình thành hiệu ứng phối hợp hoạt động.

– Đi sâu cải cách kết cấu sản quyền (12) và kết cấu quản trị của tổ chức tài chính. Hạ thấp ngưỡng tiếp cận ngành tài chính, hình thành hệ thống tài chính đa nguyên hóa có tính cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu dịch vụ tài chính của nền kinh tế thực thể. Giảm mạnh tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu các tổ chức tài chính của các cấp chính quyền, thể hiện khả năng kiểm soát quốc gia đối với các tổ chức tài chính thông qua các hình thức về quyền mua cổ phiếu thông hành trên thế giới như quyền mua cổ phiếu vàng và giám sát quản lý hữu hiệu. Trong điều kiện tình hình kinh doanh của các tổ chức tài chính mang tính khu vực như ngân hàng thương mại thành phố ổn định về tổng thể, sớm thúc đẩy sáp nhập, tái cơ cấu và đa nguyên hóa quyền mua cổ phiếu, nhằm kiểm soát và xử lý rủi ro, ẩn họa. Hạ thấp ngưỡng tiếp cận ngành tài chính, khuyến khích sự phát triển của các tổ chức tài chính dân doanh mới nổi có thể đáp ứng nhu cầu dịch vụ tài chính, đặc biệt là khuyến khích các tổ chức mạng Internet có thực lực phát huy ưu thế đặc thù của mình tiến vào lĩnh vực tài chính nhỏ, khuyến khích vốn xã hội thành lập tổ chức phục vụ tài chính ở nông thôn.

– Thúc đẩy tiến trình thị trường hóa lãi suất, gây sức ép trở lại đối với tổ chức tài chính buộc họ phải nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực sáng tạo, đặt cơ sở cho việc chuyển đổi đồng nhân dân tệ (NDT) trong tài khoản vốn. Thúc đẩy thị trường hóa lãi suất Chứng chỉ Tiền gửi có thể chuyển nhượng được (CD), hủy bỏ hạn chế về sàn lãi suất cho vay, mở rộng quy mô các sản phẩm tài chính được định giá thông qua thị trường hóa, hình thành đường cong lãi suất cơ bản thị trường hóa hoàn chỉnh. Thiết lập chế độ bảo hiểm tiền gửi, xây dựng cơ chế rút khỏi thị trường, phá sản của các tổ chức tài chính, xử lý các tổ chức tài chính có vấn đề trong quá trình thị trường hóa lãi suất bằng phương thức mua bán sáp nhập, tái cơ cấu.

– Thúc đẩy thị trường hóa cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái và đồng NDT có thể chuyển đổi trong tài khoản vốn. Trong vòng 10 năm làm cho đồng NDT trở thành đồng tiền đầu tư và thanh toán quốc tế chính, trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế ở thị trường cục bộ. Lấy việc này gây sức ép trở lại đối với công cuộc cải cách trong các lĩnh vực như thị trường ngoại hối, đầu tư xuyên biên giới, thị trường trái phiếu, kinh doanh tổng hợp đồng nội tệ và ngoại tệ của các cơ cấu tài chính.

Hoàn thiện hệ thống thị trường tài chính lấy việc thích ứng với nhu cầu nâng cấp chuyển đổi và xây dựng đô thị hóa làm trọng điểm. Hướng phát triển trọng điểm là hệ thống thị trường vốn đa tầng nấc như thị trường chứng khoán phi tập trung (13), thị trường bảng III mới (14), thị trường bảng II (15) của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp kiểu sáng tạo. Nâng mạnh tỷ trọng trái phiếu chứng khoán trong kết cấu huy động vốn, thực hiện kết nối lẫn nhau giữa thị trường phi tập trung, thị trường tập trung, giữa các ngân hàng và thị trường của Sở Giao dịch chứng khoán, xây dựng hệ thống giám sát quản lý trái phiếu, chứng khoán thốngnhất. Đi sâu cải cách thị trường hóa chế độ phát hành trái phiếu chứng khoán, trọng điểm chuyển từ khâu thẩm tra thực chất phát hành trái phiếu chứng khoán sang điều tra hành vi tiết lộ thông tin. Trọng điểm giám sát quản lý chuyển từ việc xét duyệt hành chính và bảo vệ tổ chức tài chính chuyển sang lấy việc phòng chống và kiểm soát rủi ro làm nền tảng và bảo vệ người tiêu dùng tài chính. Đứng trước việc các hoạt động sáng tạo tài chính xuyên thị trường ngày một sôi nổi, phải tăng cường chức năng của Ngân hàng Trung ương trong việc điều phối phòng chống rủi ro mang tính hệ thống của hệ thống tài chính. Xây dựng hệ thống quản lý tài chính có trật tự phân tầng của Trung ương và địa phương.

5. Khởi động vòng cải cách thể chế tài chính thu thuế mới lấy ưu tiên điều chỉnh quyền lực và thúc đẩy việc tái bố trí tài lực làm trọng điểm. Tiếp tục kiên trì phương hướng tổng thể thích ứng giữa thể chế tài chính thu thuế, lấy chế độ phân chi thu thuế làm cơ sở với nền tảng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đứng trước các vấn đề như quyền lực của chính quyền không rõ ràng, kết cấu thu chi không hợp lý, rủi ro nợ địa phương nổi cộm, dưới tiền đề duy trì sự ổn định cơ bản tỷ lệ giữa tổng lượng thuế thu được/GDP và mức độ tập trung tài lực của trung ương, lấy việc “bảo đảm xã hội cơ sở của quốc dân” làm bước đột phá, đi sâu thúc đẩy cải cách thể chế tài chính thu thuế, ưu việt hóa kết cấu thu chi, thúc đẩy chuyển đổi chức năng của chính quyền, tăng cường tính ổn định và tính bền vững về tài chính trong trung, dài hạn.

Tái xác định bố trí tài lực thông qua phân chia quyền lực hợp lý. Xác định một cách hợp lý ranh giới giữa sự Vụ của Trung ương, sự vụ của địa phương, sự vụ chung của Trung ương và địa phương, sự vụ Trung ương ủy thác, sự vụ Trung ương chỉ dẫn và khuyến khích, quy định ranh giới quyền lực chính quyền các cấp dưới tỉnh. Hoạch định quỹ dưỡng lão cơ sở, hệ thống tư pháp, an toàn thực phẩm, dược phẩm, biên phòng, hải vực, quản lý lưu vực xuyên khu vực là quyền lực của Trung ương, tiếp tục điều chỉnh ưu việt hóa chế độ phân chia thu thuế và chuyển tiền chi trả.

Thực thi chế độ “bảo đảm xã hội cơ sở của quốc dân”. Nhằm thúc đẩy nhân khẩu tự do lưu động bảo đảm quyền lợi cơ bản của quốc dân, thúc đẩy ưu việc hóa bố trí tài nguyên và nâng cao hiệu quả sản xuất, có thể thiết kể và thực thi chế độ “bảo đảm xã hội cơ sở của quốc dân” chủ yếu do Trung ương và chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm, cân bằng theo tiêu chuẩn thấp. Nội dung bảo đảm giai đoạn khởi đầu có thể bao gồm: Sử dụng chế độ tài khoản danh nghĩa thống nhất bảo hiểm dưỡng lão cơ bản của các nhóm người, quỹ bảo hiểm dưỡng lão cơ bản thực hiện theo kế hoạch tổng thể trong cả nước; trợ cấp đối với người tham gia bảo hiểm y tế thực hiện theo phương thức phí đi theo người, khi nhân khẩu di động xuyên khu vực hành chính, chính quyền cấp trên sẽ chịu trách nhiệm chi trả trợ cấp; Chi phí bình quân cho giáo dục bắt buộc đối với mỗi học sinh do chính phủ Trung ương chi trả theo mức bình quân nhất định dựa trên số lượng học sinh của trường; Thực hiện trợ cấp bình quân ở mức nhất định dựa trên đầu người đối với đối tượng có mức sống thấp. Những khoản đãi ngộ này đều được ghi vào thẻ bảo đảm xã hội cá nhân thống nhất, toàn thể nhân dân đều có thể hưởng thụ. Thẻ bảo đảm xã hội đều có tính năng kết toán trợ cấp và sử dụng trong phạm vi cả nước. Như vậy có thể hình thành chế độ bảo đảm xã hội mới song hành với chế độ hộ tịch hiện có, cùng với thời gian sẽ từng bước mở rộng nội dung, nâng cao mức độ và cuối cùng là thay thế chế độ hộ tịch.

-Tích cực thúc đẩy xây dựng nguồn thuế chủ thể (16) của địa phương lấy thuế nhà đất và thuế tiêu dùng là chính. Tăng tốc xây dựng chế độ đăng ký bất động sản. Mở rộng phạm vi thí điểm của việc đánh thuế nhà, nhanh chóng hoàn thiện chế độ liên quan, sau thời kỳ quá độ nhất định sẽ thúc đẩy toàn diện và xác định rõ là thuế chủ thể của chính quyền cấp địa khu, cấp huyện. Căn cứ vào nguyên tắc về nơi tiêu dùng, quy hoạch thuế tiêu dùng quốc nội là thuế địa phương, thay đổi cách thu từ khâu sản xuất sang khâu bán lẻ, đồng thời quy hoạch thuế mua sắm xe cộ là thuế địa phương, cắt giảm và hợp nhất toàn diện thu nhập phi thuế, các hạng mục trưng thu từ thu nhập phi thuế của chính quyền thành phố, chính quyền địa khu và chính quyền huyện đều phải được Nhân đại cấp tỉnh trở lên phê chuẩn.

– Quy phạm chế độ phát hành trái phiếu của địa phương, phòng ngừa rủi ro nợ. Kiện toàn chế độ kế toán của chính quyền, xây dựng bảng cân đối kế toán của chính quyền. Xác định rõ chính quyền địa phương là chủ thể nợ, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động huy động vốn của địa phương. Quy định các kênh hụy động vốn của địa phương, “mở cửa trước, bịt cửa sau”, mở rộng phạm vi tự phát hành trái phiếu của chính quyền địa phương và xây dựng cơ chế cảnh báo rủi ro nợ. Khởi động việc chính quyền thành phố phát hành trái phiếu thu nhập (17), thông qua việc chứng khoán hóa tài sản thu hút các tổ chức đầu tư như quỹ dưỡng lão, quỹ bảo hiểm… nhằm mở rộng kênh huy động vốn của chính quyền địa phương.

– Xây dựng và cải thiện chế độ tài chính thu thuế mang tính nền tảng. Thực hiện ngân sách bao trùm toàn bộ, thử nghiệm thực hiện ngân sách trung hạn theo biên chế. Xác định rõ các tiêu chuẩn quốc gia về dịch vụ công trong trình tự dịch vụ và đầu tư. Dựa trên nguyên tắc quy thuộc địa phương giải quyết vấn đề tách rời giữa nguồn thuế và địa phương thu thuế. Đưa tài nguyên nước, rừng, địa nhiệt… vào phạm vi thu thuế tài nguyên, bắt đầu thu thuế môi trường. Nâng cao toàn diện năng lực quản lý thu thuế của chính quyền, gắn kết sự tín nhiệm của cá nhân với hành vi nộp thuế của cá nhân. Xây dựng chế độ đánh giá và giám sát quản lý hiệu quả chi tiêu công dựa vào bên thứ ba.

6. Đi sâu cải cách thể chế quản lý tài sản nhà nước lấy việc phân định lại chức năng và vốn hóa tài sản nhà nước làm trọng điểm. Vài năm gần đây, việc cải cách thể chế quản lý tài sản nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đã đạt được tiến triển nhất định, nhưng vẫn tồn tại tình trạng định vị không rõ ràng, hiệu suất kinh doanh thấp, năng lực cạnh tranh không mạnh… So với các thành phần kinh tế khác, tài sản nhà nước với số lượng không lô của Trung Quốc có thể phát huy ưu thế đặc biệt trong công cuộc xây dựng hiện đại hóa đất nước. Đi sâu cải cách phải xác định rõ hơn định vị chức năng của tài sản nhà nước, thúc đẩy vốn hóa tài sản nhà nước, cải tiên mô hình vận doanh và phương thức quản lý, nhằm thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi ích xã hội và nâng cao năng lực quốc gia.

– Phân định lại chức năng tài sản nhà nước. Căn cứ vào nhu cầu cung cấp sản phẩm công theo nghĩa rộng, nâng cao năng lực quốc gia, thúc đẩy nâng cao tối đa lợi ích xã hội, xác định rõ bốn chức năng cơ bản dưới đây của tài sản nhà nước. Thứ nhất là chức năng bảo đảm xã hội, trọng điểm là cung cấp chỗ dựa cho chức năng bảo đảm xã hội trên các phương diện dưỡng lão, điều trìy tế, giáo dục, nhà ở, giảm nghèo, cứu trợ xã hội… Thứ hai là chức năng dịch vụ công phi lợi nhuận, chủ yếu liên quan tới bộ phận dịch vụ phổ biến về cơ sở hạ tầng và ngành nghề nền tảng. Thứ ba là chức năng thúc đẩy ổn định, cạnh tranh và sáng tạo của ngành nghề có tính chiến lược, chủ yếu liên quản tới các lĩnh vực như năng lượng, giao thông, thông tin, tài chính… Thứ tư là chức năng bảo đảm an ninh quốc gia, chủ yếu liên quan tới lĩnh vực quốc phòng.

– Hoàn thành cải tạo chế độ công ty của doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện vốn hóa tài sản nhà nước. Đối với các doanh nghiệp nhà nước chưa tiến hành tái cơ cấu, bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và công ty tập đoàn, nhanh chóng tiến hành cải tạo, công ty hóa theo quy định. Những doanh nghiệp có đủ điều kiện có thể tiến hành đa nguyên hóa kết cấu cổ đônghoặc sắp xếp niêm yết trên sàn chứng khoán.

– Căn cứ vào chức năng khác nhau, xây dựng một loạt quỹ sử dụng vốn nhà nước. Tham chiếu mô hình công ty quản lý tài sản Temasek của Singapore, tiến hành phân loại chức năng, đối ứng lẫn nhau về chức năng tài sản nhà nước, thông qua phân phối quyền mua cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước hiện hữu, xây dựng một loạt quỹ sử dụng đầu tư vốn nhà nước. Căn cứ vào đặc tính khác nhau của chức năng, lần lượt đề ra phương thức xuất vốn, mục tiêu kinh doanh và cơ chế kiểm tra của các loại quỹ. Dưới tiền đề kiểm soát được rủi ro, các quỹ thuộc loại bảo đảm xã hội thực hiện bảo đảm giá trị và tăng giá trị đầu tư. Các quỹ thuộc loại dịch vụ công phi lợi nhuận thông thường sẽ xuất hiện tình trạng thâm hụt mang tính chính sách, cần phải đưa ra yêu cầu trong các lĩnh vực như tiêu chuẩn dịch vụ, kiểm soát giá thành… Đối với các quỹ thuộc loại thúc đẩy ổn định; cạnh tranh và sáng tạo của ngành nghề có tính chiến lược, cần phải đề ra mục tiêu mang tính chính sách có thế kiểm tra trong lĩnh vực liên quan tới việc mang lại ổn định, thúc đẩy cạnh tranh và sáng tạo… cũng như chỉ tiêu thành tích kinh doanh tương ứng. Các quỹ thuộc loại an ninh quốc gia cần phục vụ mục tiêu xây dựng quốc phòng đã định và hoàn thành chỉ tiêu thành tích kinh doanh tương ứng.

– Xây dựng và hoàn thiện chế độ người xuất vốn và chế độ người quản lý chuyên nghiệp. Căn cứ vào yêu cầu khác nhau về mục tiêu kinh doanh của các quỹ, có phương thức xuất vốn tương ứng. Chẳng hạn, các qũy thuộc loại bảo đảm xã hội chủ yếu áp dụng phương thức đầu tư phân tán, các loại quỹ khác có thể áp dụng phương thức rót vốn 100%, nắm số lượng cổ phiếu kiểm soát hay chỉ nắm tỷ lệ cổ phiếu nhất định. Áp dụng phương thức công khai tuyển dụng, cạnh tranh vị trí công tác, có tuyển vào có loại ra, hình thành chế độ người quản lý chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế.

– Uỷ ban Quản lý Giám sát Tài sản Nhà nước Quốc vụ viện căn cứ vào mục tiêu kinh doanh đã định và cơ chế kiểm tra, tiến hành giám sát quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với các quỹ. Công tác thường nhật của ủy ban Quản lý Giám sát Tài sản Nhà nước Quốc vụ viện là chịu trách nhiệm trước Quốc vụ viện, định kỳ báo cáo công tác trước Nhân đại Toàn quốc và chịu sự chất vấn, giám sát kiểm tra. Xem xét ở góc độ dài hạn và trung hạn, cần phải hình thành bảng cân đối tài sản quốc gia thống nhất bao gồm vốn nhà nước và tiền tài chính, thặng dư tài chính có thể bổ sung cho vốn nhà nước, tài sản nhà nước cũng có thể bù đắp thâm hụt tài chính.

7. Thúc đẩy sáng tạo và phát triển xanh lấy việc cải tiến môi trường cạnh tranh và cơ chế khích lệ làm trọng điểm. Sáng tạo với doanh nghiệp làm chủ thể là nền tảng thực hiện chuyển đổi kinh tế của nước ta. Muốn thực hiện nâng cấp ngành nghề, tạo động lực sáng tạo và phát triển xanh, cần phải xây dựng môi trường bên ngoài có lợi cho sáng tạo, hoàn thiện cơ chế khuyến khích sáng tạo, cải cách phương thức ủng hộ sáng tạo của chính quyền, tăng cường động lực nội sinh của sáng tạo.

-Xây dựng môi trường sáng tạo cạnh tranh công bằng và bao dung cởi mở. Đề ra biện pháp “cả gói” quy phạm trật tự thị trường, bao gồm việc giảm bớt sự can dự của chính quyền, tăng cường giám sát quản lý và chấp pháp của thị trường, khuyến khích xã hội giám sát, về cơ bản xoay chuyển tình trạng làm giả, làm nhái, làm kém chất lượng, giám sát quản lý bên ngoài không tới nơi tới chốn trong lĩnh vực như bảo vệ môi trường cũng như tình trạng doanh nghiệp chăm chăm tìm kiếm cơ hội từ chính sách và “chơi trò quan hệ”, không muốn sáng tạo. Đối xử khoan dung đối với mô hình kinh doanh mới, công nghệ mới và mô hình thương mại mới xuất hiện trong các lĩnh vực như thông tin truyền thông, thương mại điện tử, năng lượng mới, xe ô tô chạy bằng điện, tài chính…, kiên trì quản lý thận trọng, lưu giữ đủ không gian và thời gian cho việc sáng tạo.

– Xây dựng hệ thống sáng tạo doanh nghiệp kiểu mới. Bồi dưỡng và hình thành hàng loạt doanh nghiệp lớn dẫn đầu trong ngành nghề mới trưởng thành qua cạnh tranh, phát huy ưu thế lớn về nghiên cứu phát triển công nghệ, tích hợp công nghệ và thúc đẩy sản nghiệp hóa của các doanh nghiệp này. Tạo điều kiện, để cho các doanh nghiệp dân doanh cỡ lớn kiểu mới có thể sử dụng bình đẳng tài nguyên sáng tạo. Phát triển các loại hình nghiệp vụ sáng tạo như đầu tư rủi ro, dịch vụ thông tin, giao dịch công nghệ, dịch vụ nhân tài, mua bán sáp nhập huy động vốn… nhằm hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đề ra các chính sách hỗ trợ sáng tạo chuỗi ngành nghề, chuyển nhượng công nghệ, mua bán sáp nhập doanh nghiệp, khuyến khích liên minh ngành nghề và phối hợp hoạt động sáng tạo theo kiểu thị trường hóa, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn tích hợp và mua nhiều thành quả sáng tạo của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hơn nữa.

– Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng sáng tạo, thúc đẩy hình thành khu tập trung tài nguyên sáng tạo. Tăng cường đầu tư tiền bạc hơn nữa vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng thông tin, công trình khoa học lớn cũng như cơ sở công nghệ công cộng quan trọng, để hỗ trợ cho việc nghiên cứu phát triển và ứng dụng sáng tạo ở phạm vi lớn hơn, Lựa chọn các thành phố có điều kiện, đẩy mạnh cải cách tổng hợp trong các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, nhân tài, hộ tịch, giáo dục, tài chính, xây dựng đô thị…,khuyến khích đi trước thử nghiệm, hình thành một số khu tập trung tài nguyên sáng tạo với một số doanh nghiệp có hoạt động sáng tạo sôi nổi, và tốc độ phát triển ngành dịch vụ sáng tạo tương đối nhanh.

– Thúc đẩy cải cách đại học, tăng cường nghiên cứu cơ sở, khuyến khích tìm tòi tự do. Từng bước thực hiện việc loại bỏ tình trạng hành chính hóa đại học, tìm kiếm xây dựng khung quản lý đại học kết hợp giữa Hội đồng Quản trị trường, Hiệu trưởng và tổ chức giám sát quản lý, để các nhà giáo dục làm giáo dục, thực hiện quyền tự chủ dạy học của các trường cao đẳng. Nới lỏng hạn chế dậy học, khuyến khích các trường đại học hàng đầu của nước ngoài tới Trung Quốc hợp tác hoặc độc lập xây trường dậy học, áp dụng cơ chế quản lý nghiên cứu khoa học và dậy học thông dụng trên thế giới. Bồi dưỡng và trợ giúp có trọng điểm hàng loạt tổ chức nghiên cứu cơ sở có vị trí chiến lược. Thiết lập một số tổ chức nghiên cứu có môi trường cởi mở, kinh phí dư dả, thu hút được học giả hàng đầu trong và ngoài nước, lấy việc đạt được đột phá trong nghiên cứu cơ sở làm mục tiêu. Ủng hộ mô hình sáng tạo mới nổi kết hợp hai trong một giữa nghiên cứu cơ sở đạt được đột phá và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất, thích hợp với xu thế thẩm thấu lẫn nhau giữa nghiên cứu cơ sở, nghiên cứu ứng dụng và ứng dụng thành quả vào sản xuất.

– Cải tiến phương thức hỗ trợ sáng tạo của chính quyền. Cải cách phương thức hỗ trợ kinh phi cho khoa học kĩ thuật lấy việc trực tiếp rót tiền cho chương trình nghiên cứu làm chính, xây dựng cơ chế hỗ trợ tài chính ủng hộ nghiên cứu phát triển và ứng dụng thành quả nghiên cứu vào sản xuất thông qua các quỹ tài chính. Nguồn tiền nên được sử dụng nhiều hơn cho việc khuyến khích nhân viên nghiên cứu phát triển. Tăng cường mức độ hỗ trợ chính sách mang tính trọn gói, giảm hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiện theo kiểu đồng mức, quy mô thuế mà doanh nghiệp được giảm do chi phí nghiên cứu phát triển thực tế cần phải từng bước vượt qua quy mô kinh phí tài chính dự toán cho nghiên cứu phát triển được giảm thuế doanh nghiệp phải đóng sau khi khấu trừ kinh phí nghiên cứu phát triển (18). Tiến hành trợ cấp sau và hỗ trợ theo nhu cầu đối với các sản phẩm sáng tạo có hiệu ứng lan tỏa tốt. Tăng mạnh cái giá phải trả cho hành vi xâm phạm bản quyền tri thức, xác lập quyền uy về tư pháp thông qua các vụ án lớn điển hình. Tranh chấp bản quyền tri thức xuyên khu vực cần phải do tòa án bên thứ ba xét xử.

– Áp dụng cơ chế thúc đẩy bảo vệ môi trường sinh thái kiểu thị trường hóa, thực hiện chế độ bảo vệ môi trường nghiêm ngặt hơn. Xây dựng cơ chế hợp tác khu vực trong việc giảm khí thải và chế độ mua bán khí thải, khuyến khích giảm khí thải theo kiểu thị trường hóa. Hoàn thiện chế độ bồi thường tổn hại sinh thái và chi tiêu vì môi trường sinh thái giữa các khu vực. Từng bước nâng cao tiêu chuẩn bồi thường về môi trường do việc khai thác khoáng sản, thực hiện nội bộ hóa giá phải trả cho môi trường. Thúc đẩy xây dựng và ban hành “Luật Không khí sạch”, sửa đổi các pháp quy quan trọng như “Luật Bảo vệ Môi trường”, tăng cường chấp pháp về môi trường.

8. Lấy việc mở cửa ngành dịch vụ làm trọng điểm, đi sâu cải cách thể chế kinh tế đối ngoại. Cần đẩy nhanh tốc độ cải cách thể chế kinh tế đối ngoại, xây dựng môi trường thể chế có sức hấp dẫn đối với các yếu tố sản xuất và ngành công nghệ cao toàn cầu, nâng cao năng lực củng cố tài nguyên quốc tế, mở mang thị trường bên ngoài, thúc đẩy cải cách trong nước và hình thành ưu thế mới về cạnh tranh quốc tế.

– Lấy việc tăng cường mở cửa để gây sức ép trở lại đối với cải cách trong nước. Thúc đẩy mở cửa đối ngoại với các ngành nghề nền tảng như năng lượng, điện tín, tài chính, thu hút các nhà đầu tư và kinh doanh có sức cạnh tranh, dẫn dắt cho cạnh tranh trong nước. Tăng cường mở cửa về văn hóa, giáo dục, y tế, điều trị, thể dục…, thu hút các quan niệm, cơ chế và mô hình thương mại mới, dẫn dắt ngành dịch vụ tăng tốc phát triển.

– Tạo lập môi trường đầu tư có sức thu hút mạnh mẽ hơn đối với các ngành nghề công nghệ cao và các yếu tổ sản xuất. Cải cách thể chế xét duyệt đầu tư nước ngoài, triển khai thí điểm việc “không cấm có nghĩa là được làm”; thống nhất pháp luật về đầu tư trong, ngoài, tăng cường việc chấp hành thống nhất các quy định pháp luật, hình thành môi trường thị trường cạnh tranh bình đẳng, trật tự giữa các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình.

– Tăng tốc cải cách thể chế đầu tư đối ngoại. Giảm thiểu các khâu xét duyệt đầu tư đối ngoại, nâng cao hiệu suất xét duyệt; Tăng cường bảo vệ đầu tư đối ngoại, bảo đảm lợi ích ở nước ngoài, tránh đánh thuế hai lần; Định vị lại chức năng chính quyền, từ việc chú trọng xét duyệt trước khi sang cải thiện phục vụ thông tin đầu tư đối ngoại, pháp luật, huy động vốn, bảo hiểm…

– Tăng tốc cải cách thể chế ngoại thương, tăng cường sức cạnh tranh xuất khẩu giá trị gia tăng cao. Hoàn thiện chế độ hoàn thuế xuất khẩu, giảm thiểu việc kỳ thị đối với sản phẩm đầu vào hỗn tạp ở khâu đầu (sản xuất). Triển khai thí điểm Khu Thương mại Tự do lấy nền tảng là Khu Giám sát Quản lý đặc biệt về hải quan. Triển khai cải cách thuận lợi hóa đầu tư thương mại, các ngành giám sát quản lý khác nhau bắt tay kiểm tra nghiệm chứng, giảm thu phí. Thúc đẩy giảm thuế quan mang tính kết cấu thông qua phương thức tạm thời định ra thuế suất. Nới lỏng kiểm soát quyền nhập khẩu trong lĩnh vực tồn tại quyền cho phép nhập khẩu đặc biệt, tăng thêm cạnh tranh, thúc đẩy đàm phán xây dựng Khu Thương mại Tự do chất lượng cao, lấy Khu Thương mại Tự do Trung – Hàn làm trọng điểm.

– Thúc đẩy cải cách thể chế đàm phán đối ngoại, nâng cao năng lực tham gia quản lý kinh tế quốc tế, Cải tiến cơ chế điều phối quyết sách kinh tế thương mại đối ngoại, tăng cường mức độ điều phối cấp cao. Cải cách chế độ nhân sự đối ngoại, xây dựng cơ chế lưu động nhân tài hai hướng giữa các cơ quan chính phủ và tổ chức quốc tế. Xây dựng cơ chế quyết sách kinh tế đối ngoại có sự tham dự của các nhà tham mưu chiển lược, tăng cường năng lực khởi xướng của nước ta trong cơ chế quản lý kinh tế quốc tế.

III. 3 bước đột phá cải cách lớn

1. Mở cửa điều kiện tiếp cận thị trường, thu hút các nhà đầu tư bên ngoài, tăng cường cạnh tranh.

2. Đi sâu cải cách thể chế bảo đảm xã hội, “bảo đảm xã hội cơ sở của quốc dân”;

3. Đi sâu cải cách thể chế đất đai, đưa đất đai tập thể vào thị trường tiến  hành giao dịch.

Kiến nghị chia cải cách ra làm 3 giai đoạn, từ năm 2013-2014 là cải cách ngắn hạn, từ năm 2015-2017 là cải cách trung hạn và từ 2018-2020 là cải cách dài hạn.

 

Chú thích:

1)      Bao gồm: kinh phí xuất ngoại, kinh phí mua sắm và vận hành xe cộ, kinh phí vận hành và tiếp đãi công vụ.

2)      Còn gọi là “chuyển chi” (transfer payments), là một khoản chi tiêu của chính quyền, không phải để mua hàng hóa và dịch vụ, mà chỉ là hành động chuyển tiền để chi trả như trả cho phúc lợi xã hội.

3)      Ngân hàng trung ương của Trung Quốc.

4)      Quốc hội.

5)      Hội đồng Nhân dân.

6)      Còn gọi là “oil shale”.

7)      Tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí.

8)      Vận chuyển và tàng trữ dầu khí.

9)      Chế biến dầu khí, hóa dầu, kinh doanh và phân phối thành phẩm

dầu khí.

10)  Quyền sở hữu, sử dụng, xác nhận, xác định tài nguyên, quyền đăng ký tài nguyên đối với đất đai bao thầu ở nông thôn, đất có nhà bên trên, đất lâm nghiệp, nhà cửa…

11)  Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận hợp pháp của cấp có thẩm quyền mới có giấy chứng nhận của chính quyền thôn, xã, do chưa nộp thuế, phí theo quy định.

12)  Là hình thức biểu hiện về pháp luật của quan hệ chế độ sở hữu, gồm quyền sở hữu, chiếm hữu, chi phối, sử dụng, thu lợi và quản lý.

13)  Còn gọi là thị trường OTG – thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết.

14)  Thị trường chuyển nhượng cổ phiếu của các công ty trách nhiệm hữu hạn ở Công viên Cộng nghệ cao Trung Quan Thôn nhưng chưa lên sàn chứng khoán.

15)  Còn gọi là thị trường GEM, chuyên hoạt động trong lĩnh vực giúp đỡ các công ty sáng tạo mới nổi, nhất là các công ty khoa học công nghệ cao huy động vốn.

16)  Đây là một loại thuế chủ chốt trong kết cấu chế độ thuế ở Trung Quốc.

17)  Còn gọi là income bonds, thường được bán với giá thấp hơn nhiều so với mệnh giá, kèm theo cam kết trả tiền gốc nghiêm chỉnh, nhưng có đặc điểm là tổ chức phát hành chỉ phải trả lãi khi nào công ty có lời dư ra để trả.

18)  Ở Trung Quốc, để khuyến khích doanh nghiệp nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, chính sách khấu trừ thuế dành cho nghiên cứu phát triển được tính theo tỷ lệ, giả sử tỷ lệ này là 150%, thì trong trường hợp doanh nghiệp chi 100 đồng để nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, số tiền doanh nghiệp được khấu trừ trước khi tính thuế là 150 đồng (100 đồng x 150%)./.

 

Sorry, the comment form is closed at this time.

 
%d người thích bài này: