BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

Archive for Tháng Tư, 2009

Trung Quốc ở Miến Điện (1990-2009)

Posted by adminbasam trên 30/04/2009

Trung Quốc đã và đang làm gì ở Miến Điện từ 1990 đến nay

Trần Hoàng

30-4-2009

 

Miến Điện được độc lập khỏi tay Anh Quốc năm 1948.

Khi Mao Trạch Đông chiếm được Trung Hoa năm 1949, nhiều người Trung Hoa Quốc gia đã chạy sang Miến Điện. Chính phủ mới độc lập của Miến  Điện đã đánh đuổi người của phe Tưởng Giới Thạch chạy ra Đài Loan. Một số người đã chịu đựng và ở lại Miến Điện.

Ne Win lên làm thủ tướng từ 1958. Năm 1962, Ne Win tuyên bố “Tiến lên chủ nghĩa xã hội theo kiểu Miến Điện” và kiêm nhiệm luôn hai chức vụ, chủ tịch nước và thủ tướng.

Trong các năm tiếp theo, 1967-1972, Ne Win đã cấm việc giáo dục bằng tiếng Trung Hoa trong các trường học, rồi quốc hữu hóa các trường học, quốc hữu hóa các công ty của người Hoa, và tìm cách đuổi 100.000 người Hoa về nước. Những năm sau đó, ông Ne Win đã thất bại trong việc xây dựng nền kinh tế trong suốt thời gian ông cầm quyền cho đến 1988.

Dân chúng bị đói khổ và hàng trăm ngàn người Miến Điện đã bỏ xứ đi lánh nạn trong các nước khác.

Vì thất bại về mặt kinh tế và bị dân chúng biểu tình khắp nơi, Ne Win từ chức năm 1988.

Tướng Saw Maung đã đảo chính và tước tất cả niềm hy vọng của phe dân chủ vào năm 1988 và thi hành độc tài quân phiệt cho đến khi ông ta đột ngột từ chức vì lý do bệnh hoạn vào năm 1992 và chết vào năm 1997.

Sau khi lên cầm chính quyền vào năm 1992, tướng Than Shwe và các tướng lãnh khác đã thi hành các chính sách rất dã man với dân chúng của họ giống như dưới thời tướng Saw maung. Tất cả những ai lên tiếng chỉ trích chính phủ đều bị bỏ tù và giết chết. Chính phủ Miến cấm quyền tự do ngôn luận, và tất cả các đài phát thanh, truyền hình, báo chí đều nằm trong tay của chính phủ Miến. Tất cả các ký giả Miến đều lãnh lương của chính phủ.

Bị các nước Tây Phương và Mỹ cấm vận xa lánh, Miến rơi vào túng quẫn và nền kinh tế đi xuống. Để duy trì chế độ quân phiệt và cũng để trả ơn về sự giúp đỡ của Trung Quốc đã viện trợ vũ khí và xúi dục dân chúng chống lại Ne Win,Tướng Saw Maung và tướng Than Shwe đã ký các hợp đồng bán các khu rừng ở Miến Điện, các mỏ khoáng sản, và nguyên liệu cho các công ty quốc doanh Trung Quốc vào những năm 1990. Quốc hội của  Miến Điện chỉ là bù nhìn vì các đại biểu cũng là các con cái anh em giòng họ và các người lên tiếng hổ trợ chính quyền Than Shwe và trong đảng phái của họ.

Các nhân vật cao cấp trong nội các và chính phủ Miến điện là các tướng lãnh quân phiệt. Họ chia nhau hợp đồng của các doanh nghiệp Trung Quốc, lấy tiền, ăn chơi phung phí không bút nào tả xiết. Nhờ tiền ăn chia với các doanh nghiệp người Trung Quốc, các tướng lãnh của Ne Win và giới cầm quyền gởi con cái qua du học nước ngoài. Nhóm tướng lãnh cầm quyền suốt hơn 20 năm qua đã cai trị đất nước một cách độc tài và khổ còn hơn dưới thời Ne Win.

Năm 2006, Bắc Kinh khuyến dụ chính phủ Miến điện dời thủ đô vào sâu trong đất liền, và lên phía bắc “để tránh sự tấn công của bọn phản động và các thế lực thù địch từ bờ biển đổ bộ vào”. Chính phủ Miến Điện đã tin lời ấy và dời đô.

Trung Quốc liền bỏ tiền ra đầu tư xây dựng thủ đô mới cho Miến Điện. Đường sá, cầu cống, dinh thự đều do các doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu làm cho Miến Điện. Đổi lại, Trung Quốc nhúng tay ngày càng sâu vào các hoạt đông chính trị và kinh tế của Miến Điện. Trong 15 năm qua, Trung Quốc đã làm chủ hầu hết các mỏ khoáng sản của Miến Điện, và trúng hết hợp đồng các nhà máy hóa chất, xi măng, luyện kim của Miến Điện.

Nhờ mua chuộc hết các cấp của chính phủ Miến điện, từ 1990 đến nay, Trung Quốc đã cho di dân vào Miến Điện khoảng hơn 500.000 người, so với tổng dân số Miến Điện là 4.100.000 ngàn người. Người Miến Điện gốc Trung Hoa đã từng hiện diện ở đây từ trước 1960 và có dân số khoảng 1.6 triệu người. Ngôn ngữ chính là Miến Điện và những người có học cao thường nói được cả Anh Ngữ và tiếng Mandarin (quốc ngữ chính của Trung Quốc và Đài Loan).

Chính quyền Miến Điện không để ý gì đến đời sống của đại bộ phận dân chúng Miến Điện. Dân Miến sống mấy chục năm qua trong đói khổ, bệnh sốt rét, bệnh AIDS. Tệ nạn đĩ điếm khắp nước vì dân chúng quá nghèo. Quán karaoke nổi lên khắp nơi để phục vụ các du khách Trung Quốc và những du khách ấu dâm ngoại quốc. Hiện có 1200 nhân viên của tổ chức Y Sĩ không Biên Giới đang chăm sóc sức khỏe cho dân chúng Miến Điện bị bệnh lao, sốt rét, SIDA và bị thiên tai (hàng năm).

Các nhà lãnh đạo chính phủ, các tướng lãnh và những người giàu có ở Miến Điện đều đi khám và chữa bệnh tại Singapore và Thái Lan. Trong khi đó, dân chúng Miến phải trả tiền cho việc điều trị bệnh ở trong nước cũng rất đắt. Trung bình 10 ngày nằm bệnh viện thì họ phải trả khoảng 2300 Mỹ kim.

Hàng năm, Miến điện đều chịu các thiên tai như bão, lụt, mất mùa…cứu trợ của quốc tế lại là một dịp để cho giới chức chính phủ tham nhũng tiền và vật phẩm cứu trợ.

Nguồn tham khảo:

1.http://en.wikipedia.org/wiki/Burma
2.http://en.wikipedia.org/wiki/Saw_Maung
3./http://en.wikipedia.org/wiki/Yangon
 

Nhận Xét:

_các nhà dân chủ Miến Điện biểu tình vào ngày 8 tháng 8 năm 1988 và cuộc bầu cử tự do vào năm 1990 của bà Aung San Suu Kyi

_Chính trị: chính phủ Miến Điện lệ thuộc vào Trung Quốc và bán hết tài nguyên khoáng sản cho Trung Quốc từ 1992 cho đến nay.

_Sự di dân của người TQ vào Miến Điện trên 500.000 người chiếm hơn 10% dân số trong 17 năm qua.

_Biên giới và Lãnh hải: Trung Quốc chiếm hết vùng đất biên giới của Miên Điện mà không gặp nhiều trở ngại.Trung quốc có kế hoạch thông ra Ấn Độ Dương bằng xâm chiếm Miến  Điện dần dần.

_Y tế của Miến Điện: Giới nhà giàu và các viên chức chính phủ đều khám bệnh và chữa trị tại Singapore và Thái Lan.

_Giáo dục: con cái của các viên chức chính phủ,  các tướng lãnh và của giới nhà giàu đều đi du học ở các nước ngoài.Nên giáo dục ở trong nước bị chính quyền kềm chặt chẻ. Đảng cầm quyền hiện diện trong các trường học.

_Công Nghiệp: Các doanh nghiệp của Trung Quốc nắm hết nền công nghệ của Miến Điện. TQ xây dựng các nhà máy Hóa Chất, xi măng, và trúng thầu hầu hết các công trình đường sá và cầu cống của Miến Điện.

_Quốc hội của Miến Điện chỉ là bù nhìn. Các đại biểu lo sợ và tuân theo tất cả những gì nhóm tướng lãnh cầm quyền ra lệnh. Không có đảng đối lập trong quốc hội và trong cả nước.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

 

Posted in Trung Quốc | Leave a Comment »

Trung Quốc, Bạn hay Thù?

Posted by adminbasam trên 30/04/2009

The Wall Street Journal

Trung Quốc, Bạn hay Thù?

ANDREW BROWNE GORDON FAIRCLOUGH

Ngày 18-4-2009

 

Một khối hang động phức hợp mở toang ra ở miền bờ biển toàn núi đá của tỉnh đảo Hải Nam thuộc phía nam Trung Quốc là nơi trú ẩn của một trong những thứ vũ khí giết người mới nhất và tiềm tàng nhất trong kho vũ khí của Bắc Kinh: một chiếc tàu ngầm sản xuất trong nước được thiết kế để phóng các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân *.

Vì thế, khi chiếc USNS Impeccable, một tàu khảo sát của Hoa Kỳ, đang  điều tra vùng biển này vào tháng trước, Trung Quốc liền đặt một cái bẫy. Năm chiếc tàu của Trung Quốc đã vây bọc quanh chiếc tàu Hoa Kỳ. Các thành viên trong thủy thủ đoàn [Trung Quốc] đã ném những mảnh  gỗ vào lối di chuyển của  tàu Impeccable và sử dụng những câu liêm dài để kéo các thiết bị âm thanh của tàu. Khi các thủy thủ Hoa Kỳ dùng vòi cứu hỏa xịt nước vào những kẻ tấn công họ, đám thủy thủ có khuôn mặt vô cảm người Trung Quốc ở trên boong của một trong những con tàu đó đã cởi hết quần áo, chỉ mặc đồ lót  rồi tiến tới gần trong phạm vi 8 mét, Ngũ Giác Đài cho biết.

Cuộc chạm trán tại vùng Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], kéo dài khoảng 3 tiếng rưỡi, có khuynh hướng gửi đi một thông điệp rõ ràng. Phía Trung Quốc cho rằng chiếc Impeccable đang vị phạm luật pháp quốc tế qua việc điều khiển các hoạt động giám sát trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. (Trái lại) Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác coi hành động đó là hợp pháp.

Khi những chiếc tàu khảo sát của Hoa Kỳ thăm viếng khu vực này trong tương lai, thì theo ông Su Hao, giám đốc Trung tâm Quản lý Chiến lược và Xung đột thuộc trường Đại học Quan hệ Quốc tế của Trung Quốc, nói “Họ sẽ phải thận trọng hơn.”

Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ xem Trung Quốc như là một quốc gia, mà tại thời điểm nào đó, chắc chắn sẽ đạt được khả năng để thách thức quân đội Hoa Kỳ trên quy mô toàn cầu.

Hoa Kỳ trong những năm gần đây đã thay đổi để gia tăng các lực lượng quân sự của mình tại Thái Bình Dương và đã khuyến khích người đồng minh Nhật Bản thực hiện hành động tương tự.

Washington và Tokyo đang làm việc cùng nhau để đẩy mạnh hệ thống phòng thủ chống tên lửa, nhằm chống lại những mối đe doạ từ cả Bắc Triều Tiên lẫn Trung Quốc. Và một số nhân vật trong Bộ Quốc phòng đã đề cao “mối đe doạ Trung Quốc” để thanh minh cho mức chi tiêu lớn hơn cho những hệ thống vũ khí mới.

Vào tuần này, Đô đốc Wu Shengli, viên sĩ quan cao cấp nhất của hải quân Trung Quốc — được biết chính thức như là Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân — đã cho biết rằng binh chủng này sẽ hành động nhanh hơn để hiện đại hóa kho chứa vũ khí của mình và xây dựng những chiến hạm lớn hơn và có nhiều khả năng hơn “để gia tăng khả năng chiến đấu cho các cuộc thủy chiến trong khu vực” bằng cách sử dụng các loại vũ khí công nghệ cao.

Trong một cuộc phỏng vấn với hãng tin Tân Hoa Xã của nhà nước Trung Quốc vào trước lễ kỷ niệm ngày thành lập hải quân vào tuần tới, ông cũng nói rằng hải quân sẽ cải thiện khả năng hành quân của mình trên các đại dương.

Các quan chức khác trong những tháng gần đây đã nói về công việc xây dựng chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc, tăng thêm các mối quan ngại của Hoa Kỳ rằng Trung Quốc muốn tạo một hình ảnh gây ấn tượng cho sức mạnh của họ.

Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát, thuộc cả hai phía Trung Quốc và Hoa Kỳ, đã nói rằng nỗi lo sợ về Trung Quốc bị phóng đại. Các lực lượng vũ trang của Trung Quốc hiện vẫn không phải là đối thủ đối với hỏa lực của Hoa Kỳ trên biển, trên đất liền hay trên không trung. Nhiều nhà phân tích – bao gồm các cựu sĩ quan cao cấp trong quân đội – đã không tin rằng Trung Quốc có ý định làm cho Hoa Kỳ hoảng hốt, như là Liên Xô cũ đã từng làm. Vì hiện nay,  quân đội Trung Quốc vẫn còn lệ thuộc vào một sự hòa trộn giữa các loại vũ khí công nghệ cao, ví như những chiếc tàu ngầm mang hoả tiễn hạt nhân thế hệ Jin, với những món đồ đánh cắp có công nghệ thấp và các món đồ thủ công nhằm dọa dẫm kẻ khác.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nói rằng sự thăng tiến của nền kinh tế nước họ mang tính chất hòa bình. Tuy nhiên, có nhiều lần nó được đi kèm theo bởi một thứ chủ nghĩa dân tộc rất ồn ào – một ước muốn khao khát phục hồi những gì mà nhiều người ở nước này coi như là vị thế đúng đắn của Trung Quốc trên toàn cầu, vị thế này đã bị chiếm đoạt bởi những đế quốc phương Tây trong thế kỷ 19 và quân phiệt Nhật trong thế kỷ 20.

Sự gây hấn của Trung Quốc hướng tới Đài Loan và bí mật quân sự của họ làm cho các thế lực diều hâu từ Washington cho tới New Delhi dễ dàng vẽ nên một bức tranh về một Trung Quốc đầy hận thù đang mưu tính cho con đường quay trở lại của họ.

Cú phóng bị thất bại của một phi đạn giống như loại tên lửa của Bắc Triều Tiên vào ngày 5 tháng Tư đã làm phức tạp thêm tình hình này. Việc này chắc chắn thúc đẩy Nhật Bản tăng cường sức mạnh quân sự của mình và đầu tư nhiều hơn vào những nỗ lực phòng thủ tên lửa, mà giờ đây Nhật đang được hợp tác với Hoa Kỳ. Điều đó có thể làm tăng thêm mối căng thẳng với Trung Quốc, nước vốn đã coi liên minh Hoa Kỳ-Nhật Bản như là một mối quan hệ đối tác được thiết lập để chế ngự sức mạnh của Trung Quốc.

 Trung Quốc khao khát cho sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên, lo ngại rằng nếu như Bắc Tiều Tiên sụp đổ, thì một làn sóng tị nạn sẽ tràn qua các vùng biên giới của mình, và sẽ kết thúc bằng tình trạng mặt đối mặt với quân đội Hoa Kỳ đang được trú đóng tại miền Nam.

 Theo chính phủ Trung Quốc, ngân sách quốc phòng của nước này cho năm 2008 là 60 tỉ đô la Mỹ, tăng gần 18% so với một năm trước. Ngũ Giác Đài tin là các số liệu chính thức của Trung Quốc thực chất không đúng với chi tiêu quốc phòng trên thực tế. Họ ước đoán rằng năm ngoái Trung Quốc đã chi từ 105 đến 150 tỉ đô la cho những phí tổn liên quan tới quân sự, vì quân đội của Trung Quốc tự chuyển đổi từ một đội quân đông đảo có công nghệ thấp kém được dành để giao tranh trong một cuộc chiến làm tiêu hao sinh lực chống lại những kẻ xâm lăng sang một lực lượng tinh vi, nhanh nhạy hơn có khả năng phóng hỏa lực vượt quá biên giới Trung Quốc.

Việc tập trung chính yếu của Trung Quốc vào hiện đại hóa quân đội của mình trong vài thập kỷ qua đã và đang ngăn chặn Đài Loan khỏi việc thiết lập một nền độc lập chính thức và chặn đứng mọi nỗ lực của Hoa Kỳ đến trợ giúp hòn đảo này trong một cuộc khủng hoảng.

Hiện nay, một số sĩ quan hải quân Trung Quốc đang nói về cái ngày tuần tiễu ra xa tới Ấn Độ Dương, để nhớ lại những hình ảnh từ đế chế Trung Hoa cách đây 600 năm trước, khi một hạm đội gồm những con tàu chất cao ngất châu báu được chỉ huy bởi Đô đốc hoạn quan Hồi giáo Zheng He, hay còn gọi là Trịnh Hòa, của Trung Quốc dong buồm qua những vùng biển này trên đường tới đông Phi.

Bất chấp những phản đối rằng lực lượng hải quân có năng lực hơn của mình sẽ không gây nên hồi chuông cảnh báo trong số các quốc gia láng giềng hay với Washington, các tàu chiến và tàu ngầm của Trung Quốc đã và đang tiến ra xa khơi hơn nữa. Trong ít nhất là vài trường hợp họ đã kiểm tra khả năng phòng thủ của các quốc gia khác và gửi tín hiệu về những ý định của hải quân Trung Quốc sẽ là một tay chơi trên các đại dương.

Một số nhà phân tích quân sự Hoa Kỳ giờ đây nhìn thấy mối đe doạ rộng lớn hơn đối với ưu thế của Mỹ trên biển, đã liên kết  sự mở rộng ảnh hưởng thương mại và kinh tế của Trung Quốc trên khắp toàn cầu. Nếu như Trung Quốc có thể thách thức một con tàu giám sát của Hoa Kỳ ngoài xa bờ biển của họ, thì họ đang hỏi rằng, liệu siêu cường kinh tế Á châu đang lớn dậy này trong tương lai có xông pha tuần tiễu trên những tuyến hải hành thương mại của mình tại Eo biển  Malacca (qua những nơi mà hầu hết nguồn cung cấp dầu lửa thiết yếu của Trung Quốc phải đi qua), hay thậm chí cả Vịnh Ba Tư hay không? Quan niệm bi quan này đề cập nhiều về những mối lo ngại của siêu cường duy nhất trên thế giới (ý nói Mỹ) cũng ngang bằng như khi họ nói về những khả năng của Trung Quốc.

Về phương diện lịch sử, phương Tây đã thể hiện cả những niềm hy vọng to lớn lẫn những mối lo ngại u ám về Trung Quốc. Sự thay đổi tình cảm giữa hai thái cực này từ lâu đã gây bối rối cho các mối quan hệ của phương Tây với gã khổng lồ châu Á này. Một động lực có tính mâu thuẫn giờ đây đang tác động lên các mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, đây là một mối quan hệ quan trọng nhất của thế kỷ 21. Trong khi những động lực kinh tế đang kéo hai nước lại gần nhau hơn (Trung Quốc đã trở thành chủ nợ lớn nhất của Mỹ), thì các mối quan hệ quân sự lại ngưng trệ.

Các tướng lĩnh và đô đốc tại Ngũ Giác Đài đã phản đối sự thách thức của Trung Quốc trên các vùng biển quốc tế, nơi mà Hải quân của họ đã hoạt động hơn nửa thế kỷ qua – thậm chí cả khi những vùng biển này nằm ngay trước ngưỡng cửa của Trung Quốc. Trong bản thuyết minh của ông ta trước uỷ ban quân lực của Thượng viện, Đô đốc Timothy Keating, vị sĩ quan đảm trách lực lượng vũ trang Mỹ tại Á châu, đã cho biết rằng hành động ngăn chận tàu Impeccable ngoài biển Đảo Hải Nam cho thấy rằng người Trung Quốc “không sẵn sàng chấp thuận những tiêu chuẩn ứng xử có thể chấp nhận được.”

Ông Su thuộc trường đại học China Foreign Affairs University cho rằng thế giới đã hiểu sai về cơ bản những ý định của Trung Quốc. Trung Quốc là một cường quốc lục địa, ông nói, quan tâm về việc giữ gìn những vùng biên giới của mình và dùng ước muốn của mình dành cho an ninh quốc nội và đoàn kết trong nước. Đối với những ai coi  mối đe doạ trong việc bành trướng ra biển của Trung Quốc, ông đưa ra lời khuyên này: “Hãy nghĩ ngơi.”

Bản báo cáo thường niên mới đây nhất của Ngũ Giác Đài về quân đội Trung Quốc, được công bố vào cuối tháng trước, đã bị chỉ trích rộng rãi ở Trung Quốc như là biểu hiện thành kiến và gieo hoang mang. Bản báo cáo nói rằng “khả năng của Trung Quốc duy trì sức mạnh quân sự ở các nơi cách xa Trung Quốc vẫn còn hạn chế,” song bản báo cáo nầy ghi nhận rằng: lực lượng vũ trang của Trung Quốc tiếp tục “phát triển và đưa ra những công nghệ quân sự mang tính đột phá” đang làm “thay đổi  thế cân bằng quân sự trong vùng này và có những ý định vượt quá  vùng châu Á-Thái Bình Dương.” Báo cáo này cũng đánh giá: “Nhiều điều không rõ ràng bao quanh diễn tiến tương lai của Trung Quốc.”

Ông Yuan Peng, giám đốc Viện Nghiên cứu Mỹ thuộc Viện các Quan hệ Quốc tế Đương đại của Trung Quốc ở Bắc Kinh nói rằng: bản báo cáo của Hoa Kỳ “phóng đại sức mạnh quân sự của Trung Quốc” bằng cách đánh giá quá cao khả năng của đất nước này đối với việc hướng sức mạnh đi xa khỏi vùng lãnh thổ của nó. “Sức mạnh quân sự của Trung Quốc vẫn ở cấp độ của một quốc gia đang phát triển. Nó thua xa so với Hoa Kỳ, Nga và thậm chí Nhật Bản và Ấn Độ trong một số ý nghĩa nào đó.”

Theo quan điểm của ông Yuan, mối lo của Mỹ – sau các cú đòn đánh vào tâm lý quốc gia nầy từ những vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng Chín 2001 và tình trạng suy sụp tài chính hiện đang diễn ra – đã vượt quá xa về sự tiến bộ quân sự của Trung Quốc. “Những gì làm cho dân chúng phải lo sợ là không phải với thực chất về lực lượng quân sự của chúng tôi, mà là sự trỗi dậy về kinh tế của Trung Quốc và kiểu mẫu chính trị của người Trung Quốc,” Ông nói. “Trung Quốc đang lớn dậy rất nhanh chóng, dân số quá đông và hệ thống xã hội quá khác biệt” điều đó làm cho nó kích động tâm lý không yên.

Tuy nhiên, tầm cỡ quá lớn của Trung Quốc – kích cỡ lục địa của nó và dân số quá đông – đã phủ bóng lên châu Á, và việc hiện đại hóa quân đội của nước này đe doạ một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực.

Nhật Bản, nước phụ thuộc nặng nề vào dầu thô và nguyên liệu từ Trung Đông và Úc, đang lo ngại rằng một ngày nào đó họ có thể sẽ đụng phải một lực lượng hải quân Trung Quốc trên cùng những tuyến đường biển, tuyến đường nuôi dưỡng mức tăng trưởng nhanh chóng cho Trung Quốc.

Một vài chiến lược gia Ấn Độ lo rằng Trung Quốc đang giành được một khả năng phá vỡ hoạt động thương mại trên biển của nước này (Ấn Độ Dương), và đang bao vây Ấn Độ qua những mối liên kết ngoại giao và quân sự với các quốc gia láng giềng từ Myanmar cho tới Pakistan.

Trong số những mối lo lớn nhất đối với Hoa Kỳ là đội tàu ngầm được cải thiện của Trung Quốc, đội tàu nầy có thể gây trì hoãn hoặc cản trở những nhóm hàng không mẫu hạm  của Hoa Kỳ trong việc đáp ứng tới  một cuộc khủng hoảng bên trong và quanh Đài Loan, quốc đảo mà Bắc Kinh đã thề là sẽ bắt phục tùng sự cai quản của mình, bằng vũ lực nếu thấy cần thiết.

Trung Quốc đang chĩa hơn 1.000 tên lửa về phía Đài Loan nhằm làm nhụt chí bất cứ nỗ lực nào từ các nhà lãnh đạo đảo này muốn thiết lật quyền độc lập chính thức. Trung Quốc cũng đã kiếm được tám chiếc tàu ngầm chạy bằng động cơ dầu cặn (diesel) của Nga, là thứ rất khó bị phát hiện khi lặn xuống đáy biển, và Trung Quốc đang đóng những chiếc tàu ngầm tấn công của riêng họ.

Một số trong những tàu chiến và tàu ngầm mới hơn trong đội tàu của Trung Quốc được trang bị những tên lửa đối-hạm tầm thấp do Nga sản xuất có thể bay với vận tốc siêu âm. Những tên lửa Sizzler này, và một tên lửa đạn đạo đối-hạm đang được phát triển, có vẻ như để nhắm vào việc giúp cho Trung Quốc có khả năng tấn công các hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ, theo các sĩ quan hải quân Mỹ đánh giá. Các hàng không mẫu hạm đã và đang là trụ cột chính của sức mạnh hải quân của Hoa Kỳ trong nhiều thập kỷ.

Trong lúc Trung Quốc chưa có riêng chiếc hàng không mẫu hạm nào, các quan chức nước này đã bắt đầu nhắc đi nhắc lại công khai về việc họ sẽ bổ sung thêm một chiếc vào đội tàu của riêng mình. Các xưởng đóng tàu của Trung Quốc có vẻ ít có khó khăn trong việc xây dựng một loại tàu sân bay cỡ trung bình mà hầu hết các chuyên gia nghĩ rằng Trung Quốc sẽ cho hạ thủy. Song việc nắm vững các hoạt động của  một đơn vị đặc biệt bảo vệ tàu sân bay  và những chiếc phi cơ của tàu nầy sẽ cần đến rất nhiều năm, các chuyên gia đánh giá.

Các sĩ quan hải quân Trung Quốc tin rằng lực lượng của họ phải có khả năng mở rộng ra ngoài giới hạn của một chuỗi các hòn đảo quan trọng nhất – chạy từ Nhật Bản ở phía nam và vòng quanh sang phía đông của Đài Loan – Các chuỗi đảo nầy nằm giữa Trung Quốc và một dải rộng của Thái Bình Dương. Để có thể di chuyển những chiến hạm và tàu ngầm vào trong Thái Bình Dương sẽ là điều mang ý nghĩa quan trọng đối với những nỗ lực của Trung Quốc nhằm ngăn chặn hoặc làm chậm lại sự tiếp cận của các tàu chiến Hoa Kỳ tới Đài Loan hay đại lục.

Các đội tàu của Trung Quốc đã và đang mở rộng hoạt động ra xa hơn bờ biển của mình. Vào tháng 10 năm ngoái, một đội tàu nhỏ thuộc bốn chiến hạm hải quân Trung Quốc, bao gồm một chiếc khu trục hạm mang tên lửa có điều khiển và hai khu trục hạm loại nhỏ tân tiến nhất của nước này, đã băng ngang qua Eo biển Tsugaru chật hẹp giữa những quần đảo chính của Nhật Bản là Honshu và Hokkaido và tiến vào vùng biển Thái Bình Dương. Người Nhật coi vụ này như là một cuộc biểu dương sức mạnh đang lớn dần của Trung Quốc.

Các tàu ngầm của Trung Quốc cũng đã bị phát hiện một số lần đang sục sạo quanh các vùng biển của Nhật Bản. Năm 2004, một tàu ngầm Trung Quốc lặn ngang qua một eo biển hẹp khác trong một vụ mà người Nhật coi là một sự vi phạm vào luật biển quốc tế. Các quan chức quốc phòng Hoa Kỳ và Nhật Bản diễn dịch hành động này như là một nỗ lực có lẻ nhằm vẽ bản đồ và thu thập tình báo về những tuyến giao thông từ Biển Đông Trung Quốc cho tới Thái Bình Dương.

Căn cứ hải quân mới ở [đảo] Hải Nam, nơi xem ra đủ lớn để cung cấp nơi trú đóng cho các chiến hạm cũng như các tàu ngầm tấn công và mang tên lửa đạn đạo, đem đến cho hải quân Trung Quốc cửa ngõ xâm nhập trực tiếp vào các tuyến đường biển quốc tế có ý nghĩa sống còn. Nó có thể cho phép các tàu ngầm lén lút triển khai vào những vùng biển nước sâu của Biển Đông [Biển Nam Trung Hoa], Ngũ Giác Đài đánh giá.

Các nhà phân tích từ Liên đoàn các Nhà khoa học Mỹ, những người đã nghiên cứu các bức ảnh vệ tinh chụp căn cứ Hải Nam cho biết căn cứ này dường như cũng có một tòa nhà  theo kiểu đã được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng để khử từ tính của các tàu ngầm mang tên lửa hạt nhân trước khi chúng được triển khai, nhằm làm cho chúng khó bị phát hiện hơn. Nếu như điều đó là đúng, thì cho thấy mục đích của Trung Quốc sử dụng những tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của mình như là một phần trong hệ thống vũ khí nguyên tử của mình. Cơ quan liên bang cho rằng không có bằng chứng nào cho thấy tàu ngầm mang tên lửa hạt nhân từng tiến hành một cuộc tuần tra đơn phương mang tính ngăn chặn.

Bộ Quốc phòng đã từ chối bình luận. Cuốn sách trắng về phòng thủ gần đây nhất nói rằng một trong những nhiệm vụ của hải quân là “khả năng phản công bằng vũ khí hạt nhân.”

Bất chấp cuộc chạy đua hiện đại hóa của Trung Quốc, nhiều điểm yếu kém vẫn còn tồn tại trong kho vũ khí của nước này. Những đánh giá riêng của các sĩ quan quân đội Trung Quốc về các khả năng của họ, chứa đựng trong các nhật ký  và trên phương tiện truyền thông quân đội, cho thấy rằng họ đã không đạt được các mục tiêu của mình trong việc có thể chiến đấu và chiến thắng một cuộc chiến tranh cục bộ bằng công nghệ cao.

Những hạn chế này đã được thể hiện một cách đau đớn trong suốt thời gian diễn ra trận động đất vào tháng Năm năm ngoái – một hoạt động diễn ra trong thời bình trên lãnh thổ riêng của Trung Quốc.

Trung Quốc đã huy động hơn 114.000 binh lính để tham gia vào những nỗ lực trợ giúp sau thảm họa.

Thế nhưng căn cứ vào tình trạng thiếu khả năng lập cầu không vận của quân đội, chỉ có một lực lượng nhỏ là có thể tới được khu vực bị động đất tàn phá bằng phi cơ trong ngày đầu tiên hoặc thậm chí sau khi động đất đã nổ ra. Một đơn vị thủy quân lục chiến đã trải qua nhiều ngày lái xe từ căn cứ của họ ở tỉnh Quảng Đông thuộc miền nam. Công việc cứu tế cũng cho thấy tình  trạng thiếu thốn phi cơ trực thăng rất nghiêm trọng.

Dai Xu, một đại tá trong lực lượng không quân Trung Quốc, đã nói rằng các cuộc hành quân của quân đội trong trận động đất cho thấy rằng lòng yêu nước và tinh thần can đảm không thể “che đậy được những yếu kém trong khả năng trang bị và công nghệ của quân đội.” Đại tá Dai, viết trong một tập san về quan hệ đối ngoại của Trung Quốc, cho  rằng “một quân đội mà không có khả năng cơ giới hóa đường không thì không thể đủ tiêu chuẩn để nói về tin học hóa,” một cách ám chỉ tới cuộc chiến tranh công nghệ cao.

Theo những ước tính của riêng Ngũ Giác Đài, khả năng hạn chế của Trung Quốc trong việc di chuyển và duy trì các binh lính ra xa ngoài lãnh thổ của mình đã không được cải thiện đáng kể từ năm 2000. Ngũ Giác Đài cũng ước tính rằng bất chấp việc mua sắm thoải mái các trang thiết bị mới, chỉ có 20% hệ thống vũ khí mà không lực Trung Quốc sử dụng là “hiện đại”, cùng với 40% tàu ngầm của hải quân và chừng 30% các loại tàu nổi khác.

Vấn đề nghiêm trọng là Trung Quốc không có kinh nghiệm trong việc giao tranh trong một cuộc chiến hiện đại. Cuộc xung đột quan trọng gần đây của nước này là một cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 với Việt Nam. Mặt khác, quân đội Hoa Kỳ, đã gần như phải dính líu triền miên vào những cuộc xung đột kể từ khi bắt đầu cuộc Chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư năm 1990.

Để bù trừ cho những khiếm khuyết của mình, quân đội Trung Quốc đã đi theo một chiến lược đáng ngạc nhiên và bí mật để làm cho các lực lượng Mỹ không đề phòng. Họ gọi chiến lược này là “chiếc gậy của thích khách,” một ám chỉ tới cây kiếm hoặc chiếc dùi cui được che giấu. Trong phương cách này,  giới quân sự tin là, lực lượng quân sự có năng lực thấp về kỹ thuật có thể giành được lợi thế trước một đối phương có trình độ công nghệ cao.

Những hành động lén lút của Trung Quốc càng làm tăng thêm những mối nghi ngờ của Hoa Kỳ. Vụ ngăn chặn chiếc tàu Impeccable đã gợi lại một màn tương tự trong khu vực vào năm 2001 khi một chiếc chiến đấu cơ của Trung Quốc va chạm với một phi cơ do thám EP-3 của Hoa Kỳ. Viên phi công Hoa Kỳ đã cố bảo toàn cho chiếc phi cơ bị hư hỏng của mình để thực hiện một cú hạ cánh xuống [đảo] Hải Nam, nơi phi hành đoàn 24 người của anh ta đã bị giam giữ trong 11 ngày. Chiếc phi cơ của Trung Quốc đã đâm xuống đất làm viên phi công tử nạn. Năm 2007, Trung Quốc đã gây sốc cho toàn thế giới qua việc cho nổ tung một trong những vệ tinh theo dõi thời tiết quá cũ của họ bằng một tên lửa đạn đạo, trút các mảnh vỡ vào trong không gian.

Không lực và Hải quân Hoa Kỳ gần đây đã làm dấy lên nỗi ám ảnh về một nước Trung Quốc tham chiến qua những đề nghị có thêm những chiếc chiến đấu cơ F-22 và các phi cơ ném bom tầm xa, cũng như việc kín đáo sản xuất một thế hệ khu trục hạm mới mang tên lửa có điều khiển, được biết tới với cái tên Zumwalt. Tuy nhiên, vào tháng này, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates cho biết ông đã lên kế hoạch dừng các cuộc mua sắm thêm phi cơ F-22 này và chấm dứt chương trình Zumwalt như là một phần của một sự xem xét lại toàn bộ những ưu tiên về vũ khí để định hướng lại quân đội Hoa Kỳ hướng tới việc chiến thắng những cuộc xung đột không theo qui ước như cuộc chiến ở Afghanistan tốt hơn là giao tranh với Trung Quốc, Nga hoặc các cường quốc lớn khác.

Tại Trung Quốc, một lực lượng có tiếng nói trọng lượng trong công chúng đang gây sức ép đòi có một lực lượng quân sự quả quyết hơn. Bai Jieming, người điều hành một cửa hàng ở thành phố cảng miền nam Shenzhen chuyên bán các kiểu mẫu tàu chiến Trung Quốc, nói rằng những bản sao của một trong những khu trục hạm đã được gửi đi từ tháng 12 để tuần tra chống cướp biển trên Vịnh Aden, loại “168″, đã được bán hết. Ông ta nói rằng người dân Trung Quốc ước ao có một khu trục hạm. “Tôi thậm chí còn muốn quyên cúng tiền để giúp đóng chiến hạm,” ông Bai nói.

Vụ tàu Impeccable đã làm bùng lên những nỗi lo sợ về những rủi ro từ việc tính toán sai lầm. Năm 2007, một chiếc tàu ngầm Trung Quốc đã nổi lên khỏi mặt nước trong phạm vi tầm bắn của chiếc hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ Kitty Hawk trong thời gian cuộc diễn tập đang diễn ra gần Philippines. Viên chỉ huy vào thời điểm đó trên Thái Bình Dương, Đô đốc William Fallon, cho biết biến cố nầy có thể “leo thang trở thành một điều gì đó không thể tiên đoán trước.”

Thêm vào những mối nguy hiểm, theo như lời một quan chức Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, là những đường dây liên lạc không rõ ràng giữa quân đội Trung Quốc và các bộ phận khác của chính phủ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tỏ ra “ngạc nhiên, sốc và bối rối” trước những phản đối kịch liệt từ Hoa Kỳ và các quốc gia khác, như Nga, sau khi quân đội của Trung Quốc bắn hạ chiếc vệ tinh thời tiết, ông nói. Điều này có thể tránh được nếu như họ nhận được lời khuyên tốt hơn từ các nguồn phi quân sự.”Có một quá trình học hỏi để trở thành một cường quốc,” ông nói.

Trung Quốc đã gửi đi những tín hiệu mâu thuẫn về tham vọng của mình đối với quyền lực và ảnh hưởng trên thế giới. Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, và thúc bách để có tiếng nói có trọng lượng hơn tại các cơ quan tài chính quốc tế để phù hợp với tình trạng của mình, song họ lại liên tục làm cho người ta nhớ lại rằng về mặt thu nhập bình quân đầu người, Trung Quốc vẫn là một quốc gia đang phát triển và tương đối nghèo. Phần lớn trong chi tiêu quân sự của Trung Quốc, bao gồm những chi phí cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, đã không xuất hiện trong các số liệu chính thức của chi tiêu quốc phòng.

Những định giá vừa qua đã không coi Trung Quốc như là một siêu cường điện tử. Trung Quốc có thể đem khả năng thành thạo về điện tử của mình phát triển những chiếc máy tính chạy nhanh chưa từng thấy và những trang thiết bị liên lạc tốc độ cao cho những người tiêu dùng Mỹ thành những loại vũ khí trên không gian ảo. Thậm chí vì vậy, sẽ vẫn còn một thời gian dài trước khi Trung Quốc trở thành một lực lượng quân sự ghê gớm có lẽ có ý nghĩa nào đó mà một số người ở Hoa Kỳ có thể chứng kiến.


THE WALL STREET JOURNAL

China, Friend or Foe?

By ANDREW BROWNE and GORDON FAIRCLOUGH

APRIL 18, 2009

A cave complex blasted out of the rocky coastline on China’s southern island province of Hainan is home to one of the newest and potentially most lethal weapons in Beijing’s arsenal: a home-grown submarine designed to launch nuclear-armed ballistic missiles.

So when the USNS Impeccable, a U.S. surveillance ship, was snooping in the area last month, China set a trap. Five Chinese vessels crowded around the U.S. ship. Crew members hurled chunks of wood into the Impeccable’s path and used poles to try to snare its acoustic equipment. When U.S. sailors turn ed a fire hose on their assailants, the sodden Chinese crew aboard one of the vessels stripped to their underwear and closed to within 25 feet, the Pentagon said.

The encounter in the South China Sea, which lasted for about 3½ hours, was intended to send a clear message. China says the Impeccable was violating international law by conducting surveillance activities in its exclusive economic zone. The U.S. and many other nations view such activity as legal.

When U.S. surveillance ships visit the area in the future, says Su Hao, director of the Center for Strategic and Conflict Management at China Foreign Affairs University, “they’ll be more cautious.”

The Pentagon views China as the country most likely, at some point down the road, to acquire the capacity to challenge the U.S. military on a global scale. The U.S. in recent years has moved to strengthen its forces in the Pacific and urged its ally Japan to do the same. Washington and Tokyo are working together to boost anti-missile defenses, to defend against threats from both North Korea and China. And some in the Defense Department talk up the “China threat” to justify greater spending on new weapons systems.

This week, Adm. Wu Shengli, the top officer in China’s navy — officially known as the People’s Liberation Army Navy — said the service would move faster to modernize its arsenal and build larger and more capable warships “to boost the ability to fight in regional sea wars” using high-tech weaponry. In an interview with China’s official Xinhua news agency ahead of the navy’s 60th anniversary next week, he also said the navy would improve its ability to operate on the high seas. Other officials in recent months have talked about China building its first aircraft carrier, adding to U.S. concerns that China wants to project its power.

However, many observers, both in China and the U.S., say that fear of China is exaggerated. China’s armed forces are still no match for U.S. fire power at sea, on land or in space. Many American security analysts — including former senior military officers — do not believe that China intends to take on the U.S., as the former Soviet Union once did. For now, China’s military falls back on a mix of high-tech weaponry, such as its new Jin-class nuclear-missile submarines, and low-tech stealth and cunning.

Chinese leaders say that their country’s economic rise will be peaceful. However, it is accompanied at times by a strident nationalism — a desire to restore what many people in the country see as China’s rightful place in the world, stolen by 19th-century Western imperialists and 20th-century Japanese militarists. China’s belligerence toward Taiwan and its military secrecy make it easier for hawks from Washington to New Delhi to paint a picture of a vengeful China plotting its comeback.

North Korea’s failed launch of a ballistic-missile-like rocket on April 5 complicates the situation. It is likely to spur Japan to strengthen its military and invest more in missile-defense efforts, in which it is now cooperating with the U.S. That could add to tension with China, which already views the U.S.-Japan alliance as a partnership designed to constrain Chinese power. China yearns for stability on the Korean peninsula, fearing that if North Korea collapses, a wave of refugees will spill over its borders, and it will end up face-to-face with U.S. forces stationed in the South.

According to the Chinese government, the country’s defense budget for 2008 was $60 billion, up nearly 18% from a year earlier. The Pentagon believes China’s official figures substantially underestimate actual defense spending. It estimates that China spent $105 billion to $150 billion on military-related expenses last year, as its military transforms itself from a low-tech mass army designed to fight a war of attrition against invaders to a more sophisticated, agile force capable of projecting power beyond China’s borders.

China’s main focus in modernizing its military over the past few decades has been preventing Taiwan from establishing formal independence and stopping any effort by the U.S. to come to the island’s aid in a crisis. Now some Chinese naval officers talk of one day patrolling as far as the Indian Ocean, conjuring up images from China’s imperial past 600 years ago, when a towering armada of treasure ships led by the Chinese Muslim eunuch Admiral Zheng He, or Cheng Ho, sailed through those waters on its way to east Africa.

Despite protests that its more capable navy should be no cause for alarm among neighboring states or Washington, Chinese ships and submarines have been push ing farther offshore. In at least some cases they’ve tested the defenses of other nations and telegraphed the Chinese navy’s intentions to be a player on the high seas.

Some U.S. military analysts now see a broader threat to American domination of the seas, linked to the spread of Chinese trade and economic influence around the globe. If China can challenge a U.S. surveillance ship off its coast, they are asking, might the rising Asian economic superpower in the future aggressively patrol its maritime trade routes in the Strait of Malacca (through which most of China’s vital oil supplies pass), or even the Persian Gulf? The pessimistic view says as much about the anxieties of the world’s sole superpower as it does about Chinese capabilities.

Historically, the West has projected both fantastic hopes and dark anxieties upon China. Sentiments veering between the two extremes have long confused the West’s relations with the Asian giant. A conflicting dynamic is now at work in relations between the U.S. and China, arguably the most important relationship of the 21st century. While economic forces are pulling the two sides closer (China has become America’s largest creditor), military ties have stalled.

Generals and admirals in the Pentagon have objected to China’s challenge in international waters where their Navy has operated for more than half a century — even if those waters are right on China’s doorstep. In his testimony to the Senate’s armed services committee, Adm. Timothy Keating, the officer in charge of American forces in Asia, said that the interception of the Impeccable off Hainan Island showed that the Chinese are “not willing to abide by acceptable standards of behavior .”

Mr. Su of China Foreign Affairs University says the world fundamentally misreads Chinese intentions. China is a land power, he says, concerned about safeguarding its border regions and consumed by its desire for internal security and cohesion. To those who see menace in China’s seaward expansion, he offers this advice: “Relax.”

The Pentagon’s latest annual report on the Chinese military, published late last month, was widely criticized within China as biased and alarmist. The report says that “China’s ability to sustain military power at a distance remains limited,” but notes that its armed forces continue to “develop and field disruptive military technologies” that are “changing regional military balances and that have implications beyond the Asia-Pacific region.” It also said: “Much uncertainty surrounds China’s future course.”

The report “exaggerates Chinese military power” by overestimating the country’s ability to project force beyond its own territory, says Yuan Peng, director of the American Studies Institute at the China Institutes of Contemporary International Relations in Beijing. “Chinese military power is still at a developing country’s level. It lags far behind the U.S., Russia and even Japan and India in some senses.”

In Mr. Yuan’s view, American anxiety — after blows to the national psyche from the Sept. 11 terrorist attacks and the ongoing financial meltdown — goes well beyond China’s military advance. “What makes people nervous is not really our military, but China’s economic rise and the Chinese political model,” he says. “China is rising so fast, the population is so big and the social system is so different” that it excites unease.

Still, China’s massive bulk — its continental size and vast population — looms over Asia, and its military modernization threatens an arms race in the region. Japan, heavily dependent on crude oil and raw materials from the Middle East and Australia, worries that one day it may run into a hostile Chinese navy along the same sea lanes that feed China’s rapid growth. Some Indian strategists worry that China is gaining an ability to disrupt its ocean trade, and is encircling it through diplomatic and military links with neighboring countries from Myanmar to Pakistan.

Among the biggest worries for the U.S. is China’s improved submarine fleet, which could delay or prevent U.S. aircraft carrier battle groups from responding to a crisis in and around Taiwan, the island that Beijing has pledged to bring under its rule, by force if necessary. China aims more than 1,000 missiles at Taiwan to deter any attempt by the island’s leaders to formally establish independence. China has also acquired eight Russian kilo-class submarines, which are very hard to detect when submerged, and is building its own attack submarines.

Some of the newer ships and submarines in China’s fleet are equipped with Russian-made anti-ship cruise missiles that can fly at supersonic speeds. Those missiles, and an anti-ship ballistic missile under development, appear aimed at giving China the ability to strike U.S. aircraft carriers, say U.S. naval officers. Aircraft carriers have been the mainstay of U.S. maritime power for decades.

While China has no aircraft carriers of its own, Chinese officials have started talking publicly again about adding one to their own fleet. Chinese shipyards would likely have little difficulty building the type of mid-sized carrier most analysts expect China to launch. But mastering the operations of a carrier task force and its aircraft would probably take many years, analysts say.

Chinese navy officers believe that their forces must be able to push beyond what they consider the first island chain — running south from Japan and around the east side of Taiwan — that stands between China and the broad expanse of the Pacific Ocean. Being able to move ships and subs out into the Pacific would be critical to Chinese efforts to block or delay the approach of U.S. ships to Taiwan or the mainland.

China’s fleets have been pushing farther offshore. Last October, a flotilla of four Chinese navy ships, including a Russian-built guided-missile destroyer and two of the country’s most-advanced frigates, passed through the narrow Tsugaru Strait between the main Japanese islands of Honshu and Hokkaido and out into the Pacific Ocean. Japanese saw it as a demonstration of China’s growing might.

Chinese submarines have also been detected a number of times nosing around Japanese waters. In 2004, a submerged Chinese sub passed through another narrow strait in what the Japanese considered a violation of international law. U.S. and Japanese defense officials interpreted it as a possible effort to map and gather intelligence about routes from the East China Sea to the Pacific.

The new naval base on Hainan, which appears large enough to accommodate surface ships as well as attack and ballistic-missile submarines, gives China’s navy direct access to vital international sea lanes. It could allow submarines to deploy stealthily into the deep waters of the South China Sea, the Pentagon says.

Analysts from the Federation of American Scientists who have examined satellite images of the Hainan base say it also appears to have a facility of the sort used by the U.S. Navy to demagnetize nuclear-missile submarines before they deploy, to make them harder to detect. If that were true, it would indicate China’s intention to use its ballistic-missile submarines as an active part of its nuclear deterrent. The federation says that there is no evidence that China’s previous generation of nuclear-missile-carrying submarine ever carried out a single deterrent patrol.

The Defense Ministry declined to comment. The latest defense white paper says that one of the navy’s missions is “the capability of nuclear counter attacks.”

Despite China’s modernization drive, many weaknesses remain in its armory. Chinese military officers’ own assessments of their abilities, contained in professional journals and military media, say that they fall short of their goals of being able to fight and win a high-tech local war.

The limits were on painful display during the Sichuan earthquake last May — a peacetime operation on China’s own territory. China mobilized more than 114,000 soldiers to assist in disaster-relief efforts. But given the military’s lack of airlift capacity, just a fraction were able to arrive in the quake-hit area by plane in the first day or so after the temblor hit. The rest had to move by rail or drive. A marine unit spent several days driving from its base in southern Guangdong province. Relief work also highlighted China’s serious lack of helicopters.

Dai Xu, a colonel in the Chinese air force, said that the military’s earthquake operations showed that patriotism and spirit were unable “to cover up the weaknesses in the army’s equipment and technology abilities.” Col. Dai, writing in a Chinese foreign-affairs journal, said that “an army without the capability of air mechanization is not qualified to talk about informatization,” a reference to high-tech war.

By the Pentagon’s own estimates, China’s limited ability to move and sustain soldiers beyond its borders hasn’t improved appreciably since 2000. The Pentagon also calculates that despite the shopping spree on new equipment, just 20% of the weapons systems used by the Chinese air force are “modern,” along with 40% of the navy’s submarines and roughly 30% of its surface ships.

Critically, China has no experience in modern war-fighting. The nation’s last significant conflict was a 1979 border war with Vietnam. The U.S. military, on the other hand, has been almost constantly involved in conflicts since the start of the Persian Gulf War in 1990.

To make up for its deficiencies, China’s military has adopted a strategy of surprise and secrecy to keep U.S. forces off guard. It calls this strategy the “assassin’s mace,” an allusion to a concealed blade, or bludgeon. In this way, the military believes, its technologically inferior forces can gain the advantage over a technologically superior adversary.

China’s stealth fuels U.S. suspicions. The Impeccable interception recalled a similar episode in the area in 2001 when a Chinese fighter plane was in a collision with a U.S. EP-3 spy plane. The U.S. pilot nursed his crippled aircraft to a landing in Hainan, where its crew of 24 was detained for 11 days. The Chinese plane crashed, killing the pilot. In 2007, China shocked the world by blowing up one of its old weather satellites with a ballistic missile, showering debris into space.

The U.S. Air Force and Navy recently raised the specter of a belligerent China in their calls for more F-22 fighters and long-range bombers, as well as the production of a new, stealthy class of guided-missile destroyer, known as the Zumwalt. However, this month, U.S. Defense Secretary Robert Gates said he planned to halt further purchases of the F-22 and end the Zumwalt program as part of an overhaul of weapons priorities to reorient the U.S. military towards winning unconventional conflicts such as the war in Afghanistan rather than fighting China, Russia or other major powers.

In China, a vocal public constituency is pressing for a more assertive military. Bai Jieming, who runs a shop in the southern boomtown of Shenzhen selling models of Chinese warships, says that replicas of one of the destroyers sent in December to patrol the Gulf of Aden against pirates, the “168,” have sold out. He says that Chinese people long for an aircraft carrier. “I’d even donate money to help build it,” says Mr. Bai.

The Impeccable incident has stoked fears about the risks of miscalculation. In 2007, a Chinese submarine surfaced within firing range of the U.S. aircraft carrier Kitty Hawk during maneuvers near the Philippines. The U.S. Pacific commander at the time, Adm. William Fallon, said the incident could have “escalated into something very unforeseen.”

Adding to the dangers, says a U.S. Defense Department official, are unclear lines of communication between the Chinese military and other parts of the bureaucracy. Chinese leaders were “surprised, shocked and embarrassed” by the outcry from the U.S. and other countries, such as Russia, after their military shot down the weather satellite, he says. This could have been avoided if they had gotten better advice from nonmilitary sources. “There’s a learning process that goes into being a major power,” he says.

China sends conflicting messages about its desire for power and influence in the world. It is the world’s third largest economy, and presses for a greater say in international financial institutions to match that status, yet constantly sends reminders that in terms of per capita income it remains a relatively poor developing nation. Large parts of China’s military spending, including R&D outlays, do not appear in its official numbers on defense spending.

Past assessments have not seen China as an electronics superpower. China could turn its electronic prowess developing ever-faster computers and high-speed communications equipment for American consumers into cyberweaponry. Even so, it will still be a long time before China is the formidable military might some in the U.S. see.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

 

Posted in Quan hệ Mỹ-Trung, Quân sự | Leave a Comment »

Sự-Thực-Hư-Cấu-Kết

Posted by adminbasam trên 30/04/2009

Đôi lời: Sự thực nhem nhuốc đằng sau những tấm huân chương, ầm ĩ trên báo chí mấy năm trước, giờ vẫn chưa ngã ngũ, gây cảm hứng cho tiểu phẩm sau. Những anh hùng sau chiến tranh, người thành tướng xe tăng, người thành “tướng… xe bò” … Thật chua xót *


Sự-Thực-Hư-Cấu-Kết


Hôm nọ

Thầy (ngáp): … mình học đến phần nào rồi các em nhẩy ?

Trò: thưa thầy đến đoạn đánh chiếm Dinh Soái Tướng ạ.

Thầy: đúng rồi … 5 giờ sáng .. đạn địch bắn ra như pháo hoa mừng quân ta chiến thắng … (Lẩm bẩm: “Thằng nào soạn giáo khoa mà phét lác rẻ tiền thế không biết”) … Nhìn quanh vẫn chưa thấy bóng dáng đồng đội, Láu … xin mở ngoặc với các em, đó chính là anh hùng Trần Oách mới về làm chủ tịch thành phố ta đây … Láu quyết định một mình anh dũng xông lên, hai nách kẹp hai khẩu A-ka vừa chạy vừa liên tục xả đạn khống chế hai ổ đại liên địch … (Lẩm bẩm: “Mẹ, đúng là phiên bản của cái thằng Téc-mi-na-to, còn tay Ram-bô thì cứ phải gọi bằng cụ”) … 5 giờ 30, Láu đã cắm lá cờ phấp phới hiên ngang lên nóc Dinh. Vừa lúc, anh nhìn xuống sân Dinh thì thấy Trí, Dũng đang chạy tới …

Ngang: thưa thầy … sáng nay mấy tờ báo đều đưa bài viết những phát hiện mới về sự kiện này … ngược hẳn ạ …

Thầy: láo toét, dám bóp méo lịch sử à ?

Ngoan: em kính thầy … chắc là ông Trí, ông Dũng … 30 năm mà vẫn lẹt đẹt rồi mới “trâu buộc ghét trâu ăn” …

Ngang: không phải ! … Có mấy lính địch, cả vài người dân chứng kiến giờ họ mới lên tiếng … là anh Dũng một mình áp sát Dinh, bắn tỉa, ném lựu đạn … Mấy tên địch còn lại quăng súng bỏ chạy hết … Dũng đợi Trí đến … đưa Trí cờ, rồi anh khóc, bảo Trí là “giờ hòa bình tới nơi rồi, mi mà lên cắm cờ thì sau mi được lên to là cái chắc … Rứa cũng xứng đáng thôi vì mi học giỏi, … chớ tau học dốt, mới hết lớp ba mà lên lãnh đạo thì … chỉ có uýnh nhau lại là ngon thôi” … Đôi co mãi, rồi anh Trí cầm cờ quay lên nóc Dinh … thì vừa lúc tay Láu ở ngoài lao vào, cướp lá cờ, dẩy anh Trí ngã lăn …

Thầy: khốn nạn ! …. đúng là …

Ngoan: là “… nhà báo nói phét” ạ … dạ kính thầy !

Hôm nay

Thầy (tươi cười bước vào lớp): các em ngồi xuống đi. Hôm nay thầy xin được hân hoan thông báo một tin vui … là cả Bộ Sử và Bộ Dạy Dỗ đều hết sức thống nhất là sự kiện chiếm Dinh được xác định lại là đúng như hôm nọ báo chí đăng …

Trò (hét to): hoan hô ! … Có thế chứ ! …

Thầy (hạ giọng, u buồn): hượm đã … nhưng … nhưng … vì yêu cầu “chính trị”, và “dạy dỗ” … nên sẽ phải tách riêng hai “vụ” ra, coi như không … “biết nhau”. Tức là cái “vụ” theo như báo đăng sẽ được chuyển thể thành tác phẩm văn học, dạng … dã sử, rồi sẽ thành huyền sử, như … chuyện hư cấu. Còn cái “vụ” như trong sách Sử viết đây thì vẫn là … “sự thực”, sẽ vẫn là … chính sử, nghĩa là “vũ-như-cẫn” ! …

Trò (lao xao): không thể tin được …

Thầy: còn theo thiển ý của thầy … thì có lẽ như vậy nó cũng có cái … độc đáo của nó, là cho thế hệ các em một lịch sử để … ngỏ … để mà tìm tòi, tranh cãi, cả phóng tác nữa, … kiểu như … “phần-mềm-mã-nguồn-mở” í mà.

Trò (ồ lên): bó tay ! … Bó cả mồm luôn !


Ba Sàm


* Mời tham khảo các báo:

Giờ kết thúc (Tuổi Trẻ/28-4-2005).

– Nhân chứng đặc biệt – Kỳ 1: Trung tá Tùng hay đại úy Thệ? (Tuổi Trẻ/28-4-2007).

Xác định nhân chứng giờ phút lịch sử có một không hai của dân tộc (kỳ II) (Tiền Phong/29-6-2008).

Phạm Xuân Thệ: Tôi chỉ nói những gì mình tham gia (Lichsuvietnam.info).

Kỷ niệm 34 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: Gặp người chỉ huy xe tăng 390 (Kinh tế Nông Thôn/29-4-2009).

Những bức ảnh “Chúng tôi tiến vào dinh Độc Lập” (TuanVietnam/30-4-2009)

Kết luận về sự kiện Dinh Độc lập (BBC/18-1-2006)

Posted in Bài của Ba Sàm, Lịch sử, Đảng/Nhà nước | Leave a Comment »

Tại Sao Đài Loan phải kết thân với Trung Quốc?

Posted by adminbasam trên 28/04/2009

Time

ĐÀI LOAN

Tại Sao Đài Loan phải kết thân với Trung Quốc một cách đột ngột?

MICHAEL SCHUMAN

6-4-2009

Ai sẽ hưởng được lợi từ vụ sụt giảm nhanh chóng và đột ngột của ngành công nghệ kỹ thuật cao ở Đài Loan? Có lẻ là Trung Quốc.

Người dịch: Trần Hoàng

 

John Luo, 38 tuổi, chưa bao giờ nghĩ rằng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu rốt cục đã đánh vào nước ông. Là một phó quản đốc tại một công ty bán dẫn Đài Loan, John là thành viên của nhóm người ưu tú trong ngành công nghệ kỹ thuật cao của Đài Loan, ông đã từng quen tiêu xài phí phạm trong các cuộc nghỉ ngơi ở ngoại quốc. Nhưng hãng của John đã đóng cửa vào tháng 1-2009, và giờ đây con người đã từng rất hào hoa nầy đang chắt bóp từng xu cho các bữa ăn trưa chỉ tốn 2 đô la, đi xe buýt thay vì lái xe hơi và đang kiếm một việc làm mới nào đó trong lãnh vực công nghệ đã bị tổn hại bởi kinh tế suy giảm.

“Việc gì cũng không chắc chắn hết,” Luo nói. “Quí vị không thể nào chỉ dựa vào sự làm việc chăm chỉ”.

Tất cả mọi người ở Đài Loan đang cảm nhận được điều đó. Hòn đảo nầy trước đây đã chọn một công thức phát triển bảo đảm an toàn khó thất bại được – dính chặt vào nhu cầu của toàn thế giới dành cho các phần-cứng của công nghệ. Các hãng xưởng của Đài Loan đã trở thành những nhà cung cấp hàng đầu cho các máy tình xách tay, màn hình mỏng và mặt hàng công nghệ bán dẫn.

Nhưng do nhu cầu dành cho các món đồ điện tử đắt tiền đang giảm bớt, nền kinh tế Đài Loan đã và đang trở thành một trong những nơi bị thiệt hại nhiều nhất đối với sự sụt giảm kinh tế hiện nay. Các mặt hàng xuất khẩu đã giảm 37% vào tháng 2 và tháng 3 -2009 so với cùng thời kỳ vào năm 2008. Tổng sản phẩm và dịch vụ quốc nội GDP giảm 8,4% trong quí 4 năm 2008, một sự giảm sút tệ nhất chưa từng có. Chính phủ Đài Loan dự đoán nền kinh tế của họ sẽ giảm 3% trong năm 2009; nhiều đánh giá riêng về sự suy thoái thương mại dự đoán sẽ giảm hai con số (hàng chục).

Lãnh vực công nghệ đang gặp nhiều khó khăn. Gần như 80% công nhân tại hãng Hsinchu Science và Industrial Park (căn cứ địa cho nhiều hãng công nghệ hàng đầu của hòn đảo Đài  Loan) đang phải nghỉ việc không lãnh lương ít nhất là một ngày mỗi tuần. Trong số những công ty bị tổn hại nhiều nhất là các hãng sản suất bộ vi xử lý ở Đài Loan. Giữa một nguồn cung cấp đang bị tàn hại và nhu cầu đang giảm xuống, giá cả đang hạ xuống thấp của các bộ nhớ DRAM, một thành phần chính của computer, dẫn đến nhiều thua lỗ lớn tại các hãng sản suất của Đài Loan. Chính quyền Đài Loan đang thành lập một công ty mới để thay đổi và cải thiện công nghệ trong nước nhằm cạnh tranh với các hãng đối thủ ở Nam Hàn.

Tuy vậy, những hậu quả nghiêm trọng nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế đối với Đài Loan có thể là chính trị. Sự suy giảm kinh tế có thể đẩy Đài Loan vào trong vòng tay của Trung Quốc.  (Bắc Kinh vẫn xem Đài Loan là một tỉnh ly khai).  Mặc cho sự phát triển thương mại và đầu tư đối diện với miền duyên hải của Đài Loan (ý nói ở Trung Quốc), Đài Loan đã chống cự lại việc rơi vào quĩ đạo của Trung Quốc. Nhưng Tổng thống Mã Anh Cửu tin rằng chỉ có cách duy nhất để duy trì sự cạnh tranh của Đài Loan là chấm dứt tình trạng bị cô lập của quốc gia nầy.

Ông Mã Anh Cửu muốn xóa sạch các hạn chế còn sót lại về các hoạt động đầu tư và kinh doanh bằng cách ký một thỏa thuận kinh tế hoàn toàn với Trung Quốc, thỏa thuận nầy sẽ cho phép trao đổi tự do hơn về các hàng hóa và các dịch vụ.

Cuộc khủng hoảng kinh tế “sẽ kéo Đài Loan gần gũi hơn với Trung Quốc,” ông Yang Tai-shuenn, theo một khoa học gia về chính trị tại Trường Đại Học Chinese Culture ở thủ đô Đài Bắc. “Chúng tôi chỉ có vài ba lựa chọn.” Vào lúc nầy, tất cả sự lựa chọn nào cũng đều khó nuốt hết.

Liên quan tới bài nầy:
140:Chính sách Khác đời của Việt Nam Trong Thời buổi Kinh tế Khó Khăn

—-

 

Taiwan

By MICHAEL SCHUMAN

John Luo, 38, never expected the global economic crisis to hit home. A well-paid deputy manager at a Taiwan semiconductor design outfit, he was a member of Taiwan’s high-tech élite, accustomed to splurging on overseas vacations. But Luo’s firm shut down in January, and now the former highflyer penny-pinches on $2 lunches, rides the bus instead of driving and is looking for a new job in a technology sector ravaged by recession. “Everything’s uncertain,” says Luo. “You can’t just depend on hard work.”

All of Taiwan is feeling that way. The island had hit upon an apparently fail-safe formula for growth — latching onto burgeoning global demand for tech hardware. Its manufacturers became top suppliers of notebook PCs, flat-panel monitors and semiconductors. But with demand for such expensive gadgetry waning, Taiwan’s economy has become one of the most vulnerable to the downturn. Exports tanked 37% in January and February from the same period last year. GDP plunged 8.4% in the fourth quarter from a year earlier, the worst quarterly decline ever. The government predicts the economy will contract 3% in 2009; more bearish private estimates foresee a double-digit decline. (See pictures of TIME’s Wall Street covers.)

The prized tech sector is in trouble. Nearly 4 out of 5 workers at the Hsinchu Science and Industrial Park, home base for many of the island’s top tech firms, take unpaid leave at least once a week. Among the hardest hit are Taiwan’s chipmakers. Amid a supply glut and deteriorating demand, prices have sunk for dynamic random-access memory (DRAM) chips, a key component of PCs, leading to large losses at Taiwan’s manufacturers. The government is setting up a new DRAM company to revamp the local industry so it can compete with Korean rivals.

The most profound consequences of the economic crisis for Taiwan, however, could be political. The downturn could push Taiwan into the arms of China. (Beijing still considers Taiwan a breakaway province.) Despite growing trade and investment across the Taiwan Strait, Taiwan has resisted drifting wholly into China’s orbit. But President Ma Ying-jeou believes that the only way to maintain Taiwan’s competitiveness is to end its isolation. Ma wants to clear away remaining restrictions on investment and business activities by signing a comprehensive economic agreement with China that would allow for freer exchange of goods and services. The economic crisis “will draw Taiwan closer to China,” says Yang Tai-shuenn, a political scientist at Chinese Culture University in Taipei. “We have few options.” In these times, all choices are hard ones.
With reporting by Natalie Tso / Taipei

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

 

Posted in Uncategorized | Leave a Comment »

Bệnh Cúm Heo nếu lan tràn mạnh sẽ gây khó khăn thêm cho kinh tế

Posted by adminbasam trên 27/04/2009

The Financial Times

Á Châu đang Bắt Đầu Bảo vệ Phòng Chống Bệnh Dịch Cúm Heo

người dịch: Trần Hoàng

 

Các chính quyền khắp khu vực Thái Bình Dương đã và đang bắt đầu các chương trình bảo vệ phòng chống bệnh dịch để chận đứng sự lan tỏa dịch cúm heo.

Siêu vi trùng cúm heo đang bị tình nghi đã xâm nhập tới Tân Tây Lan, nơi đây 10 học sinh (các em nầy đã quay trở lại trường sau kỳ nghĩ lễ ở thành phố Mễ Tây Cơ) đã và đang bị cô lập (cách ly trong một khu vực thuộc bệnh viện và không được chung đụng với ai hết trừ nhân viên y tế) trong lúc  các mẫu (máu, nước tiểu, đờm, phân) đang được xét nghiệm xem các em có bị bệnh dịch nầy hay không, và ở Úc cũng có 5 người khác đang trải qua các xét nghiệm tương tự.

Châu Á vẫn còn giữ những kỷ niệm sống động về các hậu quả xã hội và kinh tế của Hội Chứng nghiêm trọng về Hô Hấp Cấp tính, hay SARS, và những tàn phá gần đây hơn nữa vè bệnh cúm gia cầm, cả hai bệnh nầy – giống như cúm heo – đang được tin vượt qua hàng rào về loài để gây nhiễm trùng và thỉnh thoảng gây chết nhiều người.

Các phi trường khắp Châu Á vào ngày thứ Hai đã dùng các máy quét được chế tạo để khám phá nhiệt độ cơ thế xem có gia tăng hay không ở  các hành khách đáp xuống các phi trường nầy. Trung Quốc và Indonesia đã cấm các loại thịt heo nhập khẩu từ Nam Triều Tiên, và Philippines đã gia tăng việc kiểm tra và cô lập nhốt riêng thịt heo nhập cảng (40 ngày), trong lúc có nhiều bàn bạc mới đây về thuốc chống bệnh cúm như Tamiflu và Relenza.

Nam Hàn, nước có 2,5 triệu liều thuốc chống bệnh cúm, đã loan báo rằng họ sẽ gia tăng mức tồn kho 5 triệu liều, đủ để bảo vệ 10% dân số

Kinh nghiệm trước đây của Châu Á với bệnh Cúm hô hấp cấp tính SARS và cúm gia cầm – được biết với tên khao học là H5N1 – có nghĩa rằng hệ thống y tế ở nhiều nước Á châu đang được trang bị đầy đủ để đối phó với các bệnh như dịch cúm heo.

“Với bệnh suy hô hấp cấp tính và cúm gia cầm, đã có nhiều sự thúc đẩy để cải tiến sự chuẩn bị sẵn sàng trong nhiều quốc gia ở Châu Á, nhưng vẫn còn có một sự khác nhau khổng lồ trong việc chuẩn bị sẵn sàng (phòng chống bệnh),” ông Malik Peiris, một nhà vi trùng học và giáo sư tại Viện Đại Học Hồng Kong.

Các hậu quả xấu về Kinh tế chắc chắn trở nên quan trọng nếu như bệnh dịch cúm heo tiếp tục lan tràn.

Nhiều nền kinh tế ở Châu Á đang ở trong tình trạng vật lộn với các khó khăn vì hậu quả xấu từ cuộc khủng hoảng tài chánh toàn cầu, các nước nầy sẽ buộc lòng trải mỏng các nguồn tài nguyên để tập trung (vào việc phòng chống bệnh) nếu như nạn dịch cúm heo lan tràn.

Một số quốc gia đang làm xong những điều mà họ có thế làm để giảm đi các hậu quả, nhưng phần lớn các quốc gia thì không làm gì hết để bảo vệ chống lại bệnh dịch  hoặc hy vọng sự khoan dung của chính bệnh cúm heo. Thái Lan đã đặt tên cho bệnh nầy là “bệnh cúm Mễ Tây Cơ” với toan tính để tránh làm kinh sợ các khách hàng tiêu thụ (tránh) ăn thịt heo.

“Chúng tôi khuyên công chúng đừng quan tâm về việc tiêu thụ thịt heo,” bộ trưởng y tế Thái Lan Witthaya Kaewparadai phát biểu.

Tổ chức Y Tế thế giới của Liên Hiệp Quốc nói rằng thị heo và các sản phẩm của thịt heo không đại diện cho một sự hăm dọa nào hết khi thịt heo được nấu chín hoàn toàn tới một nhiệt độ (chính giữa lòng miếng thịt) là trên 90 độ C (160 độ F).

Trung Quốc, trong khi đó, đã cấm nhập cảng heo sống và các sản phẩm thịt heo từ Mễ Tây Cơ và 3 tiểu bang của Mỹ bởi vì lo sợ sự lan tỏa của bệnh cúm heo. Cơ quan quản trị chất lượng thực Phẩm của Trung Quốc đã cho biết trong một thông báo.

Tổng Cục Giám sát, Thanh tra Chất lượng và Tạm giữ của Trung Quốc cho biết các chuyến tàu từ nước Mexico, và 3 tiểu bang của Mỹ, Texas, California và Kansas sẽ bị hưởng của lệnh nầy. Trung Quốc là nước tiêu thụ thịt heo lớn nhất thế giới, nhưng phần lớn TQ nước tự-cung- cấp và chỉ nhập cảng một số lượng rất nhỏ thịt heo.

Chưa có trường hợp cúm heo nào đã được báo cáo ở Trung Quốc nhưng các cái chết gần đây từ bệnh cúm gia cầm và sữa bột bị nhiễm độc của trẻ em đã làm cho người tiêu thụ nâng cao ý thức và sự hiểu biết về các vấn nạn an toàn của thực phẩm.

 Trần Hoàng

—–


Tin tổng hợp về bệnh Dịch Cúm Heo ở Mỹ:

(Tin tổng hợp từ báo Time, Daily Telegraph, CDC.gov và WebMD)

Quan ngại rằng thế giới có thể ở bên lề của bệnh dịch cúm heo toàn cầu, (lần đầu tiên sau hơn 40 năm), đã leo thang vào ngày Chủ Nhật khi Pháp, Hồng Kong, Tân Tây Lan và Tây Ban Nha báo cáo những trường hợp mới ở những người đã bị nhiễm trùng trước đó với bệnh Cúm Heo và Canada cũng đã xác nhận vài trường hợp mới bị bệnh.

Ở Mỹ, nơi có 20 trường hợp nhiễm trùng bệnh cúm heo cũng đã được xác nhận. Các nhân viên Y tế liên bang đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp y tế trong cộng đồng và đang chuẩn bị để phân phát 50 triệu liều thuốc chống lại loại siêu vi trùng cúm heo tới  các cơ quan y tế địa phương và tiểu bang của nước nầy.

Trong khi đó ở vùng Mexico bị nặng nhất, nơi đây có hơn 80 người đã chết từ bệnh mà người ta tin là do bệnh cúm heo. Chính quyền Mexico đã đóng cửa tất cả các trường học và hủy bỏ mấy trăm cuộc họp họp gặp gỡ và lễ lạc nơi công cộng ở trong thành phố Mexico.

20 người ở Mỹ đã được xác nhận là bị bệnh cúm nhưng không có ai chết. Các trường hợp bị cúm heo năm 2009 xẩy ra ở tiểu bang California, Texas và New York.

*Triệu chứng của bệnh cúm heo cũng giống như khi người ta bị cúm theo mùa trong  năm và bao gồm sốt nóng 38-39 độ C, nóng, lạnh, nhức đầu, chảy mũi, mỏi mệt, không muốn ăn, ho và đau ở họng;  một số người bị thêm tiêu chảy và buồn nôn.

*Siêu vi trùng cúm heo không truyền bệnh qua con đường thực phẩm. Người ta không thể bị bệnh cúm heo vì ăn thịt heo. Nấu thịt heo với nhiệt độ 90 độ C là đủ giết hết siêu vi trùng cúm heo. Nấu thịt heo trong nước sôi 100 độ C là đủ giết các siêu vi khuẩn cúm heo, các siêu vi trùng và các loại vi khuẩn khác.

*Truyền bệnh trực-tiếp hay gián-tiếp từ heo qua người theo con đường trực tiếp và gián tiếp bởi loài H1N1.

*Nạn dịch cúm heo xảy ra năm 1918-1919 giết mười mấy triệu người thuộc loại H1N1. Dịch cúm heo xẩy ra một lần nữa tại tiểu bang New Jersey vào năm 1976, tại căn cứ quân sự Fort Dix làm 240 người bị nhiễm siêu vi khuẩn cúm heo H1N1, nhưng chỉ có 1 người chết.

**************************************************************


Asia activates pandemic protection

By Tim Johnston in Bangkok and Patti Waldmeir in Shanghai

Published: April 27 2009 11:31 | Last updated: April 27 2009 11:31

Governments across the Asia-Pacific region have been activating pandemic protection programmes to fend off the potential spread of swine flu.

The virus is already suspected of having reached New Zealand, where 10 schoolchildren who had recently returned from a holiday in Mexico have been isolated while samples are being tested for the disease, and Australia, where five people are undergoing similar tests.

Asia has raw memories of the devastating economic and social effects of Severe Acute Respiratory Syndrome, or SARS, and the more recent depredations of so-called bird flu, both of which – like swine flu – are believed to have jumped the species barrier to infect and occasionally kill humans.

Airports around Asia on Monday dusted off scanners designed to detect elevated temperatures in arriving passengers. China and Indonesia banned pork imports from South Korea, and the Philippines increased quarantine inspections of imported swine, while there were fresh runs on anti-flu medication such as Tamiflu and Relenza.

South Korea, which already has 2.5m doses of anti-flu medicine, announced that it is to increase its stockpile to 5m doses, enough to cover 10 per cent of the population.

Asia’s previous experience with SARS and bird flu – formally known as H5N1 – means that the health systems in many Asian countries are well-equipped to deal with diseases such as swine flu.

“With SARS and H5N1, there was a lot of impetus to improve preparedness in many countries in Asia, but there is still a huge variation in preparedness,” said Malik Peiris, a virologist and professor at the University of Hong Kong.

The economic fallout is likely to be substantial should the disease continue to spread.

Many economies in Asia are already struggling with the fallout from the global financial crisis, stretching the resources they would be required to bring to bear if the epidemic continues to spread.

Some countries are already doing what they can to mitigate the effects, but they are largely at the mercy of the disease itself. Thailand has renamed the disease “Mexican flu” in an attempt to avoid scaring consumers off eating pork.

“We urge the public not to be concerned about pork consumption,” Witthaya Kaewparadai, Thailand’s health minister, said.

The World Health Organisation says that pork and pork products do not present a threat when properly cooked to a sustained internal temperature of over 160F.

China, meanwhile, has banned imports of live pigs and pork products from Mexico and three US states because of fears of the spread of swine flu, the Chinese government’s food quality administration said in a statement.

The General Administration of Quality Supervision, Inspection and Quarantine said shipments from Mexico, Texas, California and Kansas would be affected. China is the world’s largest pork consumer but it is largely self-sufficient and normally imports only a small amount of pork.

No cases of swine flu have been reported in China but recent deaths from bird flu and contaminated infant formula have raised consumer awareness of food safety problems.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

 

Posted in Môi trường | Leave a Comment »

Chính sách Khác đời của Việt Nam Trong Thời buổi Kinh tế Khó Khăn

Posted by adminbasam trên 26/04/2009

Trong thời đại kinh tế suy sụp, Việt Nam có kế hoạch đối phó khác với

Nhật Bản và Tiệp Khắc

Trần Hoàng

 

Kể từ tháng 1 năm 2009 đến nay, trong khi  Nhật và Tiệp Khắc đang tìm cách khuyến dụ hàng trăm ngàn công nhân ngoại quốc hồi hương để dành công ăn việc làm cho công nhân của họ, giảm bớt các chi phí nuôi những người thất nghiệp và tránh sự xáo trộn trong xã hội vì kinh tế đang suy thoái, thì Việt Nam lại có chính sách ngược lại. Việt Nam đang nhận 10.000 công nhân Trung Quốc vào làm việc ở Tây Nguyên, Cà Mau và Tiền Giang và sẽ tiếp tục nhận thêm công nhân Trung Quốc trong các tháng sắp tới. .

Theo tờ The New York Times ra ngày 23-4-2009, Nhật đang tìm cách khuyến dụ hàng trăm ngàn công nhân người ngoại quốc hồi hương. Những công nhân Nam Mỹ gốc Nhật đang được chính phủ Nhật cung cấp tiền bạc cho họ trở về quê vì kinh tế Nhật đang bị suy thoái, và các công ty Nhật đã phải đóng cửa hay chỉ sản suất hàng hóa tồn kho. Trước tình hình đó, chính phủ Nhật đã đồng ý trả tiền vé máy bay cho toàn bộ gia đình của những công nhân Nam Mỹ gốc Nhật nầy và tặng thêm mỗi gia đình một món tiền khá lớn.

Nguyên nhân nhập cư của nhóm công nhân Nam Mỹ ở Nhật như sau.Vào những năm 1990, Nhật đã phát giấy nhập cảnh đặc biệt dành cho những người Ba Tây và Pê Ru gốc Nhật trở về Nhật làm việc. (Những người gốc Nhật nầy có tổ tiên là người Nhật và đã di cư đến sống ở các nước Nam Mỹ trong mấy trăm năm qua). Vì thế hiện nay có khoảng 366.000 người công nhân và gia đình vợ chồng con cái của những người nầy đang cư ngụ ở Nhật. Trong gần 20 năm qua, những người nầy việc trong các ngành lao động nặng, bụi bặm bẩn thỉu, và nguy hiểm.

Nhưng kể từ giữa năm 2008 đến nay, kinh tế của Nhật bị sa sút vì cuộc khủng hoảng tài chánh ở Mỹ và Âu Châu. Theo báo cáo quí 1 -2009, ngành xuất khẩu của Nhật giảm 46%, mức thất nghiệp toàn cả nước lên tới 4,4%, và mức sản suất kỹ nghệ thấp nhất trong 25 năm qua.

Đối diện với tình trạng khó khăn nầy, chính phủ Nhật đã có chương trình gởi trả những người công nhân Nam Mỹ nầy về lại nguyên quán. Nhật đã đồng ý cấp 3000 U.S. đô la tiền vé máy bay, và 2000 đô la cho mỗi một người trong gia đình (vợ, con) của người công nhân ấy để họ hồi hương và họ phải hứa không được trở lại Nhật trong một tương lai gần để xin việc làm*.

Chính quyền nước Tiệp Khắc cũng có chương trình y như Nhật vì kinh tế của Tiệp cũng đang tụt dốc. Tiệp đã quyết định gởi trả lại những công nhân ngoại quốc về nước. Ở Tiệp có khoảng 440.000 công nhân ngoại quốc; gồm có người Việt Nam, Mông Cổ, và các nước nhỏ của Liên Sô cũ. Chính phủ Tiệp đề nghị tặng 650 đô la để thưởng cho mỗi công nhân hồi hương và tặng vé may báy không trả tiền cho các công nhân ngoại quốc đang ở Tiệp trở về nhà.**

Trong năm 2008, lợi tức của mỗi người Nhật là 39.000 US đô la một năm.

Lợi tức của mỗi người Tiệp là 12.700 US đô la một năm.

Nhưng vào lúc nầy, cả hai nước khá giàu có nầy đều không muốn thấy công nhân ngoại quốc hiện diện trện đất của họ.

Trái lại, ở Việt Nam, mặc dầu mức lương làm việc của mỗi công nhân VN không tới 700 US đô la một năm, 46% công nhân Việt Nam đang lo lắng bị thất nghiệp, nhưng chính phủ Việt Nam đang có chương trình ngược lại với Tiệp Khắc và Nhật: Họ nhận công nhân Trung Quốc vào làm việc ở Việt Nam.

Thực tế, từ 2008 đến nay, theo từng giai đoạn, chính phủ VN đã nhận 2000-10.000 công nhân Trung Quốc vào làm việc cho dự án Bô Xít ở Đắc Nông và Nhân Cơ. Sau bản tin ngắn của TTX Ba Sàm báo động về sự hiện diện của hàng trăm công nhân Trung Quốc đang làm việc trong các hãng xưởng vừa mới xây dựng xong ở hai tỉnh ở Cà Mau và Tiền Giang vào đầu tháng 4-2009, vài ngày sau, báo Tuổi Trẻ online đã xuống hai tỉnh nầy để tìm hiểu và đã đăng bài phóng sự cùng hình ảnh, nhưng bài đã bị gỡ xuống trong ngày hơm đó.

Sau Tây Nguyên, đến lượt các tỉnh miền Tây cũng đang tiếp nhận hàng ngàn người Trung Quốc đến làm các công việc lao động chân tay trong các hãng xưởng của họ. Trong khi đó hàng chục ngàn công nhân Việt Nam đã bị thất nghiệp trong suốt 6 tháng qua đã trở về quê sống với gia đình của họ.

Trong thời suy thoái về kinh tế và tài chánh hiện nay, trong khi các chính phủ Nhật và Tiệp Khắc có chương trình gởi các công nhân ngoại quốc đang sống trên đất nước của họ hồi hương, thì chính phủ Việt Nam lại tiếp nhận hàng chục ngàn công nhân Trung Quốc vào làm việc ở Tây Nguyên, Lâm Đồng, Cà Mau và Tiền Giang.

nguồn

1./ A cash offer to Leave Japan
http://www.nytimes.com/2009/04/23/business/global/23immigrant.html?ref=world
2./ Crisis Puts Migrant Workers in a bind
http://www.globalpost.com/dispatch/czech-republic/090418/crisis-puts-migrant-workers-bind?page=0,1
 
 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Chính trị, Kinh tế Việt Nam, Người Việt: cư trú/LĐ ở nước ngoài | Leave a Comment »

Ba mươi năm Gọi tên gì Cho cuộc chiến?

Posted by adminbasam trên 25/04/2009

Đôi lời (đăng trên basam.tk ngày 26-4-2008): Vào những ngày này cách đây ba năm, một bài báo đã khuấy động tình cảm của những ai vốn một thời đứng từ hai bên chiến tuyến, nhiều tranh luận qua lại, nhưng rồi mọi sự vẫn vậy cho tới ngày hôm nay, bởi vì những người trong cuộc tranh luận không có một diễn đàn chung, quá nhiều bí ẩn của lịch sử vẫn còn bị che đậy, những sự kiện bị bóp méo …

Giáo sư Lê Xuân Khoa, người có bài báo khởi đầu cuộc tranh luận này, trong nhiều năm nay vẫn đi về Việt Nam, gặp gỡ, đóng góp ý kiến cho trong nước; diễn đàn “của ông”là trang web BBC và talawas. Nhà báo Nguyễn Hòa, người có bài phản bác lại GS Khoa, vốn là một cây phê bình văn hóa văn nghệ nổi tiếng trong nước về những bài báo lật mặt những kẻ “đạo văn”, lúc đó bất ngờ “tham chiến” vào lĩnh vực nặng mùi chính trị; diễn đàn của ông là tờ Nhân Dân.

Bữa nay xin hầu bà con hai bài báo trong cuộc tranh luận nầy (riêng bài của nhà báo Hòa khi bấm vào đường link trang web của báo Nhân Dân thì thấy không còn nữa), rất nhiều các thư, bài phản hồi khác của độc giả, mời bấm vào đường link trong các bài.

Bổ sung, ngày 26-4-2009: Mời bà con đọc thêm mục Chiến tranh Việt Nam, trên Wikipedia.

Ba mươi năm Gọi tên gì cho cuộc chiến?

Giáo sư Lê Xuân Khoa

Maryland, Hoa Kỳ, viết vào Xuân Ất Dậu (2005)

(BBC Việt ngữ)

 

Cuộc chiến 1945-1954 giữa thực dân Pháp và các phong trào kháng chiến giành độc lập của các dân tộc Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào thường được các nhà viết sử gọi chung là chiến tranh Đông Dương.

Đối với từng quốc gia Đông Dương, cuộc chiến này còn mang những tên khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa.

Thư của GS. Lê Xuân Khoa gửi các độc giả BBC

Chẳng hạn trong trường hợp Việt Nam, đây là chiến tranh giành độc lập, chiến tranh chống đế quốc Pháp hay ngắn gọn hơn, chiến tranh Việt-Pháp. Tất cả những cách gọi tên này đều đúng và không có gì cần phải tranh luận. Khi cuộc chiến 1955-1975 tiếp diễn trên lãnh thổ Đông Dương được gọi là chiến tranh Đông Dương lần thứ hai thì cách gọi không sai nhưng nội dung của nó không đơn giản như lần trước, vì thành phần tham chiến và thời gian chiến tranh ở mỗi quốc gia Đông Dương không giống nhau.

Trên chiến trường Đông Dương, Hoa Kỳ thay thế Pháp nhưng chỉ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam từ 1965 đến 1972 và hỗ trợ những lực lượng chống cộng sản ở Lào và Cam-pu-chia. Ngay cả những cuộc dội bom ở hai quốc gia này cũng không ngoài mục đích chính là ngăn chặn Bắc Việt sử dụng lãnh thổ hai nước láng giềng làm căn cứ tiếp viện cho bộ đội cộng sản ở miền Nam.

 

Phần trên chỉ là trích dẫn trên BBC. Toàn bài xin đọc tiếp theo dưới đây của talawas

…………………………

Về tác giả: Giáo sư Lê Xuân Khoa là cựu Chủ tịch Trung Tâm Tác Vụ Ðông Nam Á (SEARAC) và là giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế thuộc Ðại học Johns Hopkins, Washington, D.C.
Tác phẩm nghiên cứu của ông, “Việt Nam 1945 – 1995: Chiến tranh, tị nạn, bài học lịch sử”, đã ra mắt tập Một vào năm ngoái. Địa chỉ email của GS. Lê Xuân Khoa: Lxkhoa@hotmail.com
Ý kiến thính giả về bài viết của giáo sư Lê Xuân Khoa xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk hoặc dùng hộp tiện ích bên tay phải.


Talawas

Tranh luận về tên gọi Cuộc chiến 1955-1975

Phần 1

Lời tác giả: Ngày 15.2.2005, đài BBC đưa lên trang mạng bài viết của tôi dưới nhan đề 30 năm gọi tên gì cho cuộc chiến”, được nhiều độc giả trong và ngoài nước tham gia thảo luận. Ngày 15.3, nhật báo Nhân Dân ở Hà Nội đăng một bài của ông Nguyễn Hòa chỉ trích kịch liệt các luận cứ của tôi về cách gọi tên và hàn gắn những vết thương do chiến tranh để lại. Ngày 4.4, tôi gửi e-mail thư và bài trả lời cho báo Nhân Dân yêu cầu tòa báo dành cho tôi quyền trả lời ông Nguyễn Hòa. Hơn ba tuần đã trôi qua, báo Nhân Dân không đăng bài của tôi và cũng không cho biết lý do từ chối. Tôi bắt buộc phải mượn diễn đàn talawas để làm sáng tỏ vấn đề trước dư luận, nhất là đối với độc giả trong nước có thể đã có ấn tượng rất xấu về tôi sau khi đọc bài “Gọi tên cuộc chiến hay xuyên tạc lịch sử?” của ông Nguyễn Hoà trên báo Nhân Dân.

Ðể cho độc giả có đầy đủ tài liệu về cuộc tranh lụận này, tôi xin talawas đăng lại bài viết đầu tiên của tôi với nhan đề nguyên thủy và đầy đủ phần chú thích mà vì kỹ thuật trình bày BBC đã không đưa vào bài trên mạng. Sau đó là bài phản bác trên báo Nhân Dân và bài trả lời của tôi tựa đề “Xuyên tạc sự thật hay Phục hồi sự thật?”.

I.

Lê Xuân Khoa – 30 năm sau vẫn còn tranh luận: Chiến tranh của Mỹ hay chiến tranh Việt Nam?

Cuộc chiến 1945-1954 giữa thực dân Pháp và các phong trào kháng chiến giành độc lập của các dân tộc Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào thường được các nhà viết sử gọi chung là chiến tranh Ðông Dương. Ðối với từng quốc gia Ðông Dương, cuộc chiến này còn mang những tên khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa. Chẳng hạn trong trường hợp Việt Nam, đây là chiến tranh giành độc lập, chiến tranh chống đế quốc Pháp hay ngắn gọn hơn, chiến tranh Việt-Pháp. Tất cả những cách gọi tên này đều đúng và không có gì cần phải tranh luận. Khi cuộc chiến 1955-1975 tiếp diễn trên lãnh thổ Ðông Dương được gọi là chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai thì cách gọi không sai nhưng nội dung của nó không đơn giản như lần trước, vì thành phần tham chiến và thời gian chiến tranh ở mỗi quốc gia Ðông Dương không giống nhau. Trên chiến trường Ðông Dương, Hoa Kỳ thay thế Pháp nhưng chỉ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam từ 1965 đến 1972 [1] và hỗ trợ những lực lượng chống cộng sản ở Lào và Cam-pu-chia. Ngay cả những cuộc dội bom ở hai quốc gia này cũng không ngoài mục đích chính là ngăn chặn Bắc Việt sử dụng lãnh thổ hai nước láng giềng làm căn cứ tiếp viện cho bộ đội cộng sản ở miền Nam. [2]

Chiến tranh Ðông Dương lần thứ nhất được giải quyết chính thức và toàn bộ bởi Hiệp định Genève 1954 với Việt Nam là trọng điểm. Trong chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai, tình trạng ba nước Lào, Việt Nam và Cam-pu-chia đuợc quốc tế giải quyết vào ba thời điểm cách xa nhau: Lào bằng Hiệp định Genève năm 1962, [3] Việt Nam bằng Hiệp định Paris năm 1973, và Cam-pu-chia bằng Hiệp định Paris năm 1991. Mặc dù những đặc tính khác biệt đó, gọi cuộc chiến tranh 1955-1975 là chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai cũng vẫn đúng trong ý nghĩa tổng quát của chiến trường.

Trong trường hợp Việt Nam, vấn đề gọi tên cuộc chiến sau hiệp định Genève 1954 đã được tranh cãi dai dẳng cho đến nay, ba mươi năm sau chiến tranh, vẫn chưa đạt được đồng thuận. Những quan điểm bất đồng được xoay quanh nhiều tên gọi: chiến tranh chống cộng, chiến tranh chống Mỹ-Ngụy, nội chiến, chiến tranh của Mỹ, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh ủy nhiệm. Bỏ qua một bên chiến tranh “chống cộng” và “chống Mỹ-Ngụy” chỉ thích hợp trong thời chiến, ở đây chỉ cần thảo luận về bốn tên gọi còn lại thường được tranh cãi nhiều nhất.

Cuộc chiến 1955-1975 ở Việt Nam được gọi là nội chiến vì sau khi đất nước bị chia đôi, chính quyền miền Bắc đã để lại cán bộ, chôn giấu vũ khí và hoạt động bí mật đàng sau các phong trào tranh đấu ở miền Nam; trong khi đó, chính quyền Ngô Ðình Diệm cũng phát động chiến dịch tố cộng sâu rộng và mãnh liệt. Ðảng cộng sản phản công bằng những hành động khủng bố và ám sát các viên chức Việt Nam Cộng Hoà. Ðầu năm 1959 thì miền Bắc bắt đầu mở đường xâm nhập bộ đội và vũ khí vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh và phát động công cuộc đấu tranh vũ trang với phong trào “Ðồng khởi”. Năm 1960, Mặt trận Giải phóng miền Nam ra đời được miền Bắc hỗ trợ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang ở các tỉnh miền Nam. Năm 1963, sau khi chính quyền Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam càng ngày càng tồi tệ dẫn đến việc Mỹ quyết định đưa quân vào yểm trợ quân đội VNCH nhưng thực tế nắm vai trò chủ động. Ðây là giai đoạn “Mỹ hoá” cuộc chiến cho tới năm 1969 thì chính quyền Nixon trở lại chương trình “Việt Nam hoá” chiến tranh và bắt đầu rút quân về nước. Trận chiến quốc-cộng tiếp tục cho tới khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ vào tháng Tư 1975.

Cuộc nội chiến vì lý tưởng khác biệt, cộng sản và không cộng sản, có mầm mống từ những năm cuối thập kỷ 1920 khi Việt Nam Quốc Dân Ðảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu được thành lập năm 1927 và Ðảng Cộng Sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Hong Kong năm 1930. [4] Sự khác biệt ban đầu về chủ trương chỉ trở thành đối nghịch (nhưng chưa giết hại nhau) sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái của VNQDÐ bị thất bại năm 1930 và phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh của ÐCSVN bị Pháp dẹp tan năm 1931 khiến những người còn sống sót của hai đảng đều phải bỏ chạy sang Tàu. Vì sống chung dưới chính thể Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, các đảng viên cộng sản Việt Nam đều phải hoạt động âm thầm trong khi các lãnh tụ không cộng sản thì hoạt động công khai với sự giúp đỡ của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng (THQDÐ), một số còn được đào tạo tại trường quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu và lên đến cấp tướng trong quân đội Trung Hoa.

Nhược điểm của các đảng phái quốc gia là không có tổ chức qui củ và đường lối minh bạch, chỉ trông cậy vào sự che chở của THQDÐ để chống Pháp trong khi Trung Hoa dù không ưa Pháp nhưng đang là đồng minh của Pháp chống Nhật ở Ðông Dương. Các lãnh tụ quốc gia lại không đoàn kết được với nhau trong khi không có hoạt động gì đáng kể ở trong nước. Tình trạng đó kéo dài cho đến khi THQDÐ quá thất vọng với các phe nhóm quốc gia nên đã giúp cho Hồ Chí Minh đại diện Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội đưa người về Việt Nam tăng cường hoạt động chống Nhật năm 1944. Nhân dịp này Hồ Chí Minh củng cố được Mặt Trận Việt Minh thành lập từ năm 1941. Cuộc tranh chấp giữa các đảng phái quốc gia và Việt Minh trở thành những cuộc thanh toán đẫm máu giữa đôi bên trong năm 1946 và lực lượng quốc gia đã bị tiêu diệt gần hết trước khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ trên toàn quốc vào cuối năm đó. [5] Việt Minh hoàn toàn lãnh đạo cuộc chiến chống Pháp và cuộc xung đột quốc-cộng chỉ tái diễn chính thức và qui mô sau khi đất nước bị chia đôi và chính thể Việt Nam Cộng Hòa được thành lập ở miền Nam.

Mặc dù cuộc xung đột 20 năm giữa những người Việt Nam cộng sản và không cộng sản đã rõ ràng là một cuộc nội chiến có gốc rễ sâu xa, tên gọi này vẫn không được giới lãnh đạo miền Bắc chấp nhận. Ðể xây dựng và bảo vệ chính nghĩa của mình, nhà nước cộng sản đã gọi cuộc chiến này là chiến tranh chống Mỹ cứu nước hay chiến tranh chống Mỹ-Ngụy. Sau chiến tranh, vì nhu cầu bang giao, thì gọi là chiến tranh của Mỹ hay do Mỹ gây ra (American war), nhất là trong trường hợp sử dụng tiếng Anh. Cách gọi “American war” còn có ngụ ý nhắc nhở lỗi lầm của Hoa Kỳ và phủ nhận cách gọi của người Mỹ là “Vietnam war” (chiến tranh Việt Nam).

Trong một cuộc trao đổi ý kiến gần đây giữa một số học giả quốc tế gồm cả người Mỹ và Mỹ gốc Việt, có người đã dùng tên gọi “American war” để chỉ định cả hai cuộc chiến trong thời gian từ 1945 đến 1975, vì ngoài việc viện trợ và tham chiến trực tiếp trong cuộc chiến lần thứ hai, chính phủ Mỹ đã viện trợ tiền bạc và vũ khí cho Pháp trong suốt cuộc chiến lần thứ nhất. Nhưng nếu đặt tên chiến tranh bằng tên của quốc gia viện trợ thì cũng phải gọi tên cuộc chiến này là chiến tranh của Liên Xô và Trung Quốc vì hai nước này đã viện trợ kinh tế và quân sự rất quan trọng cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. [6] Cũng hiểu theo cách rộng rãi như thế thì cuộc chiến lần thứ hai phải được gọi là chiến tranh của Mỹ và các đồng minh Úc, Tân Tây-Lan, Ðại Hàn, Phi-Luật-Tân và Thái Lan. Bởi vậy không nên đặt tên chiến tranh bằng tên của những quốc gia viện trợ hay dự phần vào cuộc chiến, mặc dù có lý do chính đáng để gọi giai đoạn Mỹ hoá chiến tranh (1965-1972) là “American war”. Cũng nên ghi nhận là Mỹ bắt đầu rút quân từ 1969, và tên gọi “Vietnam war” chỉ có nghĩa là chiến tranh ở Việt Nam chứ không phải là “Vietnamese war” tức là chiến tranh của Việt Nam hay do Việt Nam gây ra.

Ðáng chú ý là phần lớn các tổ chức chính trị trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng không chấp nhận tên gọi cuộc chiến 1955-1975 là “nội chiến”, khẳng định rằng đây là cuộc chiến của dân tộc Việt Nam chống lại chủ nghĩa và chế độ cộng sản độc tài. Như trên đã nói, đây là cách gọi tên theo lập trường chính trị chẳng khác gì phía cộng sản đã gọi đây là cuộc chiến tranh nhân dân chống ngụy quân ngụy quyền. Những tên gọi này chỉ có giá trị nhất định đối với mỗi bên trong những năm đang có chiến tranh mà thôi.

Sau hết, cần bàn về “chiến tranh ủy nhiệm”. Tên gọi này phản ánh một sự thật hoàn toàn khách quan nhưng không một quốc gia tham chiến nào, trực tiếp hay gián tiếp, muốn chấp nhận nó để phải mang tiếng xấu. Gọi là ủy nhiệm vì từ cuộc xung đột về ý thức hệ, hai phe Việt Nam đã bị các cường quốc lãnh đạo hai khối tư bản và cộng sản sử dụng như những công cụ đua tranh thế lực trong thời Chiến tranh Lạnh. Hoa Kỳ đã dùng chiến trường Việt Nam để thí nghiệm và tiêu thụ các loại vũ khí kể cả chất độc da cam, trong khi Liên Xô và Trung Quốc đã nhiệt tình giúp đỡ và thúc giục Bắc Việt tận lực hi sinh và chiến đấu trường kỳ. Các quan sát viên quốc tế hồi đó đã có một nhận xét rất đúng về dụng ý của Trung Quốc khi viện trợ cho Việt Nam: “Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng.”

Quả thật, giải pháp chấm dứt chiến tranh Ðông Dương đều do các nước lớn sắp đặt sẵn với nhau rồi ép buộc đồng minh Việt Nam, cộng sản hay quốc gia, phải chấp thuận. Các nhà ngoại giao Hà Nội tại những phiên họp hậu chiến Việt-Mỹ từ 1995 đến 1998 cũng như các sách vở lịch sử ở Việt Nam đều xác nhận điều này. Cố ngoại trưởng Trần Văn Ðỗ cũng than phiền rằng tại hội nghị Genève 1954, Pháp đã không cho phái đoàn quốc gia biết cuộc thảo luận của các nước lớn về việc chia cắt Việt Nam và ông đã được Phạm Văn Ðồng mời họp riêng để tìm giải pháp giữa hai bên người Việt với nhau nhưng không thực hiện được. [7] Nhờ mâu thuẫn Liên Xô-Trung Quốc, nhờ phong trào phản chiến rầm rộ của dân chúng Mỹ và lợi thế chính trị đặc biệt sau khi Tổng thống Johnson tuyên bố không tái ứng cử năm 1968, Việt Nam cộng sản đã tránh được sự áp đặt của “các nước bạn” trong tiến trình hội nghị “hai phe bốn phái đoàn” ở Paris (1968-1973).
(mời xem phần dưới)

——

 

Nhà báo-nhà lý luận phê bình Nguyễn Hòa, hiện-2008- là phó ban Văn Hóa-Văn nghệ, báo Nhân Dân (hình của Vietimes)

Do chưa tìm được bài nguyên gốc của ông Nguyễn Hòa trên báo Nhân Dân, xin tạm đăng ở đây “Thư ngỏ” của ông gửi lên talawas:

7.5.2005

Nguyễn Hoà: Thư ngỏ gửi GS Lê Xuân Khoa, cùng các tác giả Nguyên Trường, Trần Trung Đạo, Hồ Duy Tân… và bạn đọc của talawas

Thưa quý vị!

Vậy là cuộc tranh luận giữa GS Lê Xuân Khoa và tôi về tên gọi của cuộc chiến tranh diễn ra cách đây 30 năm ở Việt Nam, đã kết thúc. Tuy kết thúc này chưa hoàn toàn thoả mãn đối với bản thân tôi (và với GS Lê Xuân Khoa?), nhưng ít nhiều cuộc tranh luận cũng tạo ra những tiền đề tinh thần có tính văn hoá để mỗi bên có điều kiện hiểu biết về nhau. Hy vọng những cuộc tranh luận có thể diễn ra trong tương lai sẽ tiếp tục được tiến hành một cách hoà nhã và bình đẳng, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau… Về phần mình, do ngay từ đầu tôi đã nhận thấy cuộc tranh luận rất khó lòng đạt tới kết quả, dễ rơi vào xu hướng “kể tội lẫn nhau”, và khi mà khoảng cách giữa quan niệm của các bên còn rất xa nhau thì dẫu muốn, Ban Biên tập talawas cũng khó có thể đứng ra làm “trọng tài”, nên sau khi talawas đăng bài “Chúng ta cần phải ngưng kể tội lẫn nhau” của GS Lê Xuân Khoa, tôi đã giữ thái độ im lặng. Cho dù ý kiến của Giáo sư đối với tôi chưa thật sự thuyết phục. Cho dù thói thường, về mặt tâm lý, nhiều người vẫn coi chân lý thuộc về người có tiếng nói cuối cùng (!).

Tương tự như thế, sau khi hai bài viết của hai tác giả Nguyên Trường, Trần Trung Đạo được đăng tải trên talawas, tôi đã đọc một cách trân trọng, và cũng rút ra kết luận rằng hai anh và tôi không chỉ khác nhau trong hệ thống quan niệm, trong góc nhìn, trong phương cách khái quát và nhận định bản chất một số vấn đề lịch sử…, mà còn khác nhau trong việc thâu nhận và xử lý các thông tin có liên quan đến một số sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Trong hoàn cảnh đó, việc tôi viết bài trả lời chắc chắn sẽ đẩy tới khả năng làm cho khoảng cách về quan niệm giữa hai anh và tôi ngày càng thêm xa, và điều đó hẳn là nằm ngoài ý muốn của chúng ta, một khi cả hai bên cùng chung mục đích trao đổi để “hướng tới tương lai”. Điều đó cũng tức là sự im lặng của tôi không hàm chứa nội dung “đuối lý”, cụ thể hơn là không phải đã “bị dồn đến chân tường”. Vì vậy qua đây tôi vẫn bảo lưu ý kiến của mình, rất mong sự bảo lưu ấy sẽ không làm mếch lòng bạn đọc nào có ý kiến đối lập với tôi.

Tuy nhiên, với bức thư của tác giả Hồ Duy Tân đã gửi cho tôi trên talawas ngày 14.5.2005 thì tôi thật sự thất vọng. Bởi theo tôi, bức thư tỏ ra thiếu vắng tinh thần trao đổi học thuật. Vì xét theo các nội dung đã được trình bày, thì dường như ý kiến của tôi chỉ là cái “cớ” để Hồ Duy Tân “trút cho hả sự bức xúc” của anh mà thôi. Trước tâm thế bức xúc của Hồ Duy Tân, tôi nghĩ việc trao đổi với anh không phải là một yêu cầu bức thiết. Do đó tôi xin có lời cảm ơn vì anh đã dành thời gian đọc bài viết của tôi, đồng thời xin được gửi trả lại anh bức thư đã đăng trên talawas.

Thưa quý vị!

Cuộc tranh luận “đặt tên cho cuộc chiến” diễn ra trên talawas có thể còn tiếp tục hoặc sắp kết thúc và tôi tin, dù diễn ra theo chiều hướng nào thì cơ hồ vẫn chưa thể đi tới một kết luận rốt ráo. Và nếu chúng ta đọc trên talawas, sẽ thấy ngay với các tác giả người Mỹ cũng chưa có sự thống nhất trong khi phân tích và đánh giá về cuộc chiến tranh này (xem Keith W. Taylor: “Tôi đã bắt đầu giảng dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào”, talawas ngày 30.4.2005, và David W.P. Elliott: “Cách mạng và thay đổi xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long”, talawas ngày 2.5.2005). Thiển nghĩ, người Mỹ nghiên cứu cuộc chiến tranh ở Việt Nam trước đây nhằm phục vụ cho mục đích của họ; còn với chúng ta, chúng ta nghiên cứu nhằm rút ra những bài học, và ở mức cao hơn, là để “xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai”. Trong bối cảnh mà sự khác biệt về tư tưởng, và các “vết thương” từ quá khứ vẫn còn ám ảnh trong tâm trí của nhiều người thì hiển nhiên sự nóng nảy và “lòng hận thù” sẽ không thể tạo ra một động lực tinh thần giúp mọi người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước xích lại gần nhau. Và như đã nói trong bài tranh luận với GS Lê Xuân Khoa, những điều tôi đã trình bày trong cuộc tranh luận với Giáo sư không nhân danh bất kỳ ai khác, mà chỉ nhân danh chính tôi – một người Việt Nam bình thường và luôn luôn mong muốn những điều tốt lành cho đồng bào của mình. Chiến tranh và những khúc quanh ngoắt ngoéo của lịch sử đã đẩy chúng ta sang hai bên “chiến tuyến”, song không lý gì khi đất nước đã có hoà bình mà chúng ta lại không cùng nhau lấp bỏ cái “chiến tuyến phi lý” kia đi.

Vâng, đó cũng là điều tôi muốn nói với GS Lê Xuân Khoa, với các anh Nguyên Trường, Trần Trung Đạo, Hồ Duy Tân… và bạn đọc của talawas trong bức thư ngỏ này.

5.2005

 

Người lính Việt Nam Cộng hòa (hình của cố nhà báo ảnh Philip  Jones

Griffiths/TIME)

(Tiếp theo)

Như vậy, sau khi đã gạn lọc lập trường chính trị của mỗi bên để xác định bản chất thật sự của nó trong lịch sử, cuộc chiến 1955-1975 phải được gọi là một cuộc nội chiến đồng thời là chiến tranh ủy nhiệm. Con dân một nước cùng một dòng giống—thực tế thì hầu như gia đình nào cũng có bà con gần hay xa ở phía bên này hay/và bên kia—đã tàn sát lẫn nhau ít nhất là trong hai mươi năm, vì lý tưởng khác nhau mà không hoàn toàn do mình chủ động. Tổng số người Việt Nam thiệt mạng riêng trong cuộc chiến này, kể cả quân và dân của cả hai bên, lên tới gần bốn triệu người. [8] Riêng bộ đội cộng sản còn có khoảng 300.000 người chưa tìm được xác. Ðất nước và tài sản của dân chúng cả hai miền đều bị chiến tranh tàn phá đến mức độ chưa từng thấy trong lịch sử, cho đến nay vẫn còn những di hại của bom, mìn chưa nổ và chất thuốc khai quang.

Trong chiến tranh ủy nhiệm, phía Việt Nam quốc gia phải chịu sức ép của đồng minh Hoa Kỳ cho tới những ngày chót của hội nghị Paris. Từ 1965, Hoa Kỳ hoàn toàn lãnh đạo cuộc chiến cho tới 1969 mới bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp Việt Nam hoá chiến tranh, nhưng vẫn nắm quyền định đoạt các phương tiện chiến đấu, không theo nhu cầu của giới chỉ huy quân sự Việt Nam. Từ sau hiệp định Paris 1973 thì Quốc Hội Hoa Kỳ lại mạnh tay cắt giảm viện trợ kinh tế và quân sự khiến cho miền Nam phải sụp đổ mau chóng hơn cả kế hoạch dự liệu của các chiến lược gia Hà Nội. Trong khi đó, mặc dù khéo khai thác mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc để được cả hai đồng minh lớn đua nhau viện trợ, Việt Nam cộng sản cũng không tránh khỏi áp lực của mỗi “nước bạn”, nhất là sự kiểm soát và ngăn chặn của Trung Quốc đối với những toan tính ngoại giao độc lập của Việt Nam. Hà Nội dứt khoát đi với Liên Xô khi ký Hiệp ước Hợp tác và Hữu Nghị với Aleksei Kosygin vào tháng Mười Một năm 1978 và gần như hoàn toàn trông cậy vào viện trợ của Liên Xô cho đến khi Mikhail Gorbachev và những chính quyền kế tiếp không còn có mối quan tâm chiến lược ở Việt Nam và khu vực Ðông Nam Á.

Người Việt Nam cộng sản và không cộng sản đều đã có quá nhiều kinh nghiệm về quan hệ hợp tác với các đồng minh của mình để thấy rằng đồng minh nào cũng chỉ ủng hộ một nước bạn chừng nào sự ủng hộ ấy phù hợp với lợi ích riêng của họ chứ không phải vì cùng theo đuổi một lý tưởng chung. Sau chiến tranh, bài học ấy có thể là một động cơ cho phe thắng trận tập hợp được khả năng của toàn dân vào công cuộc tái thiết và phát triển đất nước thời hậu chiến. Nhưng chính sách sai lầm của các nhà lãnh đạo miền Bắc đối với miền Nam đã làm tê liệt những đóng góp quan trọng của một nửa dân số toàn quốc trong mười mấy năm cho đến đầu thập kỷ 1990 mới thực sự chuyển hướng.

Riêng đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhà cầm quyền trong nước đã sớm nhận ra khả năng đóng góp to lớn của tập thể này vào công cuộc phục hồi kinh tế cũng như những tiềm năng trí tuệ có thể đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Thái độ đối với tập thể này thay đổi hẳn, từ việc kết tội người tị nạn là “những kẻ phản bội” đến sự công khai nhìn nhận họ là “một nguồn lực phát triển quan trọng của dân tộc.” Tuy nhiên, trong khi kêu gọi cộng đồng hải ngoại dẹp bỏ quá khứ, hướng tới tương lai để cùng chung sức xây dựng và bảo vệ quê hương, Nhà nước vẫn chỉ ban hành những biện pháp cởi mở hạn chế nhằm đáp ứng lợi ích vật chất nhỏ nhặt mà chưa thật tình hòa giải trong tinh thần bình đẳng. Vì thế những đóng góp chất xám của công dân ngoại quốc gốc Việt chưa vượt qua mức tối thiểu và các phong trào chống đối chính quyền trong các cộng đồng ở hải ngoại vẫn còn rất mạnh.

Lịch sử Việt Nam là một thiên hùng sử của một dân tộc hàng ngàn năm tranh đấu chống ngoại xâm và bảo vệ độc lập cho tổ quốc. Cho đến đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của Tây phương, các đảng phái quốc gia và cộng sản ra đời cũng đều hoạt động chống đế quốc thực dân để giành lại độc lập. Biết bao nhà cách mạng, cộng sản hay không cộng sản, trí thức hay lao động, đã bị chính quyền Pháp bắt bớ, tù đày và sát hại. Chỉ đến khi tranh giành quyền lãnh đạo dân tộc thì hai bên mới lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn và bị các nước lớn sử dụng trong một cuộc chiến tranh ủy nhiệm. Trong cuộc chiến này, phe cộng sản vì nhiều lý do đã thắng phe quốc gia nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ có kẻ thắng trận mới là người yêu nước. Gần đây, một nhà sử học ở Hà Nội đã nhắc đến những nhân vật yêu nước không cộng sản như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, và đã có những nhận định xác đáng: “Chủ nghĩa yêu nước thì khác nhau nhưng lòng yêu nước thì ai cũng có… Tôi nghĩ rằng con người rất phức tạp, hoàn cảnh lịch sử càng phức tạp. Nếu chúng ta không đánh giá lòng yêu nước rạch ròi, chúng ta sẽ ngộ nhận, chúng ta sẽ độc quyền yêu nước.” [9] Ý nghĩ này khiến ta nhớ đến chuyện mấy chục năm trước Hồ Chí Minh đã nhận xét rằng Ngô Ðình Diệm là “một người yêu nước theo cách của ông ấy”. [10]

Ba mươi năm sau chiến tranh, đã đến lúc chính quyền trong nước và cộng đồng hải ngoại cần phải nhận ra thực chất của cuộc chiến, ôn lại những bài học quá khứ và nhìn nhận nhau với những trao đổi bình đẳng hai chiều để có thể cùng góp công xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ, hội nhập thành công vào cộng đồng thế giới và có đủ khả năng đối phó với những đe dọa mới từ phương Bắc. Giữa hai bên, những bước đầu tiên cần phải được thực hiện bởi chính quyền trong nước một cách thật tình và cụ thể. Một khi thiện chí ấy đã được chứng tỏ, cộng đồng hải ngoại cũng cần phải đáp ứng tích cực.

Trở lại vấn đề gọi tên cuộc chiến 1955-1975, để các phe liên hệ có thể vượt lên khỏi những ám ảnh tiêu cực của quá khứ và chấm dứt những cuộc tranh luận do tình cảm chủ quan, cuộc chiến này nên được gọi đơn giản là “chiến tranh Việt Nam” với ý nghĩa khách quan phi chính trị là chiến tranh xảy ra trên đất nước Việt Nam. Nội dung phức tạp của nó sẽ được lịch sử ghi chép một cách đầy đủ và trung thực.

Maryland, Xuân Ất Dậu (2005)

II.

Nguyễn Hoà: “Gọi tên cuộc chiến” hay xuyên tạc sự thật?

Không chỉ sau ba mươi năm, mà ngay cả khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta còn đang diễn ra khốc liệt, đối với giới nghiên cứu ở phương Tây, không phải tác giả nào cũng có thể nhận thức nghiêm túc và đầy đủ về cuộc kháng chiến này.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam kết thúc đến nay sắp tròn ba mươi năm. Ba mươi năm – một khoảng thời gian khá dài nhưng vẫn chưa đủ để những người quan tâm đến cuộc kháng chiến khám phá và hiểu thêm những điều mới mẻ, nhất là khi “hội chứng Việt Nam” vẫn còn ám ảnh đời sống tinh thần của nhiều người dân nước Mỹ, nhất là khi trên đất nước Việt Nam, hàng chục vạn chiến sĩ đã hy sinh vẫn chưa tìm thấy hài cốt và những vết thương từ thời chiến tranh, những di hại nặng nề của chất độc da cam… vẫn đang đe dọa mạng sống của hàng triệu con người. Ba mươi năm chúng ta chiến đấu vì sự tồn vong của dân tộc. Ba mươi năm chúng ta chiến đấu với khát vọng độc lập, tự do, thống nhất và một nền hòa bình vĩnh viễn cho Tổ quốc. Và không có ý nghĩa nào khác, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã quyết định bản chất chân chính của sự nghiệp cao cả dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Bác Hồ.

Tuy nhiên không chỉ sau ba mươi năm, mà ngay cả khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta còn đang diễn ra khốc liệt, đối với giới nghiên cứu ở phương Tây, không phải tác giả nào cũng có thể nhận thức nghiêm túc và đầy đủ về cuộc kháng chiến. Do nhãn quan chính trị khác nhau, do sự hiểu biết khác nhau, đặc biệt là do ảnh hưởng của hệ thống tuyên truyền một chiều…, mà vẫn có những ý kiến, những công trình nghiên cứu còn chuyển tải trong đó các luận điểm không phản ánh trung thực về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Tôi đã đọc bài viết “Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?” của GS Lê Xuân Khoa đăng tải trên website của đài BBC ngày 15-2-2005 và đối chiếu với “Lời mở đầu” tập I cuốn sách Việt Nam 1945 – 1995, chiến tranh, tị nạn, bài học lịch sử cũng của tác giả này thì nhận thấy bài viết “Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?” là sự tóm lược những nội dung cơ bản của cuốn sách mà giáo sư khẳng định “với những sự kiện và nhận định khách quan về hai cuộc chiến tranh trong giai đoạn vừa qua, có thể góp phần đáng kể cho những cuộc thảo luận về các quan hệ giữa cộng đồng người Việt hải ngoại và chính quyền trong nước”.

Thiết nghĩ trong xu thế khép lại quá khứ, hướng về tương lai như hôm nay, nhắc lại quá khứ không phải nhằm khơi dậy lòng hận thù, nhưng khi vấn đề đã được đặt ra thì cần phải được xem xét cẩn trọng. Vì dẫu thế nào thì khảo sát quá khứ một cách nghiêm túc, chúng ta vẫn có thể rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai .

1.

Toát lên từ toàn bộ bài viết “Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?” là tham vọng đi tìm một tên gọi cho cuộc chiến ở Việt Nam sau năm 1954 của GS Lê Xuân Khoa, và ông đề xuất: “Cuộc chiến này nên được gọi đơn giản là “chiến tranh Việt Nam” với ý nghĩa khách quan phi chính trị là chiến tranh xảy ra trên đất nước Việt Nam”.

Ðể đi tới đề xuất trên, và dường như cũng để tỏ ra “khách quan”, GS đã khảo sát, phân tích một số tên gọi mà theo ông “đã được tranh cãi dai dẳng cho đến nay, ba mươi năm sau chiến tranh, vẫn chưa đạt được đồng thuận”, như: “nội chiến”, “chiến tranh của Mỹ”, “chiến tranh Việt Nam”, “chiến tranh ủy nhiệm”. Riêng với hai tên gọi “chiến tranh chống cộng”, “chiến tranh chống Mỹ-Ngụy” thì ông khẳng định chúng “chỉ thích hợp trong thời chiến”! Như vậy, trong khi cố gắng định danh một cách “trung tính” về chiến tranh, GS Lê Xuân Khoa đã loại bỏ yếu tố chính trị ra khỏi cuộc chiến, và hiển nhiên qua đó, tính chất chính nghĩa hay phi nghĩa của cuộc chiến tranh đã không có một vai trò, dù thứ yếu, trong nghiên cứu của ông.

Gần hai thế kỷ trước K. Clao-dơ-uýt (1780-1831) coi chiến tranh là công cụ của chính trị, nó nhất định phải mang tính chất chính trị. V.I. Lê-nin (1870-1924), với quan niệm coi chính trị là sự phản ánh tập trung những lợi ích căn bản của giai cấp, đã phát triển luận điểm của Clao-dơ-uýt khi cho rằng: “Chiến tranh chỉ là một sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể bằng bạo lực)” [11] và “chiến tranh chẳng qua chỉ là chính trị từ đầu đến cuối” [12] . Từ những quan niệm trên đây và với một phương pháp luận khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể…, người ta mới có thể tìm hiểu bản chất của một cuộc chiến tranh là gì, từ đó đưa ra một định danh thích đáng; hay nói cách khác, là chỉ có như vậy mới xác lập được các tiền đề lý luận – thực tiễn để xác định một tên gọi có khả năng phản ánh chân xác nhất về bản chất một cuộc chiến tranh.

Từ phương diện này, tôi xin nhận xét rằng, GS Lê Xuân Khoa đã phạm nhiều sai lầm về phương pháp luận, ít nhất cũng là ở chỗ ông đã không nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam từ một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, để qua đó thấy được những yếu tố khách quan – chủ quan nào đã buộc người Việt Nam phải cầm súng vì sự sống còn của Tổ quốc mình.

Ông viết: “Mặc dù cuộc xung đột 20 năm giữa những người Việt Nam cộng sản và không cộng sản đã rõ ràng là một cuộc nội chiến có gốc rễ sâu xa, tên gọi này vẫn không được giới lãnh đạo miền bắc chấp nhận. Ðể xây dựng và bảo vệ chính nghĩa của mình, nhà nước cộng sản đã gọi cuộc chiến này là chiến tranh chống Mỹ, cứu nước hay chiến tranh chống Mỹ-Ngụy”, “Gọi là ủy nhiệm vì từ cuộc xung đột về ý thức hệ, hai phe Việt Nam đã bị các cường quốc lãnh đạo hai khối tư bản và cộng sản sử dụng như những công cụ đua tranh thế lực trong thời Chiến tranh lạnh. Hoa Kỳ đã dùng chiến trường Việt Nam để thí nghiệm và tiêu thụ các loại vũ khí kể cả chất độc da cam, trong khi Liên Xô và Trung Quốc đã nhiệt tình giúp đỡ và thúc giục Bắc Việt tận lực hy sinh và chiến đấu trường kỳ”.

Ông còn lùi xa về lịch sử với một ý kiến khá ngô nghê: “Cuộc nội chiến vì lý tưởng khác biệt, cộng sản và không cộng sản, có mầm mống từ những năm cuối thập kỷ 1920 khi Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu được thành lập năm 1927 và Ðảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Hồng Kông năm 1930″.

Phải chăng với ý kiến này, GS Lê Xuân Khoa đã đánh đồng mục tiêu mà Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông theo đuổi với bản chất “thừa hành” của những người cầm quyền do người Pháp, và sau này là người Mỹ, dựng lên ở miền nam Việt Nam? Viết như giáo sư là xúc phạm vong linh của tiền nhân, vì dẫu thế nào thì tấm gương hy sinh của Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông trong Quốc dân đảng cũng hết sức cao quý và đối lập hoàn toàn với hành động của những kẻ sau này phải sinh tồn dưới cái ô che chở của người Pháp và người Mỹ.

2.

Chúng ta đã biết, đầu thế kỷ 20, ngay cả lúc người Pháp tưởng chừng đã bình định được Việt Nam, thì tinh thần yêu nước vẫn nung nấu trong tâm trí mỗi người dân Việt. Bằng những con đường khác nhau, dưới những hình thức khác nhau, các hoạt động đấu tranh giành độc lập vẫn liên tục được tiến hành, nhưng cuối cùng, sự lựa chọn duy nhất đúng chỉ có được với sự ra đời của Ðảng Cộng sản Việt Nam và vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khát vọng của toàn dân tộc và lý tưởng của Ðảng đã phối kết tạo nên một sức mạnh để khi thời cơ đến, chúng ta đã làm nên Cách mạng Tháng Tám, sau đó là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Vẫn biết lịch sử không bao giờ lặp lại, nhưng để lý giải được các sự vật – hiện tượng, đôi khi vẫn cần có những giả định về lịch sử, điều đó có thể góp phần làm sáng tỏ các sự kiện đã từng xảy ra trong quá khứ. Hãy thử giả định: sau khi chính quyền nhân dân đã được thành lập trên cả nước vào nửa cuối năm 1945, điều gì sẽ xảy ra nếu người Pháp không quay trở lại xâm lược Việt Nam? Tôi tin rằng ngày ấy, với ý thức dân tộc đã thức tỉnh rất mạnh mẽ, chúng ta hoàn toàn có thể chung tay xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh. Song tiếc thay, lịch sử lại không có từ “nếu” và không còn cách nào khác, toàn dân tộc Việt Nam lại buộc phải cầm súng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.

Trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai, thực dân Pháp lập tức xây dựng một bộ máy chính quyền, vừa là công cụ thừa hành, vừa tạo ra “ảo ảnh về quyền tự chủ” trước thế giới. Nhà nước “thừa hành” ấy không có những nền tảng vật chất – tinh thần xã hội cơ bản, không có một định hướng chính trị cụ thể và do hoàn toàn phải đeo bám vào bầu sữa của “mẫu quốc” nên nó èo uột, người đứng đầu nhanh chóng bị thay thế nếu không đáp ứng được nhiệm vụ do các ông chủ giao cho. Trong hoàn cảnh đó, sẽ là hài hước nếu cho rằng chính quyền thừa hành nói trên lại được xây dựng trên cơ sở một “ý thức hệ”.

Tình trạng này cũng lặp lại với chính quyền Việt Nam Cộng hòa, bởi nó được dựng lên từ bàn tay của giới cầm quyền Mỹ, khi họ nhận thức được rằng nếu các điều khoản của Hiệp định Geneva (1954) được thực hiện nghiêm túc thì không chỉ người Pháp, mà chính người Mỹ cũng không xơ múi được gì. Cuối những năm 50 của thế kỷ trước, thông qua bộ máy do họ dựng lên, đế quốc Mỹ từng bước vừa thâu tóm quyền lực vào tay mình, vừa nhanh chóng loại bỏ ảnh hưởng còn lại của thực dân Pháp.

Và cũng như trước đây, sự sống còn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng hoàn toàn lệ thuộc vào người Mỹ mà bằng chứng là ngay đầu những năm 60 của thế kỷ 20, nó đã rệu rã đến mức không có khả năng chống lại phong trào giải phóng, buộc Mỹ phải lộ diện với một đạo quân viễn chinh khổng lồ và những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất lúc bấy giờ. Vũ khí Mỹ, đô-la Mỹ, hàng hóa Mỹ đã nuôi sống một bộ máy chính quyền trong vài chục năm, và cuối cùng, nó không thể tránh khỏi sự sụp đổ tất yếu.

Một chính quyền không có một “căn cốt tinh thần”, một chính quyền như GS Lê Xuân Khoa phải thừa nhận: “Từ sau Hiệp định Paris 1973 thì Quốc hội Hoa Kỳ lại mạnh tay cắt giảm viện trợ kinh tế và quân sự khiến cho miền Nam phải sụp đổ mau chóng hơn cả kế hoạch dự liệu của các chiến lược gia Hà Nội” thì lấy đâu ra một “ý thức hệ” để ông có thể đặt nó trong tư thế đối lập với một phong trào giải phóng dân tộc được dẫn dắt bởi một lý tưởng cách mạng, chân chính, với hàng triệu người sẵn sàng đổ máu vì nền độc lập, vì quyền tự chủ.

Tôi nghĩ, dù GS Lê Xuân Khoa, hay bất cứ ai đó, có ý định trang trí cho chính quyền miền Nam cũ một “ý thức hệ” thì cũng chỉ là một cố gắng bất khả, như một người nào đó có tham vọng thổi “linh hồn” vào một pho tượng đất.

3.

Không chỉ dựng lên một đối lập giả tạo về ý thức hệ để biện minh cho một chính quyền tồn tại trong vai trò chỉ là “phương tiện” trong tay giới cầm quyền Mỹ, GS Lê Xuân Khoa còn dành nhiều chữ nghĩa để luận giải về cái gọi là “chiến tranh ủy nhiệm” mà ông cho rằng “tên gọi này phản ánh một sự thật hoàn toàn khách quan nhưng không một quốc gia tham chiến nào, trực tiếp hay gián tiếp, muốn chấp nhận nó để phải mang tiếng xấu”. Nghĩa là ông muốn đi xa hơn, bằng cách “gán” cho phong trào giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản cái “bản chất thừa hành” như của chính quyền Việt Nam Cộng hòa mà ông từng nhận xét: “Trong chiến tranh ủy nhiệm, phía Việt Nam quốc gia phải chịu sức ép của đồng minh Hoa Kỳ cho tới những ngày chót của Hội nghị Paris.

Từ 1965, Hoa Kỳ hoàn toàn lãnh đạo cuộc chiến cho tới 1969 mới bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp Việt Nam hóa chiến tranh, nhưng vẫn nắm quyền định đoạt các phương tiện chiến đấu, không theo nhu cầu của giới chỉ huy quân sự Việt Nam”. Về vấn đề này, trong “Lời giới thiệu” (đd), GS còn đưa ra một nhận định khôi hài hơn: Cuộc chiến hai mươi năm ở Việt Nam vừa là nội chiến vừa là chiến tranh ủy nhiệm mà rốt cuộc là “tất cả mọi phe đều thua”.

Hóa ra, nền độc lập và sự kiện sau ba mươi năm giang sơn thống nhất về một mối, dưới con mắt của GS Lê Xuân Khoa lại không có ý nghĩa gì vì với ông, đó là một thất bại. Qua đây, tôi có thể đặt câu hỏi rằng phải chăng giáo sư lại mong muốn Tổ quốc Việt Nam – nơi ông đã sinh ra, lại mãi mãi bị chia cắt, mãi mãi phải quằn quại dưới gót giày ngoại bang?

Thiết nghĩ, dường như với GS Lê Xuân Khoa, việc trang trí cho chính quyền miền Nam trước đây nhãn hiệu đại diện cho một “ý thức hệ” vẫn còn chưa đủ, với hai chữ “ủy nhiệm”, ông cố gắng đánh đồng sự tồn tại của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với một chính quyền mà sự ra đời và tồn tại của nó chỉ là một thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân mới. Và đáng ngạc nhiên hơn, từ sự lạnh lùng của các con số liên quan đến viện trợ, giáo sư đi đến chỗ quả quyết “hai phe Việt Nam đã bị các cường quốc lãnh đạo hai khối tư bản và cộng sản sử dụng như những công cụ đua tranh thế lực”!

Thực tế cho thấy, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi về tinh thần, sự giúp đỡ to lớn về vật chất của các lực lượng tiến bộ, yêu hòa bình trên thế giới, nhất là của Liên Xô, Trung Quốc, cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác. Chúng ta chân thành cảm ơn và không bao giờ quên sự ủng hộ, giúp đỡ đó, tuy nhiên vẫn cần khẳng định yếu tố quyết định, dẫn đến thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chính là sức mạnh vật chất – tinh thần của phong trào giải phóng dân tộc chân chính dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam.

Và thực tế cũng cho thấy, hơn 200 tỷ USD (theo thời giá hiện tại là hơn 600 tỷ USD) mà người Mỹ đã chi phí để nuôi sống bộ máy chính quyền cùng quân đội tay sai trong hơn 20 năm là một con số vượt trội gấp nhiều lần so với viện trợ mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, cùng đồng bào yêu nước ở hai miền Nam – Bắc nhận được trong những năm chiến tranh. Chẳng lẽ con số đó không gợi lên trong GS Lê Xuân Khoa một sự cân nhắc trước khi ông đưa ra kết luận?

Song vấn đề ở đây không chỉ là các con số liên quan đến viện trợ. Ðiều muốn nói là sau khi dựng lên một chính quyền mang “bản chất thừa hành” và chỉ sau một thời gian, chính quyền đó đã lộ rõ sự bất lực trước phong trào giải phóng, không còn cách nào khác, đế quốc Mỹ phải chính thức nhập cuộc, phải tham gia vào cuộc chiến với sự có mặt lúc cao nhất tới hơn nửa triệu quân nhân, với pháo tầm xa 175 ly và xe tăng M41, xe lội nước M113…, với hàng ngàn chiếc máy bay từ F4 -con ma, F105-thần sấm đến F111, pháo đài bay B52… Nhìn chung, sự huy động đến mức tối đa sức mạnh của quân đội Mỹ lúc bấy giờ vào chiến trường miền nam kết hợp với các cuộc ném bom rải thảm với cuồng vọng đẩy miền bắc vào “thời kỳ đồ đá”… đã cho thấy sự có mặt của người Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thực chất là một cuộc chiến trong xâm lược. Ðế quốc Mỹ đã không “ủy nhiệm” cho ai cả, chúng trực tiếp nhập cuộc. Bom Mỹ từ máy bay Mỹ, do người Mỹ lái đã giội xuống hầu hết các phố phường, làng mạc, trường học Việt Nam… Xe tăng Mỹ, do người Mỹ lái, đã cày nát không biết bao nhiêu cánh đồng và thôn xóm Việt Nam… Rồi nữa là con số gần sáu vạn quân nhân Mỹ chết trận cùng những sự kiện như Mỹ Lai chẳng hạn, chẳng lẽ lại không có tác động gì tới nghiên cứu của GS Lê Xuân Khoa?

Ðối lập với thực tế ấy, những người yêu nước ở cả hai miền Nam – Bắc Việt Nam đã bền chí dù phải vét đến cân gạo cuối cùng, tiễn đến người con cuối cùng ra trận cũng cam lòng để giành thắng lợi… Không có sức mạnh của lý tưởng, không có sức mạnh của lòng yêu nước thì bao nhiêu tỷ USD, bao nhiêu triệu tấn súng đạn cũng không thể giúp hàng triệu con người dám hy sinh thân mình cho sự thống nhất của Tổ quốc.

Kẻ viết bài này sinh ra vài năm sau khi Hiệp định Geneva (1954) ký kết và hòa bình trở lại với một nửa miền Bắc. Tôi từng tiễn chân lớp lớp đàn anh của mình ra chiến trường và trong đó nhiều người đã không trở về. Tôi cũng “nếm đủ” những khó khăn gian khổ của miền bắc trong những năm “tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền nam ruột thịt”. Mười năm học phổ thông là mười năm sơ tán, đi học ở mười một trường khác nhau. Tôi đã chứng kiến những loạt bom Mỹ giết chết hàng trăm y sinh của Bệnh viện Yên Bái năm 1965, đã có mặt ở Hà Nội trong trận quyết chiến “Ðiện Biên Phủ trên không” năm 1972… và đã hiểu thế nào là “nhà tan cửa nát”. Ðến tuổi trưởng thành, tôi cùng bạn bè của mình lại tự giác ra trận. Không có ai “ủy nhiệm”, mà chỉ có lòng yêu nước, lòng tự trọng của con người. Chính vì thế, dù không muốn đặt lại với giáo sư câu hỏi của một bạn đọc đã gửi tới ông trong cuộc thảo luận về bài “Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?” rằng: “Thưa ngài giáo sư Lê Xuân Khoa, vậy chứ khi cuộc chiến tranh tại Việt Nam từ 1955-1975, ngài giáo sư đã sống và làm gì ở đâu vậy?”, nhưng quả thật tôi đã thấy như bị xúc phạm bởi ý nguyện chính đáng về vận mệnh của Tổ quốc Việt Nam, của hàng triệu con người lại bị ông gán cho một động cơ thấp kém đến vậy.

Còn đáng phê phán hơn, khi bàn tới lòng yêu nước, giáo sư đưa ra một quan niệm khá mơ hồ: “Trong cuộc chiến này, phe cộng sản vì nhiều lý do đã thắng phe quốc gia nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ có kẻ thắng trận mới là người yêu nước”. Lòng yêu nước là tài sản chung quý giá của mọi người Việt Nam, không ai có thể “độc quyền” lòng yêu nước. Song thiết nghĩ, lòng yêu nước chỉ thật sự là lòng yêu nước khi nó chi phối sự hình thành trong mỗi người một lòng tự tôn, biết hành động vì lợi ích đất nước, không làm bất cứ điều gì gây tổn hại tới danh dự, quyền lợi của đất nước… Xét trên phương diện đó, giáo sư đã xóa nhòa ranh giới giữa lòng yêu nước chân chính của nhân dân ta với những kẻ đã bán rẻ đất nước, phục vụ quyền lợi và mưu đồ của ngoại bang.

Cuối cùng, dù quan niệm về “dân chủ” của tôi và giáo sư có thể khác nhau, dù rất tôn trọng mong muốn của giáo sư: “đã đến lúc chính quyền trong nước và cộng đồng hải ngoại cần phải nhận ra thực chất của cuộc chiến, ôn lại những bài học quá khứ và nhìn nhận nhau với những trao đổi bình đẳng hai chiều để có thể cùng góp công xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ, hội nhập thành công vào cộng đồng thế giới”, tôi vẫn muốn được gửi tới ông một góp ý chân thành rằng, mong muốn của giáo sư sẽ chỉ có giá trị nếu kết quả nghiên cứu của ông xuất phát từ một phương pháp luận khoa học, tôn trọng sự thật, với những khảo chứng khách quan, lịch sử, cụ thể, toàn diện… Còn nếu không, nghiên cứu đó xét đến cùng, sẽ chỉ là lẩn tránh, xuyên tạc sự thật, biện hộ cho các luận điệu của những kẻ đã và đang rắp tâm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, phá hoại quá trình hòa hợp của người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước khi cùng hướng tới một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà thôi!

2-2005

 


[1]Thời gian “Mỹ hoá chiến tranh” thường được tính từ khi Hoa Kỳ bắt đầu đưa quân chiến đấu vào Việt Nam năm 1965 cho tới khi hiệp định Paris được ký kết năm 1973, nhưng thực tế thì Hoa Kỳ bắt đầu rút quân từ tháng Bảy 1969 và tiếp tục cho đến khi toán quân cuối cùng về nước vào tháng Tám 1972.
[2]Ngoại trừ một cuộc xâm nhập ngắn hạn của 32.000 quân Mỹ tại vùng biên giới Việt-Campuchia (tháng Sáu, 1970) để giúp VNCH phá hủy các căn cứ hậu cần của quân đội Bắc Việt và MTGPMN.
[3]Chính phủ liên hiệp trung lập Lào thành lập theo hiệp định này bị khủng hoảng liên tiếp cho đến tháng Mười Hai 1975 thì hoàn toàn nằm trong tay cộng sản Pathet Lao. Vương quốc Lào bị thay thế bằng Dân chủ Cộng hòa Nhân Dân Lào. Vua Savang Vatthana được phong làm cố vấn cho chủ tịch nước, nhưng sau đó bị đưa đi học tập cải tạo và năm 1978 thì chết ở trong trại cùng với hoàng hậu và con trai lớn.
[4]Ðảng CSVN là sự kết hợp của Ðông Dương Cộng Sản Ðảng, An Nam Cộng Sản Ðảng và Ðông Dương Cộng Sản Liên Ðoàn cùng ra đời năm 1929 ở Trung Hoa.
[5]Về tình hình hoạt động của các đảng phái Việt Nam ở Trung Hoa thời đệ nhị Thế chiến và cuộc tranh giành chính quyền năm 1945 đưa tới tàn sát đẫm máu năm 1946, xin xem Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử của Lê Xuân Khoa, Tiên Rồng xuất bản, 2004, chương 1.
[6]“Khi chiến tranh gia tăng cường độ, mức viện trợ của Liên Xô cũng tăng theo cho tới mức 80 phần trăm tổng số quân viện cho VNDCCH.” (Spencer C. Tucker, ed., The Encyclopedia of the Vietnam War, New York: Oxford University Press, 2000, tr. 415)
[7]Trên đường đi dự hội nghị Genève về tị nạn Ðông Dương tháng Bảy 1989, tôi ghé Paris và được giáo sư Vũ Quốc Thúc cho biết cựu ngoại trưởng Trần Văn Ðỗ muốn gặp tôi để nhắn nhủ. Khi giáo sư Thúc đưa tôi tới thăm, cựu Ngoại trưởng kể lại chuyện gặp ông Phạm Văn Ðồng ở Genève 1954 và khuyên tôi khi sang Genève phải tìm gặp trưởng phái đoàn Hà Nội để thăm dò khả năng giải quyết vấn đề tị nạn giữa người Việt Nam với nhau thay vì phải chịu một giải pháp do Hoa Kỳ và các nước lớn áp đặt. Thấy tôi ngần ngại tiếp xúc với đại diện cộng sản, cựu ngoại trưởng nói: “Nếu có bị ai chỉ trích thì ông cứ nói rằng chính tôi thúc giục ông làm chuyện này.” Tại Genève, tôi nhờ Eric Schwartz, giám đốc Á châu của Hội đồng An ninh Quốc gia và là thành viên của phái đoàn Mỹ, thu xếp cho tôi gặp phái đoàn Việt Nam do Nguyễn Cơ Thạch cầm đầu, nhưng lúc đó ông Thạch từ chối.
[8]Spencer C. Tucker, ed., op. cit., tr. 64.
[9]Dương Trung Quốc, tổng biên tập tạp chí lịch sử Xưa Nay, không phải là đảng viên cộng sản và được bầu làm dân biểu quốc hội. Lời phát biểu này được ghi trong cuộc thảo luận “Bàn tròn Trực tuyến” trên Vietnamnet (www.vnn.vn) ngày 3/2/2004.
[10]Theo lời kể lại của Ramchundur Goburdhun, Chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến, sau khi gặp Hồ Chí Minh trong vai trò trung gian bí mật giữa hai nhà lãnh đạo Bắc Nam năm 1963. Hồ Chí Minh còn nhận xét thêm rằng Ngô Ðình Diệm với cá tính độc lập rất khó hợp tác với Mỹ vì Mỹ muốn kiểm soát mọi chuyện. Ông Hồ còn nhắn Goburdhun: “Khi nào gặp ông Diệm thì bắt tay ông ta giùm tôi.” (Ellen J. Hammer, A Death in November, New York: E.P. Dutton, 1987, p. 222).
[11]V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 26, bản tiếng Việt, NXB Tiến bộ, M. 1981, tr.276.
[12]V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 32, bản tiếng Việt, NXB Tiến bộ, M. 1981, tr.32.

—————————————————

 

Tranh luận về tên gọi Cuộc chiến 1955-1975

Phần 2

III.

Lê Xuân Khoa: Xuyên tạc sự thật hay phục hồi sự thật?

Ngày 15-03-2005, nhật báo Nhân Dân có đăng bài “Gọi tên cuộc chiến hay xuyên tạc sự thật?” của ông Nguyễn Hoà nhận xét về một bài viết của tôi đã được BBC đưa lên trang web của đài ngày 15-2-2005 dưới tựa đề “Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?”. [1] Khác với một số ít người bảo thủ cực đoan ở trong nước cũng như ở bên Mỹ đã chỉ trích tôi bằng những lời lẽ có tính chất thoá mạ, chụp mũ, ông Nguyễn Hoà đã giữ được thái độ nghiêm chỉnh, lịch sự, mặc dù cũng có lúc ông đã chê trách tôi là “ngô nghê” hay ”khôi hài”. Tôi cám ơn ông Hòa về thái độ nghiêm chỉnh cần thiết trong khi tranh luận vì lẽ phải và sự thật, để cuối cùng nếu hai bên không đồng ý được với nhau thì vẫn có thể tôn trọng sự khác biệt, đúng với tinh thần thảo luận dân chủ “we agree to disagree” (đồng ý là chúng ta bất đồng ý với nhau).

Ông Nguyễn Hoà nhìn nhận tôi có thiện ý “nhắc lại quá khứ không phải nhằm khơi dậy lòng thù hận” mà để “rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai.” Nhưng ông khuyến cáo tôi phải “xem xét cẩn trọng” vì, theo ông, tôi đã phạm phải nhiều sai lầm về phương pháp học cũng như trong quan niệm về chính nghĩa của chiến tranh “chống Mỹ cứu nước.” Ông Hoà đã nêu lên ba sai lầm lớn trong bài viết của tôi:

1. Về tên gọi của cuộc chiến

Trong đoạn kết, tôi đề nghị “cuộc chiến này (1955-1975) nên được gọi đơn giản là ‘Chiến tranh Việt Nam’ với ý nghĩa khách quan phi chính trị là chiến tranh xảy ra trên đất nước Việt Nam” để cho các bên liên hệ có thể “vượt lên khỏi những ám ảnh tiêu cực của quá khứ và những cuộc tranh luận do tình cảm chủ quan.”

Ðề nghị này bị ông Nguyễn Hoà phê bình nghiêm khắc vì cho rằng tôi đã phạm phải hai sai lầm quan trọng: (a) tôi đã loại bỏ yếu tố chính trị ra khỏi cuộc chiến, tức là đã phủ nhận chính nghĩa của “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam” và thay thế vào đó bằng cách giải thích bản chất của cuộc chiến này là “nội chiến” đồng thời là “chiến tranh uỷ nhiệm”; và (b) tôi đã “khá ngô nghê” khi xác định rằng “Cuộc nội chiến vì lý tưởng khác biệt, cộng sản và không cộng sản, có mầm mống từ cuối thập kỷ 1920” với sự thành lập của Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Theo ông Nguyễn Hòa, tôi đã “đánh đồng mục tiêu mà Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông theo đuổi với bản chất ‘thừa hành’ của những người cầm quyền do người Pháp, và sau này là người Mỹ, dựng lên ở miền Nam Việt Nam.”

Về điểm (a), trước hết tôi cần phải nói ngay rằng mục đích chính và rõ rệt của tôi khi viết bài này vào dịp Tết là mong ước rằng chính quyền trong nước và cộng đồng người Việt hải ngoại, sau chiến tranh đã ba mươi năm, có thể “nhìn nhận nhau với những trao đổi bình đẳng hai chiều để cùng góp công xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ, hội nhập thành công vào cộng đồng thế giới và có đủ khả năng đối phó với những đe dọa mới từ phương Bắc.” Ðây cũng chính là điều mà các nhà lãnh đạo Ðảng và Nhà nước mong muốn từ nhiều năm nay nên đã luôn luôn kêu gọi mọi người hãy khép lại quá khứ, hướng về tương lai để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước. Muốn đạt được mục đích ấy thì cả hai bên – trước tiên là phe thắng trận – cần phải thực lòng hoà giải với nhau, nhìn nhận nhau và đối xử trong tinh thần bình đẳng. Kết quả này chỉ có thể đạt được nếu cả hai bên đều bình tâm ôn lại những bài học quá khứ, kiểm điểm không chỉ những thành tựu mà cả những sai lầm của mình vì lợi ích chung của dân tộc.

Trong lúc chiến tranh, nếu hai bên đối nghịch có gán cho nhau đủ mọi thứ lỗi lầm và tội ác thì cũng là điều dễ hiểu, nhưng khi cuộc chiến đã chấm dứt thì phe thắng trận không thể cứ tiếp tục thái độ tự tôn và khinh miệt đối với phe thất trận. Tôi không hề phủ nhận khả năng lãnh đạo, tổ chức, và chính nghĩa mà Mặt trận Việt Minh đã giành được trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1945-1954, cũng như tôi đã không bỏ qua những nhược điểm về tổ chức và lãnh đạo của các lãnh tụ quốc gia, cùng với sự phản bội của đồng minh, đã khiến cho họ phải thất bại. Nhưng nhất định không thể vì những nhược điểm ấy mà khẳng định rằng những người không theo hay đối lập với Ðảng Cộng sản đều không yêu nước, thậm chí là “Việt gian phản quốc”. Cứ tiếp tục khẳng định như thế mới chính là “tuyên truyền một chiều”, “xuyên tạc lịch sử” và “độc quyền yêu nước”.

Không thể nói rằng những người có lập trường chính trị không cộng sản không phải là những người yêu nước. Những trí thức Tây học như Nguyễn An Ninh, Bùi Quang Chiêu, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Nguyễn Tường Tam, dù đường lối chính trị có khác nhau, cũng đều là những người đã chống thực dân Pháp kịch liệt. Tuy nhiên, trong quá khứ đã có nhiều nhà cách mạng và chính trị gia không cộng sản hay thuộc phe đệ tứ quốc tế bị sát hại do chính sách “tiên hạ thủ vi cường” của Việt Minh, nhất là trong chiến dịch truy diệt đảng phái quốc gia tháng Năm–tháng Mười năm 1946. Cứ thực tình mà nói, ngay cả những nhà cách mạng tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, giả thử còn sống cho đến khi Ðảng Cộng sản chính thức cầm quyền thì số phận của các cụ chắc hẳn đã đổi khác và khó lòng được đặt tên cho các đường phố ở Việt Nam.

Trong cuộc chiến 1955-1975, một lần nữa Ðảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ khả năng tổ chức và lãnh đạo giỏi trên cả hai mặt trận tuyên truyền và quân sự. Do chính sách sai lầm của Mỹ, do quan niệm trị nước phong kiến của Ngô Ðình Diệm và sự tồi tệ của những chính quyền quân phiệt kế tiếp, quân và dân miền Bắc đã tin tưởng ở nghĩa vụ “giải phóng đồng bào miền Nam khỏi vòng kìm kẹp của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai” và chấp nhận mọi hi sinh gian khổ để “chống Mỹ cứu nước”. Cuộc “Mỹ hoá chiến tranh” với hàng triệu tấn bom và hỏa lực khủng khiếp trong những cuộc oanh tạc miền Bắc và hành quân lùng và diệt địch tại chiến trường miền Nam đã chỉ làm gia tăng niềm phẫn nộ của dân chúng toàn miền Bắc và làm mất lòng người trong những vùng bị càn quét ở miền Nam.

Tuy nhiên, không thể vì những nhược điểm lãnh đạo của Ngô Ðình Diệm hay tham vọng chính trị của một số tướng lãnh miền Nam mà kết luận rằng toàn thể chế độ Việt Nam Cộng Hòa là “bù nhìn” hoặc “tay sai của đế quốc Mỹ.” Cần phải nhìn nhận rằng Ngô Ðình Diệm, khi mới lên cầm quyền, đã ổn định được tình trạng hỗn loạn năm 1955 và được nhân dân miền Nam tin tưởng vì đức tính thanh liêm và các thành tích yêu nước của ông từ thời Pháp thuộc. Chỉ đến khi củng cố chế độ độc tài gia đình trị theo quan niệm “dân chi phụ mẫu”, ông mới gây nên luồng sóng bất mãn trong dân chúng đưa đến những mưu toan đảo chánh mà kết cuộc là ông bị thảm sát năm 1963. Ngoài ra, Ngô Ðình Diệm luôn luôn giữ tinh thần độc lập, không chịu nhượng bộ trước mọi áp lực của Hoa Kỳ, thậm chí có nhà ngoại giao Mỹ đã nhận xét về nhãn hiệu “bù nhìn” mà phía cộng sản đã gán cho ông: “(Ông Diệm) là một bù nhìn tự giật giây lấy và giật giây luôn cả chúng ta (Mỹ) nữa.” [2] Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã xác nhận rằng nhà lãnh đạo miền Nam khi ấy là “một người yêu nước theo cách của ông ta” và “với cá tính độc lập, Ngô Ðình Diệm rất khó hợp tác với Mỹ vì Mỹ muốn kiểm soát mọi chuyện.” [3]

Sau Ngô Ðình Diệm là một chuỗi chính quyền quân phiệt do một số tướng lãnh chỉ lo tranh giành quyền lãnh đạo chính trị hơn là chỉ huy quân sự khiến cho Hoa Kỳ phải đem quân chiến đấu vào “Mỹ hoá” cuộc chiến, để rồi khi Mỹ rút quân về nước và cắt viện trợ thì sự sụp đổ của miền Nam sẽ phải là hậu quả tất nhiên không thể tránh được. Nhiều binh chủng thiện chiến bị tan rã, các tướng tá ngoài mặt trận bị cắt phương tiện chiến đấu và quyền quyết định nên trước tình thế tuyệt vọng nhiều người đã tự chọn cái chết thay vì đầu hàng hay bị bắt. Ngay cả những tướng lãnh ham làm chính trị cũng không phải là những kẻ chỉ biết phục tùng mệnh lệnh của Mỹ. Tham quyền cố vị như Nguyễn Văn Thiệu cũng đã làm cho Nixon và Kissinger phải điên đầu trước khi không còn sự lựa chọn nào khác hơn là chấp thuận bản Hiệp định Paris để đổi lấy những lời cam kết của Nixon sẽ “tiếp tục hỗ trợ đầy đủ nhất, cả về kinh tế lẫn quân sự phù hợp với những điều khoản về ngưng chiến của bản hiệp định này”, và nhất là “Tôi tuyệt đối đoan chắc với Ngài là nếu Hà Nội không tôn trọng những điều thoả thuận thì tôi sẽ quyết định hành động trả đũa nghiêm khắc và mau chóng.” [4]

Ngoài ra cũng cần phân biệt nhân sự lãnh đạo với cấu trúc chính trị của chế độ. Dù cá nhân lãnh đạo miền Nam có thể bị chỉ trích vì lạm dụng quyền hành, cấu trúc chính trị của Việt Nam Cộng Hòa là một mô hình dân chủ tam quyền phân lập có giá trị mà nếu được thi hành đúng đắn thì chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho dân tộc. Ngay trong thời chiến tranh và lãnh đạo lạm quyền, ngưòi dân miền Nam cũng đã được hưởng các quyền tự do căn bản ở mức độ đáng kể như tự do tín ngưỡng, báo chí, kinh doanh, lập hội, biểu tình. Nước Nga ngày nay, dù lãnh đạo vẫn còn khuynh hướng độc đoán, đã thiết lập được một cấu trúc chính trị tương tự như miền Nam Việt Nam thời trước.

Trong bài viết về tên gọi cuộc chiến, tôi đã xác nhận “lý do chính đáng để gọi giai đoạn Mỹ hoá chiến tranh (1965-1972) là Chiến tranh của Mỹ (American War). Nhưng ngoài thời gian bảy năm có sự can thiệp trực tiếp từ bên ngoài, cuộc chiến hai mươi năm vẫn là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn vì những lý tưởng chính trị khác nhau, một bên là những người tin tưởng ở một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình đẳng do chủ nghĩa cộng sản đem lại cho toàn thể nhân dân, và một bên là nhừng người chọn lựa một xã hội dân chủ tư sản trong đó người dân có nhiều quyền tự do và cơ hội phát triển đời sống cá nhân. Từ những lý tưởng đối lập đó, cả hai bên đã bị những đồng minh khổng lồ sử dụng trong cuộc tranh giành vai trò lãnh đạo quốc tế được gọi tên là Chiến tranh Lạnh. Cuộc nội chiến do đó cũng là chiến tranh ủy nhiệm. Tôi không thấy cần phải nói gì hơn về chiến tranh ủy nhiệm vì trong bài “Gọi tên gì cho cuộc chiến” và nhất là trong cuốn Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử, tôi đã chứng minh tính chất này qua những áp lực của các “nước bạn” mà mỗi bên đã phải chịu đựng trong suốt hai cuộc chiến kéo dài ba mươi năm (1945-1975).

Về điểm (b), tôi không thấy tôi sai lầm khi nhắc đến lai lịch cuộc nội chiến, có “mầm mống” từ những cương lĩnh khác nhau giữa Việt Nam Quốc Dân Ðảng của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Cộng Sản Ðảng của Hồ Chí Minh, qua những hoạt động cạnh tranh giữa các lãnh tụ quốc gia và cộng sản trong những ngày lưu vong ở Trung Hoa, cho đến những cuộc thanh toán đẫm máu năm 1946. Viết như thế, tôi không thấy tôi đã “xúc phạm vong linh của tiền nhân” vì những nhà cách mạng không cộng sản như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam đều là những người yêu nước chân chính, dù họ đã thất bại. Những lãnh tụ chính trị hay tôn giáo đã bị Việt Minh thủ tiêu như Trương Tử Anh, Lý Ðông A, Hồ Văn Ngà, Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Phú Sổ, Trần Quang Vinh đều là những người yêu nước chống Pháp. Tiếp đến là những chính trị gia thời Việt Nam Cộng Hòa như Ngô Ðình Diệm, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Tiến Hỷ, Trần Văn Tuyên (ba người sau này chết trong trại tù cải tạo,) dù đường lối chính trị có thể khác nhau, nhưng nhất định không thể bảo là những kẻ “thừa hành” hay là “tay sai của đế quốc Mỹ.”

2. Về ý thức hệ quốc gia

Ông Nguyễn Hòa khẳng định rằng, từ đầu thế kỷ 20, người Việt Nam đã yêu nước bằng những con đường khác nhau “nhưng cuối cùng, sự lựa chọn duy nhất đúng chỉ có được với sự ra đời của Ðảng Cộng sản Việt Nam và vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh.” Ông đã nêu ra giả thuyết là nếu Pháp không quay trở lại xâm lược Việt Nam thì “với chính quyền nhân dân đã được thành lập trên cả nước vào cuối năm 1945… chúng ta hoàn toàn có thể chung tay xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh.”

Từ lý luận đó, ông cho rằng các chính quyền Quốc Gia Việt Nam thời 1945-1954 cũng như chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thời 1955-1975 chỉ là những “công cụ thừa hành” của Pháp rồi sau đó là của Mỹ, “không có một định hướng chính trị cụ thể” vì thế “sẽ là hài hước nếu cho rằng chính quyền thừa hành nói trên lại được xây dựng trên cơ sở một ‘ý thức hệ’.”

Trước hết, cần nhận xét về lai lịch và bản chất của những chính quyền quốc gia trong giai đoạn chiến tranh 1945-1954. Khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ trên toàn quốc vào cuối năm 1946 [5] thì các lực luợng đảng phái quốc gia đã bị tiêu diệt gần hết. Các lãnh tụ và đảng viên còn sống sót của Quốc Dân Ðảng hay Cách Mệnh Ðồng Minh Hội đều đã phải chạy sang Tàu hay lẩn sâu trốn kỹ. Vì được Mỹ giao cho nhiệm vụ ngăn chặn Cộng sản ở Á châu, Pháp phải điều đình với Bảo Ðại để thành lập một chính quyền quốc gia với lời hứa hẹn trao trả độc lập cho một nước Việt Nam không cộng sản. Do Hiệp Ðịnh Hạ Long năm 1948, chính phủ Quốc Gia Việt Nam đầu tiên được ra đời. Một số chính khách vì tin tưởng ở sự ủng hộ của Hoa Kỳ sau lưng Pháp nên nhận lời tham gia chính phủ. Ðây chỉ là sự hợp tác chẳng đặng đừng của những người bị thất thế, lại bị lẫn lộn với những phần tử hoàn toàn thân Pháp nên không lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân. Thái độ ngoan cố và giả dối của Pháp đã phá hoại cơ hội gây dựng tín nhiệm của tất cả các chính phủ hợp tác với Pháp chống Việt Minh. Mãi đến ngày 4 tháng Sáu, chỉ hơn một tháng trước ngày ký hiệp định Genève, khi biết rằng đằng nào cũng phải ra đi, Pháp mới chịu trao trả độc lập hoàn toàn cho Quốc Gia Việt Nam, qua hiệp ước Daniel–Bửu Lộc.
Các chính phủ quốc gia thời Bảo Ðại, dù có những khuôn mặt thân Pháp như Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, đều có những nỗ lực đòi Pháp trả lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, do những lỗi lầm của Pháp, họ không đạt được kết quả mong muốn và công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Pháp đến thắng lợi là hoàn toàn do Việt Minh lãnh đạo. Bởi thế, tôi đã nêu ý kiến là cuộc chiến 1945-1954 có thể gọi bằng nhiều tên khác nhau: chiến tranh giành độc lập, chiến tranh chống đế quốc Pháp, hay ngắn gọn hơn, chiến tranh Việt–Pháp. Quốc Gia Việt Nam của Bảo Ðại dù sao cũng chưa phải là một thực thể độc lập và đã bị gắn liền với vai trò của Pháp nên không đáng được nhắc tới.
Tuy nhiên, sau khi đất nước đã bị chia đôi và miền Nam đã hoàn toàn độc lập từ 1955 dưới danh hiệu Việt Nam Cộng Hoà thì đây là một thực thể độc lập về chính trị, quân sự và ngoại giao, hiện diện trong mọi sinh hoạt của cộng đồng quốc tế, đối lập với thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở miền Bắc. Nếu chính sách của Mỹ không phạm phải sai lầm, nếu đường lối cai trị của Ngô Ðình Diệm không trở thành độc đoán thì Việt Nam Cộng Hoà đã có triển vọng trở thành giàu mạnh không thua kém gì Ðại Hàn ngày nay.

Về mặt ý thức hệ, nếu hiểu sát nghĩa là một hệ tư tưởng chính trị toàn diện với cơ sở lý luận đặc thù và những giáo điều soi sáng cho hành động của đảng viên như chủ nghĩa Mác-xít và Cộng sản quốc tế thì đúng là phe quốc gia Việt Nam không có một hệ tư tưởng nào có tầm vóc tương đương. Ngoại trừ các tôn giáo lớn với kinh điển của những vị giáo chủ được mặc khải hay tự giác và một số lý thuyết về dân tộc chủ nghĩa của một số lãnh tụ quốc gia, khi nói về ý thức hệ của những người Việt Nam không cộng sản thì tức là nói về những quan điểm chính trị đa nguyên nhưng đều lập cước trên những nguyên tắc căn bản về dân tộc, dân quyền và dân sinh, chú trọng vào công cuộc phát triển cá nhân để cùng đóng góp vào tiến bộ chung của xã hội. Hiểu như vậy thì tất cả những công dân trong một quốc gia không cộng sản đều có ý thức hoặc được giáo dục về quyền lợi và bổn phận của mình, và những người cầm quyền đều phải có nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đạt được các nguyện vọng chính đáng của họ. Lãnh đạo mà đi ngược với nguyện vọng của nhân dân thì sớm muộn gì cũng sẽ bị thay thế hay lật đổ. Các biến cố lịch sử mấy chục năm về trước đã cho thấy các chính quyền miền Nam không phải là những “pho tượng đất được thổi linh hồn” như ông Nguyễn Hoà đã mô tả mà chính là những con người thật có ý thức đã phải đối phó rất vất vả—và có khi phải thiệt mạng—khi có những quyết định trái ngược với nguyện vọng của nhân dân.

Trở lại điều khẳng định của ông Nguyễn Hoà là “sự lựa chọn duy nhất đúng” của người dân Việt Nam là “Ðảng Cộng sản Việt Nam và vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, nhận xét của tôi là điều khẳng định này chỉ đúng có một phần rất nhỏ. Trước hết, Ðảng Cộng sản Ðông Dương [6] đã tự giải tán từ tháng Mười Một 1945 cho đến khi tái xuất hiện năm 1951 với tên mới là Ðảng Lao Ðộng Việt Nam, sau khi Mao Trạch Ðông đã thống nhất được Trung Quốc và trở thành “hậu phương lớn” của đồng minh Cộng sản Việt Nam. Nhân dân Việt Nam chưa khi nào có cơ hội lựa chọn giữa Ðảng Cộng sản và các đảng khác để có thể nói rằng đây là sự lựa chọn “duy nhất đúng”. Tổ chức chính thức qui tụ được các đoàn thể nhân dân từ Cách Mạng tháng Tám 1945 và điều động cuộc kháng chiến cho đến 1954 là Mặt trận Việt Minh, và trong suốt thời gian đó Chủ tịch Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh luôn luôn nêu cao chính nghĩa “toàn dân kháng chiến chống Pháp giành độc lập”, không bao giờ tuyên bố chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản hay kêu gọi nhân dân theo Ðảng Cộng sản. Nói cách khác, hầu hết những người đi theo Việt Minh đều do lòng yêu nước chứ không phải vì ý thức hệ mác-xít. Chủ tịch Hồ Chí Minh được đa số biết đến và tin tưởng dưới hình ảnh của một nhà cách mạng vì dân tộc chứ không phải với tư cách một lãnh tụ cộng sản.

Ông Nguyễn Hòa có nêu lên một giả định lịch sử là nếu Pháp không trở lại Việt Nam năm 1945 thì sau khi chính quyền nhân dân đã thành lập trên toàn quốc, “chúng ta hoàn toàn có thể chung tay xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh.” Ðiều này không có gì đảm bảo vì lịch sử đương đại đã chứng minh là không có một nước cộng sản nào có thể làm cho dân giàu nước mạnh trừ khi chấp nhận kinh tế thị trường và thực hiện “xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.” Trên kia, tôi cũng đã đưa ra một giả định lịch sử có tính hiện thực hơn là nếu Ngô Ðình Diệm không lãnh đạo sai lầm thì miền Nam Việt Nam đã có thể trở thành một con rồng nhỏ ở Á châu như trường hợp một nửa phía Nam của Hàn quốc.

3. Về chiến tranh ủy nhiệm

Ở đây, ông Nguyễn Hoà trở lại điểm số 1 để phản bác nhận xét của tôi trong cuốn sách Việt Nam 1945-1995 (tập I) mà ông cho là “khôi hài” khi tôi viết: “Cuộc chiến hai mươi năm ở Việt Nam vừa là nội chiến vừa là chiến tranh ủy nhiệm mà rốt cuộc là ‘tất cả mọi phe đều thua’.”

Ông Hòa buộc tội tôi đã coi “nền độc lập và sự kiện sau ba mươi năm giang sơn thống nhất về một mối” là “một sự thất bại” và đặt câu hỏi: “phải chăng giáo sư lại mong muốn Tổ quốc Việt Nam – nơi ông đã sinh ra, lại mãi mãi bị chia cắt, mãi mãi phải quằn quại dưới gót giày ngoại bang?”

Ông Hoà giải thích: “sự ủng hộ rộng rãi về tinh thần, sự giúp đỡ to lớn về vật chất của khối xã hội chủ nghĩa mà chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc… chính là sức mạnh vật chất–tinh thần của phong trào giải phóng dân tộc chân chính dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam.” Sau đó, ông cũng cho thấy “hơn 200 tỷ USD (theo thời giá hiện tại là hơn 600 tỷ USD) mà người Mỹ đã chi phí để nuôi sống bộ máy chính quyền cùng quân đội tay sai trong hơn 20 năm là một con số vượt trội gấp nhiều lần so với viện trợ mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, cùng đồng bào yêu nước ở hai miền nam-bắc nhận được trong những năm chiến tranh”. Về điểm này, tôi lại phải nói ngay rằng chi phí của Mỹ cho chiến tranh Việt Nam bao gồm cả những chi phí cho quân đội Mỹ đánh trận theo kiểu nhà giàu, [7] tốn kém phí phạm gấp nhiều lần so với số viện trợ cho quân đội và dân chúng miền nam. Ngoài ra, “sự giúp đỡ to lớn” của Liên Xô và Trung Quốc không phải là không kèm theo những áp lực đòi Ðảng Cộng sản Việt Nam phải thi hành, và khi thấy Việt Nam không còn có lợi ích cho quốc gia họ thì họ không ngần ngại bỏ rơi. Những nỗi đắng cay trong quan hệ với các “nước bạn” đã được tiết lộ bởi Tổng Bí thư Lê Duẩn trong những buổi nói chuyện với các đồng chí Bộ Chính trị, bởi các nhà ngoại giao Hà Nội trong những phiên họp hậu chiến với Mỹ từ 1995 đến 1998, và cuốn Sách trắng nhan đề Sự thật về Quan hệ Việt Nam–Trung Quốc trong 30 năm qua của Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam công bố ngày 4 tháng Mười năm 1979.

Khi đọc bài “gọi tên cuộc chiến” của tôi, ông Nguyễn Hòa không thể không để ý đến câu tôi viết: “Lịch sử Việt Nam là một thiên hùng sử của một dân tộc hàng ngàn năm tranh đấu chống ngoại xâm và bảo vệ độc lập cho tổ quốc” và việc tôi nhấn mạnh đến nhu cầu hòa giải và “đoàn kết dân tộc để có đủ khả năng đối phó với những đe dọa mới từ phương bắc”. Như vậy, làm sao mà tôi lại có thể là con người “mong muốn Tổ quốc Việt Nam… mãi mãi bị chia cắt, mãi mãi phải quằn quại dưới gót giày ngoại bang?” Khi đọc cuốn sách đã dẫn trên của tôi, ông Hoà hẳn cũng nhận thấy rằng khi nói về chiến thắng Ðiện Biên Phủ, tôi đã nêu lên ba nguyên nhân chính: (1) viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, (2) lãnh đạo giỏi của Ðảng Cộng sản Việt Nam với sự cố vấn của Trung Quốc, và (3) tinh thần chiến đấu dũng cảm cùng với sức chịu đựng phi thường của quân đội và dân công Việt Nam.

Ngoài việc phê phán tôi xuyên tạc lý tưởng của những người đã “hy sinh thân mình cho sự thống nhất của Tổ quốc”, ông Hoà còn không chấp nhận ý kiến của tôi là “không phải chỉ có kẻ thắng trận mới là người yêu nước.” Ông dứt khoát phủ nhận lòng yêu nước của những người đối lập với chủ nghĩa cộng sản và buộc tội họ là những kẻ phản quốc. Ông kết án tôi “đã xoá nhoà ranh giới giữa lòng yêu nước chân chính của nhân dân ta với những kẻ đã bán rẻ đất nước, phục vụ quyền lợi và mưu đồ của ngoại bang.” Tôi thấy không cần phải thêm vào những điều tôi đã trả lời rất rõ ràng trong hai vấn đề 1 và 2 trên đây cũng như trong cuốn sách của tôi về lòng yêu nước và lý tưởng tự do dân chủ của những người không cộng sản.

Stanley Karnow, tác giả cuốn VIETNAM: A History được đánh giá cao ở Việt Nam, đã đặt tên cho chương sách đầu tiên của ông là “Cuộc chiến không ai thắng” vì theo ông, đây là “cuộc chiến tranh giữa các nạn nhân”. Nhận xét ấy đã gợi ý cho tôi suy nghĩ thêm và kết luận đây là “cuộc chiến mà mọi phe đều thua.” Như đã chứng minh ở trên, tôi không hề phủ nhận tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội cộng sản và lòng hi sinh vô bờ của nhân dân miền Bắc, nhưng tôi không thể không nhắc đến cái giá quá đắt về tài sản và nhân mạng và những tác hại lâu dài của một cuộc chiến lẽ ra không cần thiết hoặc có thể đã được chấm dứt sớm hơn nhiều. Chỉ riêng sự kiện Ðảng Cộng sản đã quyết định thực hiện tiến trình “đổi mới” từ ngót hai chục năm nay và đang cố gắng đáp ứng điều kiện của các nước để có thể gia nhập “Tổ chức Thương mại Thế giới” (WTO) cũng đủ cho thấy một thực tế là Nhà nước đang từ bỏ nền kinh tế tập trung để quay trở lại nền kinh tế thị truờng. Tôi chợt nhớ đã được đọc ở đâu đó một định nghĩa thật gọn gàng và chính xác: “Chủ nghĩa cộng sản là một chu trình lâu dài và đẫm máu từ chủ nghĩa tư bản đến… chủ nghĩa tư bản.”

Ðể tổng kết, ông Nguyễn Hòa đã khuyến cáo rằng điều tôi mong muốn về sự nhìn nhận và trao đổi bình đẳng hai chiều chỉ có giá trị nếu kết quả nghiên cứu của tôi “xuất phát từ một phương pháp luận khoa học, tôn trọng sự thật, với những khảo chứng khách quan, lịch sử, cụ thể, toàn diện… Còn nếu không, nghiên cứu đó xét đến cùng, sẽ chỉ là lẩn tránh, xuyên tạc sự thật, biện hộ cho các luận điệu của những kẻ đã và đang rắp tâm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, phá hoại quá trình hòa hợp của người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước”.

Thật là một lời cảnh cáo nghiêm khắc và một lời buộc tội nặng nề. Tôi hi vọng khi đọc hết bài trả lời này, ông Nguyễn Hòa sẽ đồng ý rằng tôi không chỉ là một kẻ có thiện chí muốn vận động cho mục tiêu hoà giải và đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ mà còn là một người nghiên cứu khách quan, khoa học, tôn trọng sự thật. Nếu ông Hoà thật sự tán thành ý kiến của tôi là “đã đến lúc chính quyền trong nước và cộng đồng hải ngoại cần phải nhìn nhận nhau với những trao đổi hai chiều” thì ông không thể cứ tiếp tục bảo vệ thái độ tự tôn của kẻ thắng trận và chủ trương chỉ có người cộng sản là yêu nước. Thật là vừa ngô nghê vừa khôi hài nếu bảo rằng một người đã giảng dạy trên hai mươi năm ở nhiều đại học và đã điều hành nhiều chương trình giúp đỡ nhân đạo ở Việt Nam từ mười mấy năm nay, là một kẻ làm việc thiếu phương pháp nghiên cứu khoa học, lẩn tránh, xuyên tạc sự thật và biện hộ cho những kẻ đang rắp tâm chia rẽ dân tộc.

Ôn lại quá khứ và phục hồi sự thật lịch sử sẽ không khỏi làm phật lòng những người có trách nhiệm hay làm buồn lòng những người liên hệ. Nhưng sự thật lịch sử, kể cả những sai lầm khó tránh trong những tình huống đặc biệt, sẽ không thể che giấu mãi được. Vả lại, phục hồi sự thật lịch sử không phải để khơi lại lòng thù hận mà để cùng nhau rút ra những bài học quá khứ để làm tốt cho tương lai. Nhìn nhận những sai lầm đã qua sẽ chứng tỏ tư cách chân chính của người lãnh đạo. Hầu hết những người có trách nhiệm đều đã khuất, những người lãnh đạo hiện tại càng dễ vượt lên khỏi những ràng buộc của quá khứ để thực hiện đại đoàn kết dân tộc bằng những hành động hoà giải và hợp tác bình đẳng hai chiều để cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và dân chủ. Ðể có thể “khép lại quá khứ, hướng về tương lai”, hãy trả lại những tên gọi “chiến tranh chống Mỹ–Ngụy” và “chiến tranh chống Cộng sản” cho quá khứ huynh đệ tương tàn. Chỉ như vậy mới có thể xóa bỏ được hận thù, tạo điều kiện cho những đóng góp to lớn và có kế hoạch, về tài chánh cũng như chất xám, của ba triệu người Việt Nam từ những quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới ngày nay.

Rốt cuộc, vấn đề chính vẫn là có hay không những người thật tâm nghĩ đến lợi ích chung của đất nước và dân tộc?

Maryland, 1 tháng Tư 2005


 

[1]Bài này được viết dưới tựa đề “Tranh luận về tên của cuộc chiến” đăng trong số Xuân Ất Dậu của tạp chí Nhịp Sống do một nhóm bạn trẻ vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ chủ trương. BBC xin phép tôi cho đưa bài này lên trang web của đài và được tôi đồng ý, không phải như có người đã viết là tôi “xin” đài BBC để được đăng. Khi đăng bài này, BBC đã bỏ mất phần chú thích quan trọng. Ðộc giả muốn có bài với đầy đủ chú thích xin viết e-mail cho tôi về địa chỉ : lxkhoa@hotmail.com
[2] Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York : Viking, 1991), tr. 251.
[3]Lời kể lại của Ramchundur Goburdhun, Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Ðình chiến, được Ellen J. Hammer dẫn trong A Death in November (New York: E.P. Dutton, 1987), tr. 222.
[4]Thư của Richard M. Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu ngày 16-10-1972 và ngày 15-11-1972.
[5]Cuộc chiến tranh chống Pháp trên toàn quốc chính thức ngày 19-12-1946, nhưng cuộc kháng chiến đã diễn ra ở miền Nam từ tháng Chín 1945.
[6]Chỉ tám tháng sau ngày thành lập (tháng Hai 1930) Ðảng Cộng sản Việt Nam đã phải lấy lại tên cũ là Ðảng Cộng sản Ðông Dương, do chỉ thị của Comintern, để phù hợp với mục tiêu quốc tế đấu tranh giai cấp hơn là mục tiêu độc lập dân tộc.
[7]Chẳng hạn “cứ 4 lính Mỹ chiến đấu thì có 5 người phục vụ ở hậu tuyến kể cả những người làm bếp, làm cà-rem, nhân viên làm việc ở các trung tâm giải trí và kho hàng PX.” Tướng Westmoreland xác nhận “hầu hết các binh sĩ của chúng ta đều có những bữa ăn nóng ngay cả ở trong rừng” (Jack Anderson, báo The Washington Post, 21-7-1967).

 
 
Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Chiến tranh VN | Leave a Comment »

Những Người chỉ trích về vụ Bauxite

Posted by adminbasam trên 24/04/2009

Economist.com

Những Người chỉ trích về vụ Bauxite

Từ bản báo giấy của tờ The Economist

Ngày 23-4-2009

 

Chính phủ đặt tăng trưởng kinh tế lên trên không khí bài ngoại và giữ cho môi trường xanh trong lành.

Trong một quốc gia độc đảng nơi mà dân chúng thường bị bỏ tù vì chỉ trích chính sách của chính quyền, việc nói thẳng ý kiến của mình là hiếm có đối với mọi người ngoại trừ những người dũng cảm nhất hoặc là kẻ điên rồ.

Thế nhưng một kế hoạch của chính phủ cho phép một công ty Trung Quốc bắt đầu khai thác một trong những nguồn dự trữ bauxite to lớn nằm dưới lòng đất vùng Cao nguyên Trung phần vốn phủ đầy cây cối xanh tươi đã kích động một làn sóng phản ứng dữ dội chưa từng thấy từ một đội ngũ những người chỉ trích mà không ai ngờ tới. Những người ấy bao gồm vị anh hùng thời chiến ở tuổi gần một trăm, tướng Võ Nguyên Giáp, một nhà sư bất đồng chính kiến Thích Quảng Độ, và một số lượng đông đảo các nhà khoa học ưu tú và những nhân vật tranh đấu cho môi trường hàng đầu.

Việt Nam được may mắn với những nguồn dự trữ bauxite lớn thứ ba thế giới, nguyên liệu để sản xuất ra nhôm, và chính quyền cộng sản cương quyết muốn thu hoạch những nguồn lợi này.

Theo một kế hoạch mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gọi là “một chính sách lớn của đảng và nhà nước”, chính phủ đang tìm cách thu hút 15 tỉ đô la hoặc hơn nữa từ nguồn đầu tư để phát triển việc khai thác bauxite và các dự án luyện nhôm vào năm 2025. Họ đã ký một hợp đồng với một công ty con của hãng Chinalco, (một công ty khai thác mỏ do chính quyền Trung Quốc làm chủ), để xây dựng một khu mỏ và đã thỏa thuận với Alcoa, một tập đoàn nhôm lớn của Mỹ, để thực hiện một nghiên cứu khả thi cho một khu mỏ khác nữa.

Những người chỉ trích nói rằng sự có mặt của hoạt động khai mỏ bauxite với quy mô lớn trong một khu vực mà hiện thời đang trồng cà phê và những loại cây công nông nghiệp khác có thể gây nên những thiệt hại không thể cứu chữa được cho môi trường và từ việc di dân các sắc dân thiểu số là những người vẫn sống trên vùng Tây Nguyên. Bauxite thường được khai thác từ những khu mỏ lộ thiên, để lại những vết sẹo lớn trên mặt đất. Quy trình xử lý tinh chế cũng sản sinh ra một thứ “bùn đỏ” độc hại, loại bùn nầy có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng nếu như nó thấm chảy xuống các sông suối trong vùng.

Như vậy vẫn là chưa đủ, sự dính líu của một công ty Trung Quốc tại một dự án gây nhiều tranh cãi như thế đã khơi dậy tình cảm chống Trung Quốc âm ỉ tại Việt Nam, đất nước nầy đã từng bị thuộc địa hóa bởi người láng giềng lớn hơn trong suốt 1.000 năm và đã đánh nhau một trấn chiến ngắn ngủi nhưng đẩm máu vào năm 1979.

Ông Thích Quảng Độ, một nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, đã quả quyết rằng Việt Nam hiện đang “bị mối đe doạ xâm lược” bởi vì “những làng xóm có toàn công nhân Trung Quốc đã mọc lên như nấm trên vùng cao nguyên, và 10.000 người định cư Trung Quốc sẽ đến trong năm tới.”

Những nhận xét của ông đã được lặp lại bởi đội quân của các blogger đầy nhiệt tình ở Việt Nam, và một nhóm chống lại việc khai thác bauxite đã thiết lập một trang Facebook, một trang web mạng xã hội phổ biến, thu hút gần 700 thành viên. Có vẻ như các blogger Trung Quốc không phải là lực lượng duy nhất phải viện đến tinh thần bài ngoại cháy bỏng. Và mặc dù không nghi ngờ là có nhiều thái độ chống đối được lôi cuốn bởi tình cảm đó, song cũng có những mối quan ngại thật sự về những bản thành tích môi trường tồi tệ của nhiều công ty khai mỏ của Trung Quốc.

Tuy nhiên, dù cho có động cơ nào đi nữa, thì chính phủ Việt Nam cũng đang lo lắng về những chỉ trích công khai đối với Trung Quốc. Mới đây họ đã đình bản một tờ bán nguyệt san có tên là Du Lịch trong ba tháng do đã cho đăng một loạt bài báo về những tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước *. Lời giải thích cho biết rằng Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam cũng vẫn tồn tại một mức thâm hụt thương mại lớn với người láng giềng của họ và đã và đang thúc giục chính phủ Trung Quốc đầu tư hơn nữa vào nước mình để bù lại những thiếu hụt.

Với việc sút giảm 40% đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quý đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm ngoái – và tình trạng thiếu tiền mặt của đa số các quốc gia giàu có – giờ đây Việt Nam cần tiền của Trung Quốc hơn bao giờ hết.

Nỗi tủi nhục, chán nản của nhóm người vận động chống Trung Quốc gia tăng nhiều nhất khi Thủ tướng Dũng đã bỏ ra một tuần trong tháng 4 để thực hiện chuyến công du Trung Quốc, cố gắng khua chiêng gõ mõ [to drum up] cho hoạt động đầu tư và hứa hẹn tạo mọi sự dễ dàng hơn cho các công ty Trung Quốc hoạt động tại đất nước ông.

Tiếp theo sau một cuộc họp mặt với thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo, ông Dũng nói rằng hai nước sẽ phấn đấu mở rộng mâu dịch song phương từ 20 tỉ đô la Mỹ năm 2008 lên 25 tỉ năm 2010 và cố gắng tìm cách giải quyết vấn đề bất cân bằng về thương mại. (năm 2008, Trung quốc bán hàng qua VN gần 20 tỉ đô la, nhưng VN chỉ bán hàng hóa qua TQ chưa tới 1 tỉ– lời người dịch) .

Ông Hoàng Trung Hải, một phó thủ tướng, mới đây đã tuyên bố trong một cuộc họp báo với các nhà khoa học đang quan ngại về tình trạng phá huỷ môi trường rằng Việt Nam sẽ không theo đuổi kế hoạch khai mỏ “với bất cứ giá nào”. Thế nhưng thực tế cho thấy rằng trong thời buổi kinh tế túng quẫn, những kẻ đi ăn mày không thể là những kẻ có quyền lựa chọn **.

* Xem ”Báo Du lịch bị đình bản(BBC)“.

** Mời xem thêm 11 bài trên Bô-xít Tây Nguyên – mục Chủ đề

—-

Economist.com

Bauxite bashers

Apr 23rd 2009


From The Economist print edition

The government chooses economic growth over xenophobia and greenery

IN A one-party state where people are routinely jailed for criticising government policy, it is rare for all but the most brave or foolhardy to speak out. But a government plan to allow a Chinese company to start mining some of the massive reserves of bauxite lying beneath Vietnam’s verdant Central Highlands has provoked an unprecedented backlash from an unlikely assortment of critics. They include a nonagenarian war-hero, Vo Nguyen Giap, a dissident monk, Thich Quang Do, and a slew of leading scientists and environmental campaigners.

Vietnam is blessed with the world’s third-largest reserves of bauxite, the raw material for aluminium, and the communist government is keen to reap the benefits. Under a plan that the prime minister, Nguyen Tan Dung, has called “a major policy of the party and the state”, the government is seeking to attract $15 billion or more of investment to develop bauxite mining and aluminium refining projects by 2025. It has already signed a contract with a subsidiary of Chinalco, a state-owned Chinese mining group, to build one mine and agreed with Alcoa, an American aluminium giant, to carry out a feasibility study for another.

Critics say the arrival of large-scale bauxite mining in a region that currently grows coffee and other crops could cause irreparable damage to the environment and displace the ethnic-minority groups who inhabit the Central Highlands. Bauxite is usually extracted through open-cast mines, which leave vast scars on the landscape. The process by which it is refined also produces a toxic “red sludge”, which can cause serious pollution if it washes into streams and rivers.

As if that were not enough, the involvement of a Chinese company in such a controversial project has rekindled latent anti-Chinese sentiment in Vietnam, which was colonised by its larger neighbour for 1,000 years and fought a short but bloody war against it in 1979. Thich Quang Do, the leader of the outlawed Unified Buddhist Church, claims that Vietnam is “under threat of invasion” because “ whole villages of Chinese workers have mushroomed on the plateau, and 10,000 Chinese settlers are expected in the coming year.” His comments have been echoed by Vietnam’s enthusiastic army of bloggers, and an anti-bauxite-mining group set up on Facebook, a popular social-networking website, has attracted nearly 700 members. Chinese bloggers are not, it seems, the only ones to resort to inflame d xenophobia. And though much of the opposition is no doubt driven by that feeling, there are also genuine concerns about the lousy environmental records of many Chinese mining companies.

Whatever the motive, however, the Vietnamese government is nervous about public criticism of China. It recently banned a bi-weekly newspaper called Du lich (Tourism) for three months for running a series of articles about territorial disputes between the two countries. The explanation is that China is Vietnam’s biggest trading partner. Vietnam also runs a massive trade deficit with its neighbour and has been pushing China’s government to invest more in the country to offset the deficit. With foreign direct investment 40% lower in the first quarter of 2009 than it was a year before—and most rich nations short of cash—Vietnam needs Chinese money now more than ever.

Much to the chagrin of the anti-China lobby, Mr Dung, the prime minister, spent a week this month touring China, trying to drum up investment and pledging to make it easier for Chinese companies to operate in his country. Following a meeting with China’s prime minister, Wen Jiabao, Mr Dung said that the two countries would strive to expand bilateral trade from $20 billion in 2008 to $25 billion by 2010 and try to tackle the trade imbalance.

Hoang Trung Hai, a deputy prime minister, recently told a conference of scientists concerned about environmental damage that Vietnam will not pursue the bauxite mining plan “at any cost”. But the reality is that in straitened economic time s, beggars cannot be choosers.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Bô-xít Tây Nguyên, Chính trị, Môi trường, Quan hệ Việt-Trung, Tham nhũng | Leave a Comment »

Hãy Giữ Ổn Định cho vùng Biển Đông

Posted by adminbasam trên 22/04/2009

The Star Online

Hãy giữ ổn định cho vùng Biển Đông

MOHD NIZAM BASIRON

Thứ Hai, ngày 20-4-2009

 

Những vụ việc xảy ra gần đây trên vùng Biển Nam Trung Hoa[Biển Đông] có thể đã đánh thức những nước có yêu sách đối với các khu vực đang tranh chấp hãy đồng ý tự kềm chế trong các hoạt động tại đó thông qua Bản Công bố về cách hành  sử chung (DOC) của các nước trong khu vực.

Bản Công bố chung vào năm 2002 là một công cụ có tính tạm thời để kiểm soát những xung đột giữa các bên có yêu sách chủ quyền trên vùng Biển Đông trong khi các quốc gia cùng hành động hướng tới “một giải pháp hòa bình và bền vững” cho vấn đề này.

Các bên ký kết bao gồm thành viên của các quốc gia trong Asean và Trung Quốc.

Trong khi bản công bố các hành sử chung góp phần giảm bớt cường độ xung đột, thì nó lại không phải là một chuyến ra khơi êm ái trong khoảng thời gian giữa năm 2002 và hiện nay. Thời kỳ này đã được đánh dấu bằng những vụ xô xát nhỏ nhưng đôi khi là những biến cố chết chóc ví như hành động bắn giết các ngư dân Việt Nam của Trung Quốc vào những năm 2005 và 2007 *.

Bất chấp lời kêu gọi trong Bản Công  Bố chung dành cho những quốc gia đang đòi hỏi chủ quyền hãy giới hạn bớt các hành động ở trong vùng Biển Đông, các quốc gia liên quan đã hiếm khi tiết giảm việc tiến hành các hoạt động nhằm củng cố cho những đòi hỏi chủ quyền của họ.

Trung Quốc, Philippines và Việt Nam, là một ví dụ, đã hoàn tất một thỏa thuận khảo sát địa chấn ba bên vào năm 2007 **.

Điều thú vị là thỏa thuận khảo sát cũng đã tính đến cả những khu vực không được Trung Quốc và Việt Nam yêu sách chủ quyền song rõ ràng lại nằm bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Đã có một sự suy đoán như là: tại sao Philippines lại đồng ý việc khảo sát, với một số chuyên gia gợi lên ý kiến cho rằng nó na ná như trò “bán rẻ” có tính chất ngoại giao về phía Manila để hỗ trợ những gia tăng về mặt kinh tế.

Việc khảo sát địa chấn (giữa 3 nước) cũng có thể là bằng chứng cho chính sách chia-để-trị của Trung Quốc giữa những thành viên đang có yêu sách chủ quyền ở trong khối Châu Á.

Hơn nữa, việc khảo sát địa chấn này còn kích động một loạt những hành động của các nước có yêu sách chủ quyền khác, ví như chuyến viếng thăm của Tổng thống Đài Loan tới đảo Đông Sa ở Trung Quốc(?) vào tháng Hai năm ngoái nhằm đáng dấu việc hoàn thành một phi đạo trên đảo này ***.

Trong tình trạng bị cách ly, các biến cố này có thể bị coi như những sự việc nhỏ trong cả bối cảnh rộng lớn hơn của tình hình an ninh trên Biển Đông. Tuy nhiên, chúng có thể tạo nên một mối đe doạ cho sự ổn định khó lòng mà có được trong khu vực và ngấm ngầm phá hoại ít nhất là về mặt tinh thần nếu như không muốn nói là (phá hoại) nội dung của Bản công bố thỏa thuận DOC.

Những sự việc xảy ra gần đây nhất trong năm nay bao gồm việc những tàu giám sát của Mỹ trên Biển Đông và một đạo luật mới về đường cơ sở của Philippines cũng có thể đã gia tăng áp lực lên sự ổn định vốn đã mong manh này.

Hai tàu giám sát của Hoa Kỳ – USNS Impeccable và USNS Bowditch – đã được thấy là hiện diện trên vùng Biển Đông.

Philippines đã đưa ra một đạo luật mới coi Hoàng Sa (cũng là một khu vực mà Trung Quốc muốn yêu sách chủ quyền) bao gồm trong vùng ranh giới biển của họ.

Phản ứng có tính cách gây hấn của Trung Quốc đối với những việc này là có thể hiểu được, song lại gây thêm sự phức tạp.

Có thể hiểu được là không có quốc gia nào muốn thấy một con tàu khảo sát đại dương của người ngoại quốc ở 75 dặm cách căn cứ tàu ngầm chính của mình, nhưng việc sử dụng những tàu không phải của quân đội thay vì là các tàu quân sự  của Trung Quốc để đương đầu với chiếc USNS Impeccable lại đòi hỏi sự giải thích.

Có phải đó là một sự phô bày về tính kềm chế về phía Trung Quốc hay không? Không rõ Trung Quốc đã học được bài học từ vụ chiếc phi cơ EP-3 năm 2001 trực tiếp đối đầu về quân sự với Hoa Kỳ sẽ không có lợi cho bất cứ bên nào? Và nếu như biến cố ấy xảy ra lần nữa, liệu Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân có  xuất hiện thay vì những chiếc tàu “dân sự”?

Đây là những câu hỏi cần có những câu trả lời.

Sự hiện diện của những chiếc tàu Hoa Kỳ gợi nên suy đoán rằng Hoa Kỳ đang săn lùng những chiến tàu ngầm của Trung Quốc trên Biển Đông. Quả thực các giới chức quốc phòng Hoa Kỳ, phát biểu trong tình trạng nặc danh, đã cho biết rằng chiếc USNS Impeccable “là một  phận của một hoạt động giám sát được tính toán trước của Hoa Kỳ trong vùng Biển Đông đang có những tranh chấp.”

Và Trung Quốc cũng đã sử dụng loại tàu đánh cá có vũ trang trong vùng quần đảo Hoàng Sa để đáp trả lại bộ luật về đường cơ sở của Philippines.

Loại tàu đánh cá có vũ trang được gửi tới vùng biển này có lẻ là vì  Trung Quốc đã có một thỏa thuận với Philippines về việc cùng đánh bắt hải sản, song với bộ luật mới, Trung Quốc có thể nghĩ rằng Philippines đã đơn phương thủ tiêu thỏa thuận này.

Hiện giờ thì sao? Nếu như những nước có yêu sách chủ quyền trên vùng Biển Đông muốn tỏ thái độ nghiêm túc đối với hòa bình và ổn định trong khu vực, thì họ sẽ phải tìm kiếm những phương cách nào đó và có ý nghĩa là đưa bản tuyên bố chung về cách hành sử (DOC) ra thi hành.

Bản Công bố chung DOC đã không được thi hành một cách có hiệu quả kể từ buổi lễ ký kết năm 2002. Chẳng có chi tiết nào trong chương trình nghị sự của nó bàn về nghiên cứu khoa học biển, ngăn ngừa ô nhiễm, bảo vệ môi trường và an toàn cho ngành hàng hải được thực hiện. Có lẽ hiện trạng với những cuộc xung đột không liên tục là có thể chấp nhận được cho tất cả các bên liên quan.

Điều này sẽ là nguy hiểm, căn cứ vào mức độ căng thẳng đang gia tăng, hành vi khiêu khích và sự bùng nổ có thể xảy ra của những xung đột cũng như sự có mặt của hải quân Hoa Kỳ trong khu vực này.

Tóm lại, nếu như một số quốc gia có thể được xem như là “đang khuyến dụ con rồng” theo như một nhà phân tích nổi tiếng ám chỉ, thì họ nên cẩn thận đừng làm rung động con thuyền Biển Đông quá mạnh.

Mohd Nizam Basiron là một thành viên nghiên cứu tại Viện Hàng hải thuộc Malaysia. Những quan điểm trong bài là của riêng tác giả.

Ghi chú:

* Xem: bài số 70-Quáng gà lụy cáo già.

** Xem: Chớ có phản bội trong thỏa thuận Trường Sa; Quần đảo Trường Sa 101; Phản bội Trường Sa? – trên trang basam.tk

*** Xem: Đài Loan nhận chủ quyền Trường Sa (BBC).

 

The Star Online

Keeping stability in South China Sea

By MOHD NIZAM BASIRON

Monday April 20, 2009

THE recent happenings in South China Sea may have awaken claimants of the disputed zone which have agreed to exercise self-restraint in activities there via declaration on the code of conduct (DOC) of parties in that area.

The DOC is an interim instrument to manage conflicts between claimants in the South China Sea while the countries work towards “a peaceful and durable solution” to the problem in 2002.

The signatories include member states of Asean and China.

While the declaration has contributed to a reduction in the intensity of the conflict, it has not been a smooth sailing between 2002 and now. The period has been punctuated by minor but sometimes deadly incidents such as China’s shooting of Vietnamese fishermen in 2005 and 2007.

Despite the DOC’s call for claimants to exercise restraint in the South China Sea, the countries concerned have hardly been reticent in carrying out activities which would strengthen their claims. China, the Philippines and Vietnam, for example, completed a trilateral seismic survey in 2007.

Interestingly, the survey also included areas not claimed by China and Vietnam but clearly within the exclusive economic zone of the Philippines. There has been speculation as to why the Philippines agreed to the survey, with some analysts suggesting that it was akin to a diplomatic “ sellout ” on Manila’s part in favour of economic gains.

The survey could also be evidence of China’s divide-and-rule policy among the Asean claimants.

Moreover, it stimulated a series of activities by the other claimants, such as the visit of Taiwan’s President to Dongsha island in China in February last year to mark the completion of an airstrip on the island.

In isolation, these incidents might be considered minor events in the wider context of the South China Sea security. However, they could constitute a threat to hard-earned stability in the area and undermine at least the spirit if not the letter of the DOC.

The latest happenings this year include two American surveillance ships in the South China Sea and a new Philippine baseline law that could also add pressure to this already fragile stability.

Two US surveillance ships – USNS Impeccable and USNS Bowditch – were found present in the South China Sea.

The Philippines has set a new rule that saw Paracels (also an area that China wanted to claim) included in its maritime boundary.

China’s aggressive response to these incidents was understandable but somewhat perplexing.

Understandably, no country would like having a sophisticated foreign ocean survey vessel 75 miles off its main submarine base but the use of non-military vessels instead of military vessels by China to confront the USNS Impeccable begs explanation.

Was it a show of restraint on China’s part? Has China learnt from the EP-3 incident in 2001 that direct military confrontation with the United States will not benefit either party? And if it happens again, would the People’s Liberation Army Navy make an appearance instead of the “civilian” vessels?

These are the questions that needed answers.

The presence of the US vessels prompted speculation that the US was hunting for Chinese submarines in the South China Sea. Indeed US defence officials, speaking on conditions of anonymity, have indicated that the USNS Impeccable “was part of a calculated US surveillance operation in the disputed South China Sea.”

And China was also only using its fisheries enforcement vessel into the Paracels in response to the Philippines’ baseline law.

The fisheries enforcement vessel was sent probably because China had an agreement with the Philippines on joint fishing but with the new law, it may think the Philippines had unilaterally abrogated it.

What now? If the claimants of the South China Sea are serious about peace and stability in the region, they would have to find ways and mean s to move the DOC forward.

The DOC has not effectively moved beyond the 2002 signing ceremony. None of its agenda in marine scientific research, pollution prevention, environmental protection and safety of navigation have progressed. Perhaps the status quo with its intermittent conflicts is acceptable to all concerned.

This would be dangerous, given the heightened level of tension, provocative behaviour and possible outbreak of conflicts as well as the presence of the US navy in the region.

Indeed if some countries can be seen to be “tempting the dragon” as one prominent analyst suggests, they should be careful not to rock the South China Sea boat too hard.

l Mohd Nizam Basiron is a research fellow at the Maritime Institute of Malaysia. The opinions expressed are the writer’s personal views.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in ASEAN, Biển Đông/TS-HS, Quan hệ Mỹ-Trung | Leave a Comment »

Bô-xít và mối quan hệ nguy hiểm của TT Úc với TQ

Posted by adminbasam trên 21/04/2009

Toàn bộ Nội các hãy đọc đây … Không phải con sói, mà là con quỷ, đang đặt một chân vào nhà rồi.

Các Thủ Tướng và Phó Thủ Tướng  có mối liên hệ mật thiết với Trung Quốc

_”2008, Phó Thủ tướng Lào Samsavat, gốc Trung Quốc, đồng ý cho xây dựng thị trấn dành cho 130.000 người chuẩn bị di dân từ Trung Quốc tới làm việc ở Vạn Tượng .”  nguồn chính sách đối ngoại giữa Trung quốc và Lào 2007-2009

_”2009, Thủ tướng Úc Kevin Rudd, (từng sống ở Bắc Kinh trong nhiều năm 1985-1988) là hiện thân của một “đại sứ lưu động cho Bắc Kinh”, theo các chính trị gia đối lập của Úc cáo buộc.”

THE WALL STREET JOURNAL

Người thực hiện vụ mua bán hàng đầu cho chính quyền Trung Quốc được

thăng chức vào nội các chính phủ đã kích động một phản ứng dữ dội ở

nước  ngoài

 SHAI OSTER và RICK CAREW

Ngày 16-4-2009

 

BẮC KINH – Người thực hiện mua lại các tập đoàn kinh doanh lớn nhất (ở nước ngoài) của Trung Quốc hiện là một ngôi sao đang lên trong chính quyềnđấy chính là một sự kiện có thể gây thất bại cho một trong những cuộc đầu tư ra nước ngoài lớn nhất của Trung Quốc.

Chỉ ít ngày sau khi người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước Aluminum Corp. của Trung Quốc ký một thỏa thuận trị giá 19,5 tỉ đô la cho một phần của hãng khai thác mỏ Anh-Úc Rio Tinto, ông ta đã rời khỏi chức vụ của mình để tham gia vào nội các Trung Quốc.

Việc di chuyển của ông vua ngành nhôm Xiao Yaqing vào lĩnh vực chính trị trong tháng Hai 2009 đã làm dấy lên một dấu hỏi mang tính chỉ trích về những doanh nghiệp nhà nước khổng lồ của Trung Quốc khi chúng bước chân vào hoạt động trên vũ đài toàn cầu: Các công ty nầy chạy theo lợi nhuận, hay chúng đang theo đuổi một chương trình nghị sự có tính chất dân tộc chủ nghĩa cho chính quyền Trung Quốc?

Một cái nhìn gần hơn vào việc mua lại một phần công ty Rio Tinto của Úc gợi lên rằng câu trả lời là cả hai điều trên, khi thương mại và chính trị xoắn xuýt kết hôn với nhau, chúng  tạo ra một nòi giống mới gồm những nhà lãnh đạo trong chính quyền Trung Quốc am hiểu toàn cầu.

Vào hôm thứ Tư, bản thỏa thuận với công ty nhôm của Trung Quốc, cũng còn được biết với cái tên công ty Chinalco *, đã trở thành tâm điểm của sự xem xét kỹ lưỡng của những  người Úc đang nắm giữ cổ phiếu tại cuộc họp thường niên của hãng Rio Tinto.

Tổng giám đốc Tom Albanese đã bênh vực cho bản thoả thuận ấy. “Chúng tôi vẫn đang làm công việc  giao dịch với Chinalco, và trọng tâm của chúng tôi là hướng dẫn một cách thành công theo tiến trình được qui định trước khi đưa tiến trình ấy ra một cuộc bỏ phiếu của các cổ đông,” ông nói.

Thế nhưng việc ký kết để chấp thuận sau cùng theo như qui định có thể là rất phức tạp bởi cuộc tranh đấu về chính trị giờ đây đang gần như sôi sục trên khắp nước Úc về những quan hệ chặt chẽ của [chính quyền] nước này với Trung Quốc.

Trong bước ngoặc chuyển hướng gần đây nhất, các chính trị gia đối lập đã cáo buộc Thủ tướng Kevin Rudd, một cựu viên chức ngoại giao nói được tiếng Quan Thoại [tiếng phổ thông Trung Quốc] từng ở Trung Quốc, là hiện thân của một “đại sứ lưu động cho Bắc Kinh.”

Các nhà chính trị đảng đối lập cũng đã công kích bộ trưởng quốc phòng Úc về việc đã không vạch trần việc một nhà kinh doanh bất động sản người Úc gốc Hoa nào đó đã trả tiền hai chuyến đi cho ông Kevin Rudd tới Trung Quốc khi ông còn là một nhà lập pháp trong phe đối lập (hơn 10 năm trước). Cả hai người đàn ông này đã phản đối về chuyện có những mối quan hệ chặt chẽ nào đó của họ đối với chính quyền Trung Quốc.

“Hãng Trung Quốc” (China Inc.) đang lôi cuốn sự chú ý ngày càng tăng khi các công ty của Trung Quốc nắm lấy quyền sỡ hữu các nguồn tài sản khai mỏ và năng lượng trên khắp thế giới. Trung Quốc đã loan báo về việc mua lại các quyền sở hữu tài sản (dầu, mỏ) của nước ngoài tổng cộng tới 52 tỉ đô la vào năm ngoái, chiếm hai phần ba trong đó là từ các nguồn tài nguyên tự nhiên, theo công ty Dealogic cho biết. Năm nay, đã có 65 thỏa thuận với tổng trị giá 23,2 tỉ đô la, gần như toàn bộ trong đó là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, theo Dealogic.

Các chuyên gia ngân hàng, luật sư và các nhà ngoại giao lý luận rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã phát đi lời nhắn nhủ rằng Trung Quốc cần phải bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên. “Có một chính sách rõ ràng (của TQ) về việc giành được những nguồn tài nguyên,” theo như lời của một nhà ngoại giao phương Tây.

Người ta hy vọng là những người điều hành chính sách quốc gia của Úc sẽ quyết định về bản thỏa thuận vào giữa tháng Sáu. Họ đang soi xét sát sao về mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Chinalco *. Bản thỏa thuận phức tạp này có thể đem đến cho Chinalco một khoản góp vốn tới 18% trong tập đoàn Rio Tinto, nhà khai mỏ lớn thứ ba thế giới, công ty nầy sở hữu những mỏ sắt và mỏ đồng rất có giá trị tại Úc và trên khắp thế giới.

Cách đây 4 năm (2005), nhờ những mối quan ngại của các dân biểu và nghị sĩ Hoa Kỳ về các mối quan hệ chặt chẽ giữa chính quyền Trung Quốc với giới kinh doanh [Mỹ] đã giúp chặn đứng một cuộc đấu thầu cho tập đoàn dầu lửa Trung Quốc Cnooc Ltd ** mua lại hãng Unocal Corp.

Nước Úc đã hưởng lợi khi các nhà đầu tư nước ngoài như Trung Quốc và Nhật Bản đổ tiền vào phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước này để xuất khẩu. Thế nhưng một cuộc tống tháo tiền của người Trung Quốc vào nước Úc gần đây đã khuấy động một phản ứng chống Trung Quốc dữ dội, phản ứng nầy có thể gây nên khó khăn hơn cho chính quyền để việc mua bán của Chinalco được thông qua, theo nhận xét của những người trong giới công nghiệp.

Vào cuối tháng 3- 2009, Úc đã ngăn chặn một đề nghị từ hãng China Minmetals Corp. muốn mua toàn bộ hãng OZ Minerals Ltd với cái giá 2,6 tỉ đô la Úc (1,9 tỉ đô là Mỹ), bằng viện dẫn lý do là một trong những khu mỏ của công ty gần với một khu vực quân sự nhạy cảm. Hãng Minmetals đã xuất trình một cuộc gọi thầu khác để bán một phần quan trọng trong các tài sản của công ty OZ Minerals, chứ không phải bán toàn bộ công ty. Gói thầu này loại trừ (không bán) khu mỏ có vấn đề gây tranh cãi nêu trên.

Những mối liên hệ với nhà nước Trung Quốc của công ty Chinalco hiện là một khẩu hiệu chế nhạo mà những người chỉ trích người Úc nói về cuộc gọi thầu của hãng Rio Tinto, cuộc thầu nầy đem lại cho Chinalco quyền-nắm-giữ-cổ-phiếu- thiểu-số  trong một số khu mỏ của hãng Rio Tinto.

“Chính phủ Úc chưa từng bao giờ được (chính quyền TQ) chấp thuận cho mua một khu mỏ ở Trung Quốc,”

Thượng nghị sĩ Barnaby Joyce tuyên bố trong một quảng cáo trên đài truyền hình công kích những khoản đầu tư của Trung Quốc giờ đây đang nằm trên bàn thương thảo. “Vậy tại sao chúng ta lại cho phép chính quyền Trung Quốc mua và kiểm soát một thứ tài sản chiến lược then chốt trên đất nước chúng ta?”

Hãng Rio Tinto đã nói rằng việc mua bán với Chinalco của Trung Quốc sẽ không làm nguy hại cho những quyền lợi quốc gia của nước Úc.

Đối với công ty bị nợ chồng chất nầy, việc mua bán với Trung Quốc đem lại một thuận lợi lớn vào một thời điểm khi mà tiền tệ đã cạn kiệt. Rio Tinto sẽ giành được quyền tiếp cận một  mức tín dụng nhiều tỉ đô la từ các ngân hàng Trung Quốc.

Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia của Trung Quốc [NDRC] có quyền lực trong một phạm vi rộng lớn đối với các khoản đầu tư ở nước ngoài của Trung Quốc. Nếu như có hơn một doanh nghiệp nhà nước cùng quan tâm đến một khoản đầu tư vào tài sản ở hải ngoại, thì trước hết họ phải tranh đua nhau theo một kiểu cách như cuộc thi hoa hậu và được phán xét bởi NDRC. Thông thường, chỉ một kẻ thắng cuộc mới được đại diện cho Trung Quốc.

Ông Xiao của hãng Chinalco, 49 tuổi, là người có tham vọng đặc biệt trong bối cảnh đó, và ông đã hòa điệu với mục tiêu của chính quyền [Trung Quốc] trong việc chuyển đổi  Chinalco vào trong một nhóm các công ty khai mỏ kim loại trên toàn cầu.

Ông sinh trưởng ở Bắc Kinh và lớn lên giữa những thời hỗn loạn chính trị của Trung Quốc Cộng sản từ những thập kỷ trước. Khi các trường đại học được mở lại sau cuộc Cách mạng Văn hóa, ông có tiêu chuẩn nhập học, rồi tốt nghiệp với một tấm bằng kỹ sư vào năm 1982, đúng lúc Trung Quốc đang bắt đầu cuộc thử nghiệm với chủ nghĩa tư bản.

Hội đồng Nhà nước của Trung Quốc, tức chính phủ nước này, đã bác bỏ một số lời yêu cầu về một cuộc phỏng vấn với ông Xiao.
Qua thập kỷ tiếp theo, ông Xiao leo từ một vị trí giảng dạy do chính phủ chỉ định tại một nhà máy sản xuất nhôm gần biên giới với Nga lên làm giám đốc nhà máy. Năm 1998, chính phủ đã phái ông đi giải cứu một nhà máy của nhà nước đang thua lỗ ở phía tây nam Trung Quốc. Những khách thăm viếng thuộc hàng cao cấp đã ca ngợi thành công của ông, trong đó có Thủ tướng và Chủ tịch lúc bấy giờ là Chu Dung Cơ và Giang Trạch Dân.

Năm 2002, nhà máy nầy đã được sát nhập vào tập đoàn Chinalco. Trong vòng hai năm, ông đã được chỉ định làm chủ tịch và bí thư Đảng Cộng sản của công ty Chinalco.

Ông Xiao đã thúc đẩy đa dạng hóa hoạt động, theo các thành viên hội đồng quản trị Chinalco và các chủ ngân hàng cho hay.

Năm 2004, công ty trả giá cao hơn 10 công ty khác trong vụ mua một khu mỏ bauxite của Úc, thứ nguyên liệu thô dùng để sản xuất ra nhôm. Khoản đầu tư 3 tỉ đô la Úc là lớn nhất của Trung Quốc tại Úc lúc bấy giờ. Rio Tinto, tập đoàn sở hữu một khu mỏ bauxite kế cận khu vực đó, đã tiến hành những cuộc thương thảo với Chinalco về việc chia nhau sử dụng cơ sở hạ tầng (điện, nước, đường xe lửa,…).

Vào tháng Năm, năm 2007, Chinalco đã thỏa thuận đầu tư vào một liên doanh luyện kim ở Saudi [A-rập Sê Út], và vào tháng Sáu năm đó, công ty đã bỏ ra 860 triệu đô la Mỹ để mua hãng Peru Copper Inc. của Canada.

Không giống như hầu hết các nhà kỹ trị khác đang lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước lớn của Trung Quốc, ông Xiao đã tạo được một sự chú ý cao độ của công luận. Vận may chính trị của ông đã nổi lên. Sau vụ mua được công ty mỏ Peru Copper, ông được chỉ định làm một ủy viên dự khuyết của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản.

Tháng 11-2007, hãng BHP Billiton Ltd., nhà khai mỏ lớn nhất thế giới, đã bỏ thầu cạnh tranh để mua hãng Rio Tinto. Việc mua bán thỏa thuận đã nối kết hai nhà sản xuất lớn thứ hai và thứ ba thế giới  về quặng sắt, hợp phần then chốt để sản xuất ra thép là thứ mà Trung Quốc cần cho các nhà máy, cho sản xuất xe hơi và xây dựng những tòa nhà chọc trời.

Lo ngại về quyền đưa ra giá cả của một  công ty nắm độc quyền, chính phủ Trung Quốc đã vội vã kêu gọi các cuộc họp với vài doanh nghiệp lớn của nhà nước, những người biết rõ những vụ việc này cho biết thế. Các viên chức nhà nước của NDRC đã chủ trì các cuộc họp này, và họ muốn có những kế hoạch chặn đứng việc bỏ thầu của BHP.

Trong số những công ty tham dự vào cuộc họp, (những người đưa ra nguồn tin này cho biết), có công ty Chinalco; Baosteel Group Corp. Ltd, một doanh nghiệp thép; Shenhua Group Corp., doanh nghiệp khai thác than lớn nhất Trung Quốc; và China Development Bank.

Hãng Rio Tinto đang tìm kiếm một vị cứu tinh da trắng, theo một chuyên gia ngân hàng từng làm việc trong vấn đề này. Ông Xiao đã tổ chức những cuộc thương thảo trước đó với Rio Tinto về khu mỏ bauxite của Úc. Ông đã quyết định cố gom được một lượng lớn cổ phần trong hãng Rio Tinto, theo những người am hiểu vụ việc này cho biết. Một khoản đầu tư như vậy có khả năng làm thỏa mãn được mục đích của chính quyền Bắc Kinh nhằm chặn đứng việc mua bán thỏa thuận của công ty BHP, và giúp cho những nỗ lực của Chinalco đa dạng hóa việc đầu tư ra bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc nhiều hơn nữa và ra ngoài cả lĩnh vực kim loại nhôm.

Ông Xiao đã hướng đến các ngân hàng của Trung Quốc để có được sự trợ giúp, trong đó có China Development Bank, ngân hàng được lãnh đạo bởi con trai của một nhân vật từng là phó của nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, và hãng China International Capital Corp., được lãnh đạo bởi con trai của cựu Thủ tướng Chu [Dung Cơ]. Ông Xiao cũng đã thuê hãng Lehman Brothers Holdings Inc., và cùng với nhau họ đã ấp ủ một kế hoạch để có một cổ phần sở hữu nào đó vào hãng Rio Tinto.

Baosteel và các doanh nghiệp khác cũng đã nhắm tới một thỏa thuận mua bán nầy, các ngân hàng cho biết. Chinalco đã tung ý đồ của mình vào một cuộc họp nơi các quan chức NDRC lắng nghe các kế hoạch cạnh tranh. Theo Chinalco, những người nắm quyền điều khiển trong chính phủ chỉ có hai câu hỏi giành cho mỗi công ty: Công ty có thể có đủ khả năng thực hiện thỏa thuận hay không? Và công ty có thể hạn chế những rủi ro hay không?

NDRC đã chọn kế hoạch của Chinalco, và công ty này đã hợp sức với nhà sản xuất nhôm của Hoa Kỳ Alcoa Inc ***. Kế hoạch của họ là mua cho đủ số cổ phần để có được ảnh hưởng đối với thỏa thuận mua bán của BHP, với việc Alcoa chiếm lấy một phần nhỏ trong khoản góp vốn, theo một nhà kinh doanh ngân hàng hiểu biết vụ việc cho hay. (Nhưng để phủ nhận chuyện nầy), Chinalco đã nói là mục đích của hai công ty này không phải là để chặn đứng BHP.

Sau khi thị trường đóng cửa vào ngày 31-1-2008, các thương gia của hãng Lehman tại London đã làm việc suốt đêm để mua cho được các cổ phần của hãng Rio Tinto. Ông Xiao đã ngồi ngay tại bàn giao dịch, quá lo lắng và không thể ăn được, ông đã kể với các nhà báo Trung Quốc như vậy. Tất cả mọi người được nghe rằng,  là họ đã chi ra 14 tỉ đô la Mỹ để mua 9% trong toàn bộ các cổ phần hãng Rio Tinto, để trở thành cổ đông lớn nhất của Rio. Đó là khoản đầu tư bằng mua cổ phần lớn nhất tại hải ngoại của một doanh nghiệp Trung Quốc cho đến lúc này.

Cổ phần của Chinalco này là quá nhỏ để mà ngăn chặn hãng BHP. Tuy nhiên, với tư cách là một cổ đông lớn của hãng Rio Tinto, Chinalco không muốn bị coi như là một mối đe doạ tại nước Úc. Họ đã thuê hãng chuyên vận động hậu trường Hawker Britton để liên lạc với Thủ tướng Rudd.

Sau đó, vào tháng 11 năm 2008, BHP đã từ bỏ vụ đấu thầu của họ ở hãng Rio Tinto. Đó là một cú giải vây cho Trung Quốc. Thế nhưng việc giá cổ phiếu của Rio Tinto hạ nhanh ngay sau đó đã để ông Xiao ngồi lại trên đống sổ sách lỗ lã mà tại một thời điểm việc lỗ lã ấy đã lên tới mức gần 10 tỉ đô la.

Các ngân hàng, bao gồm J.P.Morgan Chase & Co., đã bàn cãi rằng Chinalco cần phải “giảm gấp đôi” (sự thua lỗ) so với mức đầu tư ban đầu của nó, theo các chủ ngân hàng có nhiều thông tin về vụ việc cho biết. Bằng cách đầu tư mua nhiều cổ phần hơn nữa vào hãng Rio Tinto, theo họ, với cách đó Chinalco có thể giảm mức trung bình của giá vốn cho toàn bộ khoản đầu tư của mình [1]

Vào tháng 12- 2008, tổng giám đốc về chiến lược của hãng Rio Tinto, Douglas Ritchie, đã có những cuộc thương thảo với ông Wang Wenfu, trưởng chi nhánh tại Úc của Chinalco. Cả hai người đều trú ngụ gần nhau tại Brisbane. Rio Tinto đang gia tăng mối lo ngại về khoản nợ 38 tỉ đô la Mỹ mà họ phải tiếp nhận khi mua hãng Alcan, công ty nhôm lớn nhất của Canada, vào tháng 7-2007. Tháng 10-2009, khoản nợ 8,9 tỉ đô la sẽ đến hạn phải trả.

Ông Wang đã nói với ông Ritchie rằng Chinalco rất quan tâm về việc hợp tác lâu dài. Ông Ritchie trả lời là công ty Rio Tinto muốn tiếp cận những khoản tín dụng từ các nhà băng Trung Quốc (để mượn tiền trả nơ), theo một nhân vật có nhiều am hiểu về những cuộc thương thảo này cho hay.

Các công ty của họ đã đưa ra một bản thỏa thuận tạm thời (có thể thay đổi về sau cho thích hợp): Chinalco sẽ mua 7,2 tỉ đô la công-trái, số công trái này sẽ chuyển đổi được thành cổ phiếu của hãng Rio Tinto, và sẽ mua một khoản tiền bổ sung thêm là 12,3 tỉ đô la trong các tài sản của Rio Tinto, bao gồm các cổ phần trong các mỏ sắt và mỏ đồng khổng lồ.

Ban lãnh đạo Trung Quốc tỏ ra lo ngại. “NDRC đã phát hoảng về khoản đầu tư thứ hai,” Lu Youqing, phó chủ tịch hãng Chinalco, đã cho biết trong một cuộc phỏng vấn. “Chúng tôi cần chứng tỏ với họ rằng việc đầu tư đó có thể sinh lợi.”

Với khoản nợ sẽ đáo hạn vào tháng 10 năm 2009, hãng Rio Tinto đã tranh luận về việc liệu có bán ra những cổ phần mới hay đi tới với thỏa thuận với Chinalco. Hội đồng quản trị Rio Tinto đã tán thành chọn lựa của Chinalco.

Vào tháng 2, 2009, Chinalco và Rio Tinto đã loan báo khoản đầu tư 19,5 tỉ đô la, cuộc đầu tư này đã nâng tổng số vốn của Chinalco trong Rio lên 18%.

Các nhà ngoại giao cho rằng các quan chức chính phủ Trung Quốc đã sai lầm vì chưa bao giờ hỏi ý kiến chính phủ Úc trước về việc chính phủ đã đặt kế hoạch mua hãng Rio Tinto. Nếu hỏi ý kiến trước như vậy thì có thể đã giúp giảm bớt những cơn giông tố chính trị.

Nếu việc mua nầy được đồng ý, liệu sự tham dự của Chinalco có thể gia tăng thêm? các viên chức hãng Rio Tinto hiện nay không bàn thảo ý kiến ấy. Khi được hỏi là liệu Chinalco đang có kế hoạch một ngày nào đó sẽ mua toàn bộ Rio Tinto?  Ông Lu đã phá lên cười.

“Chúng tôi có thể không bao giờ làm điều đó,” ông nói, và bổ sung thêm: “Ai mà biết được điều gì sẽ xảy ra trong 10 năm nữa?”.

+ Nếu các bạn ở VN đọc được báo tiếng  Anh thì rất có lợi. Chỉ có những người ở VN và những người ở các nước đang phát triển là được  vào đọc báo miễn phí trên mạng, đặc biệt là đọc được các bài báo ăn khách, hay và đáng chú ý đăng trên các tờ báo nổi tiếng. (Server hay máy chủ của các báo ấy phân biệt được IP address computer của người trong nước nơi báo ấy xuất bản và IP address của các nước khác.)
Trái lại, những người bản xứ không được đọc toàn bộ những bài báo hay, hấp dẫn như bài báo trên đây đang đăng trên mạng của tờ WSJ. Họ chỉ được trang mạng cho đọc thử 20 hàng. Ai thấy hay, muốn đọc tiếp, phải mua báo ấy. Hoặc trả 4 đô được vào đọc một bài mà mà họ muốn đọc.
Nhưng người dân bản xứ dù có nghèo cũng không được đọc miễn phí trên mạng, muốn đọc thì phải tới thư viện địa phương để đọc, hoặc đăng ký trả tiền, tạo password, và mới được đọc. Tin tức liên quan trong nước thì được xem miễn phí.
Không phải chỉ có tờ Wall Street Journal, mà nhiều tờ báo và tạp chí chuyên ngành có giá trị khác của nước ngoài cũng làm y như tờ WSJ vậy, nghĩa là họ miễn phí cho người dân của các nước đang phát triển (nước nghèo) được đọc các bài báo hay đăng trên trang mạng của họ để mở mang kiến thức.
 
Ba Sàm chú thích:
* Chinalco: Tập đoàn sản xuất nhôm của Trung Quốc đang hợp tác với Tập đoàn Than&Khoáng sản VN khai thác bauxite tại Tây Nguyên (mời xem các bài về vấn đề này trên chuyên mục Bauxite Tây Nguyên).
** Cnooc Ltd: chính là tập đoàn dầu khí nhà nước Trung Quốc vừa mới đổ 29 tỉ đô la vào dự án khổng lồ thăm dò, khai thác dầu khí ở Biển Đông sau khi đã “đuổi” được BP(Anh) và Exxon Mobil(Mỹ) ra khỏi các hợp đồng với Việt Nam. Xem “TQ công bố dự án dầu khí khổng lồ” (BBC); và “Việt Nam lại bày tỏ quan ngại”
*** Alcoa Inc.: chính là công ty của Mỹ cùng Chinalco tham gia vào dự án bauxite ở Việt Nam làm cho vài người ảo tưởng có sự tham gia của Mỹ, Nhật thì không phải lo sợ sự thao túng của Trung Quốc.
 

Tiểu sử thủ tướng Úc Kevin Rudd

(http://en.wikipedia.org/wiki/Kevin_Rudd)

Phó thủ tướng Lào, một người gốc Trung Quốc. Thủ tướng Úc cũng ở Trung Quốc trong thời gian rất nhiều năm.

Tất cả những Thủ tướng và Phó thủ tướng của các nước ấy đều có một điểm chung là: ký kết các hợp đồng cho các hãng  Trung Quốc và cho công nhân TQ di dân vào làm việc.  Họ coi trọng quyền lợi của TQ và bất chấp sự thiệt hại của quốc gia nơi họ được sinh ra. Tại sao?

Kevin Rudd sinh ra ở Queensland và lớn lên trong một gia đình có nông trại nuôi bò lấy sữa. Ông thích cởi ngựa và bắn súng vào các mục tiêu làm bằng đất sét. Ở tuổi 15, ông tham gia vào đảng Lao Động vào năm 1972. Ông học nội trú khi còn ở bậc trung học.

Ông học đại học ở Úc, thành phố Canberra, và ra trường hạng danh dự, chuyên ngành Hoa ngữ và Lịch sử Trung Quốc.  Ông thông thạo tiếng quan thoại, là ngôn ngữ chính ở TQ.

Năm 1980, ông tiếp tục học về tiếng Hoa ngữ ở một đại học Đài Loan.

Năm 1981, ông cưới vợ và hiện có 3 con.

Từ 1981-1988, ông vào làm việc ở Bộ Ngoại Giao Úc. Suốt thời gian nầy, ông hoàn toàn ở nước ngoài và đã làm việc 9 năm ở Thụy điển, Thụy sĩ và sau cùng ở Bắc Kinh.

Trở lại Úc năm 1988, ông được bổ nhiệm vào các chức vụ tham mưu cao cấp cho các thủ lãnh Lao động, và từng là chánh văn phòng của Thủ tướng thuộc đảng Lao Động vào năm 1989-1992. Ông bị bệnh tim vì một biến chứng của bệnh thấp khớp và nhận được một cuộc giải phẩu thay-ghép van tim 1992.

Sau đó ông được bổ nhiệm thành tổng giám đốc các văn phòng của Nội Các Úc.

Năm 1995, khi vị thủ tướng của đảng Lao Động bị thất cử, Kevin Rudd trở thành cố vấn cao cấp của 1 hảng kế toán tư nhân.

Ông trở thành Dân biểu Úc năm 1998 (sau khi thất cử lần đầu tiên vào ngành lập pháp 1996).

Sau  khi Sassam Hussein bị lật đổ, Kevin Rudd chỉ trích thủ tướng Howard về việc thủ tướng nầy đã hổ trợ cho Mỹ đánh Iraq, nhưng trong lúc ấy ông duy trì vị trí chính trị của đảng Lao Động Úc là hổ trợ cho đồng minh Mỹ-Úc.

Vào 19-8-2007, người ta tiết lộ rằng Kevin Rudd với viên chủ bút tờ New York Post và một người nữa thuộc đảng Lao Động Úc đã ghé vào một câu lạc bộ thoát y vũ của các nữ vũ công ở New York vào tháng 9-2003.

Rất nhiều báo đã tường thuật sự việc này, nhưng vụ nầy đã không tác động bất lợi cho Rudd.

Ông được đề cử của đảng Lao Động ra tranh chức thủ tướng. Kevin đưa ra nhiều 6-7 điểm sau đây: Tương lai của nền sản suất hàng hóa của Úc, công lý của xã hội, và 4 lãnh vực chính liên hệ về công nghệ với các nước, ô nhiễm môi trường, việc cải đổi vai trò của chính quyền liên bang Úc, vị trí của Úc trong cuộc chiến tranh ở Iraq.

Đặc biệt, với chiến dịch giảm bớt chi tiêu của bộ máy chính quyền liên bang, Kevin Rudd đưa ra mức chi tiêu cho tài khóa hàng năm  ở mức 2,3 tỉ đô la, so với đảng Tự Do của đương kim thủ tướng Howard đã đưa ra ngân sách chi tiêu ở mức 9,3 tỉ đô. Kevin Rudd đã thắng vì giành được phiếu, vào cuối tháng 11 năm 2007, của những cử tri ở các bang có lập trường hay thay đổi (khoảng 5-7%).

Kevin Rud đã  tuyên thệ trở thành Thủ tướng Úc vào đầu tháng 12-2007.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Chính trị, Trung Quốc | Leave a Comment »

Mạnh mẽ hơn cả một tòa cao ốc lớn

Posted by adminbasam trên 20/04/2009

Tóm Lược : Dùng chính luật pháp đã có sẵn, và với sự hổ trợ của các hội đoàn dân sự trong nước để đấu tranh chống lại một dự án xây dựng quá tồi được thực hiện bởi sự cấu kết của những nhân viên chính phủ lợi dụng quyền thế ở trong nước và các công ty nước ngoài.

Globalpost

Mạnh mẽ hơn cả một tòa cao ốc lớn

Matt Steinglass – GlobalPost

Ngày 20-4-2009

Kịch liệt phản đối một dự án được nước ngoài đầu tư nhiều triệu đô la là điều có thể gây tổn hại đến sự nghiệp của bạn ở Việt Nam, và người Việt Nam trẻ tuổi thường sẽ không làm điều đó.

Thế nhưng Trần Thị Thanh Vân không còn trẻ nữa, và bà không phải là hạng người thông thường ấy.

Người  kiến trúc sư cảnh quan này đã 68 tuổi, bà từng học kiến trúc tại Trung Quốc dưới thời chủ nghĩa Mao và về khoa học môi trường tại nước Đông Đức trước đây, sống với người chồng và bảy con chó trong một ngôi nhà được làm một cách rất công phu theo thiết kế của bà, căn nhà gợi cho người ta hình ảnh một thân cây rỗng với cái ao cá vàng ở bên dưới.

Trong hai thập kỷ qua, kể từ khi hồi hưu từ công việc tại Bộ Xây dựng, bà đã dành thời gian, theo như bà diễn tả, vào “nhiều dự án quan trọng đối với tôi.” Mới đây nhất, dự án bao gồm cả một nỗ lực viễn tưởng nhằm thuyết phục các giới chức cải tạo “phong thủy” của Hà Nội bằng cách đưa nước vào làm ngập lụt khu vực phía tây thành phố. Bà là típ người mà ta thường thấy trong những làng quê của nước Anh, song lại quá ư hiếm hoi ở Việt Nam: một nhà hoạt động xã hội.

Và mùa thu năm 2008, khi sắp sửa rời khỏi một hội nghị kiến trúc ở Turin, nước Ý, bà Vân đã thất kinh khi nhìn thấy những chiếc xe ủi đất đang san phẳng một góc Công viên Thống Nhất ở Hà Nội. Công viên này là một ốc đảo có nhiều cây xanh lớn nhất trong một cái thành phố thiếu công viên một cách cực độ.

Công viên Thống Nhất đang được sử dụng hoàn toàn bởi cư dân địa phương, họ tụ tập vào những buổi sáng và buổi tối để chơi cầu lông, bóng đá, và cờ tướng, cờ vua, luyện tập thái cực quyền, hay tham gia vào những nhóm thể dục nhịp điệu. Hóa ra là  một khu đất rộng 2 hecta ở một góc công viên đã được dành riêng cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài để xây một khách sạn hạng sang được báo chí nói đến với cái tên “SAS Hà Nội.”

Bà Vân kể là dự án đó đã làm cho bà buồn bực trong suốt chuyến đi Âu châu, chuyến đi bao gồm cả cuộc viếng thăm lần đầu tiên của bà tới Paris. “Tôi đã từng được nghe về Paris nhưng chỉ là qua sách báo,” bà Vân nói. Sự hòa hợp giữa không gian đô thị và các công viên của thành phố đã gây cho bà một ấn tượng sâu sắc. “Người Pháp thích sống trong những không gian mở, giống như người dân Hà Nội.”

Khi quay trở về, việc ngăn chặn dự án khách sạn SAS là điều quan trọng hàng đầu trước tiên trong tâm trí của bà. Giả định rằng SAS đại diện cho hãng hàng không xứ Scandinavia (Thụy Điển) và có liên hệ vào một hệ thống nhiều khách sạn, bà Vân đã nhờ sự trợ giúp của chồng là ông Lê Tiến Thiện, 70 tuổi. Ông đã có các mối quan hệ với Tòa đại sứ Thụy Điển từ thời còn là một cố vấn kinh tế trong văn phòng thủ tướng.

Thế nhưng những cuộc liên lạc của ông Thiện với Tòa đại sứ Thụy Điển đã phủ nhận việc SAS có bất cứ mối liên hệ nào trong dự án này.

Trước đó đã từng có một đề nghị về một khách sạn SAS từ năm 1991, khi Thuỵ Điển còn là một trong số ít quốc gia có những mối quan hệ thương mại bình thường với Việt Nam, song đề nghị này đã được loại bỏ vào giữa những năm 1990. Tìm hiểu sâu thêm nữa, ông Thiện đã phát hiện những tài liệu cho thấy rằng cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã bác bỏ thẳng thừng dự án này.

Trong khi đó, bà Vân đã biết được rằng những hướng dẫn của Bộ Xây dựng đã loại bỏ việc sử dụng công viên này cho hoạt động du lịch thương mại.

Và với những tìm tòi thêm nữa, bà đã phát hiện ra rằng các nhà đầu tư đứng đằng sau dự án, có danh sách chính thức là một công ty vốn có tên là SIH, trên thực tế bao gồm trong đó là công ty bất động sản lớn của Việt Nam VinaCapital Land.

Bất chấp dự án sai lạc có tên SAS nầy, khách sạn trên thực tế đã được lên kế hoạch để trở thành khách sạn Novotel Hanoi với 376 phòng trong khu vực Công viên, được quản lý bởi công ty mẹ của Novotel là Accor.

Địa điểm này mang tính nhạy cảm bởi Công viên Thống Nhất là một công trình ghi dấu tích “lao động xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam. Các học sinh sinh viên lao động chân tay công ích xây dựng công viên vào giữa những năm 1958 và 1960 trong một vùng đầm lầy từng được dùng để chứa rác từ thời thuộc địa. Hàng chục ngàn người Hà Nội lớn tuổi hôm nay đang sử dụng công viên để tập thể dục đã từng giúp xây dựng nên công viên này.

Bà Vân đã lo ngại rằng một khi khách sạn đó được xây lên, những nhân viên bảo vệ ở đây chắc chắn sẽ xua đuổi dân chúng ra xa khỏi khu vực khách sạn nằm trong công viên nầy.

“Bên trong một trong số những tài liệu, họ nói rằng khách sạn sẽ trở thành một resort [khu nghỉ dưỡng cao cấp] của thành phố. Một cái “resort” là cái gì? Nhân dân Việt Nam không biết tiếng Anh, nhưng họ hiểu rằng một cái “resort” là một nơi giành cho những người khác, chứ không phải dành cho họ.”

Vào đầu tháng Hai, bà Vân đã viết một bức thư gửi tới Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị tạm dừng dự án. Bức thư đã được trang web tin tức VietnamNews đăng tải. Và các tổ chức dân sự người Việt Nam đã tham gia phản đối.

Hội Kiến trúc sư Cảnh Quan Việt Nam đã tổ chức một cuộc hội thảo chỉ trích một cách mạnh mẽ dự án khách sạn này. Một vị cựu bộ trưởng xây dựng cũng đã ủng hộ. Hàng trăm bức thư đổ dồn tới các tờ báo và trang web. Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài cùng tham gia như HealthBridge Canada and the Ford Foundation. Một tờ tạp chí của Bộ Xây dựng đã phát hiện ra rằng khách sạn này đã vi phạm vào những nguyên tắc sử dụng đất đai, và cần phải được di chuyển tới một địa điểm khác.

Những người ủng hộ bản dự án đã cảm thấy bị tấn công mà không ngờ tới. Một người phát ngôn của Accor, ông Evan Lewis, đã tuyên bố vào tháng Ba rằng công ty “tin chắc rằng tất cả những giấy phép đầu tư và quyền sử dụng đất đều thích hợp.” Các nhà đầu tư cho biết là họ đã chi ra 15 triệu đô la để khai quang mặt bằng và xây dựng bước  đầu. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã không có khả năng đưa ra quyết định, và đã chuyển vấn đề này lên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Ngày 13-4, ông Dũng đã đưa ra một thông báo (gởi tới cho nhiều nơi) lệnh cho thành phố dừng dự án nầy lại và tìm một địa điểm mới cho khách sạn này. Thành phố sẽ phải đền bù những khoản phí tổn cho các nhà đầu tư.

Việt Nam đã có một thời gian khó khăn để tái thiết lập lời cam kết đi theo hướng chủ nghĩa tư bản gần đây của họ với những niềm tin từ lâu vào tình đoàn kết cả nước và trong cộng đồng. Đối với ông Thiện chồng bà Vân, việc dừng dự án khách sạn là một vấn đề của việc đặt lên những ranh giới thích hợp giữa các quyền lợi cộng đồng và quyền lợi cá nhân của một nhóm — những ranh giới mà các nhà đầu tư với hàng trăm triệu đô la chi tiêu ra và thường làm lu mờ nó.

“Chúng tôi rất tức giận,” ông Thiện nói. “Nếu các công ty tới đây với thái độ thân thiện, đem tới điều gì đó, như kiến thức, thậm chí cả tiền bạc, để xây dựng nên một đất nước Việt Nam thành công – thì tốt thôi. Họ sẽ được chào đón hoan nghênh. Và chúng tôi sẽ một lòng một dạ ủng hộ họ. Nhưng nếu như, với bất cứ cách nào, mà họ luồn lách giữa những chính sách, luồn lách giữa kế hoạch, để có được cái gì đó cho quyền lợi của riêng họ, và chống lại những quyền lợi của đất nước này – thì chúng tôi chống lại họ.”

Người dịch: Ba Sàm

Hiệu đính: Trần Hoàng

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009

Bài được dịch đăng từ 4/2009, nhưng do blog bị tin tặc đột nhập xóa hết năm 2011, nay đăng lại nên không còn các phản hồi từ ban đầu của độc giả.

Posted in Kinh tế Việt Nam, Pháp luật | Thẻ: | 12 Comments »

Các kế hoạch khai mỏ của Trung Quốc ở Việt Nam …

Posted by adminbasam trên 20/04/2009

ASIAONENEWS

Các kế hoạch khai mỏ của Trung Quốc ở Việt Nam châm ngòi cho những chỉ trích hiếm thấy

Hãng thông tấn Pháp AFP

Ngày 20-4-2009

 

HÀ NỘI, ngày 19-4-2009 (AFP) – Kế hoạch cho phép một công ty của Trung Quốc xây dựng một khu mỏ bauxite (alumin) ở Việt Nam đã kích động một làn sóng phản đối hiếm có của công chúng xuất phát từ những người chỉ trích cho rằng sự thiệt hại về môi trường và xã hội sẽ nặng nề hơn nhiều so với bất cứ lợi ích kinh tế nào.

Một số người thậm chí lo sợ bản kế hoạch nầy, (vốn đã được đồng ý trước bởi các nhà lãnh đạo của hai quốc gia cộng sản mà không có sự đối thoại rộng rãi hơn), rốt cục có thể mang hàm ý về sự chiếm đoạt trên thực tế của Bắc Kinh tại một khu vực có ý nghĩa chiến lược của Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam đánh giá trữ lượng bauxite của nước này là 5,5 tỉ tấn – một sự lôi cuốn to lớn đối với các hãng khổng lồ trong ngành khai mỏ của  thế giới.

Năm 2007 hai chính phủ Việt Nam và Trung Quốc đã phê chuẩn một kế hoạch cho hai hoạt động khai mỏ lớn được vận hành bởi Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) tại vùng Cao nguyên Trung phần.

Một công ty con của hãng sản xuất nhôm Trung Quốc Chinalco đã được chấp thuận thực hiện một hợp đồng xây dựng một khu mỏ, trong khi công ty nhôm của Hoa Kỳ Alcoa hợp tác với Vinacomin khảo sát tiền khả thi một khu mỏ thứ hai.

Nhưng trong một quốc gia đang nhớ lại một cách cay đắng  1000 năm chiếm đóng của người Trung Quốc – và gần đây hơn là một cuộc chiến tranh biên giới chớp nhoáng năm 1979 – thì bất cứ sự hiện diện nào của người láng giềng khổng lồ của Việt Nam trên vùng đất của họ đều cũng được hiểu như là một sự nguy hiểm.

Nhà văn Nguyên Ngọc, mà tác phẩm văn học của ông tập trung vào vùng Cao nguyên Trung Phần và người dân ở đây, nói rằng đã có một nguy cơ lâu dài hơn của việc nhìn thấy miền đất nầy bị “Hán hóa.

Ông Ngọc nói: “Tây Nguyên tạo thành một vị trí chiến lược đối với toàn bộ phía nam Đông Dương,” ông cũng tuyên bố rằng các công ty Trung Quốc đã lợi dụng khai thác bô-xít ở vùng biên giới với Lào.

“Trung Quốc nói rằng ai làm chủ được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ được nam Đông Dương.”

Trong khi dự án bauxite lộ ra những vần đề về “tài chính, kinh tế và xã hội,” ông cho rằng câu hỏi quan trọng nhất là về an ninh và độc lập.

Trong một quốc gia độc đảng nơi mà sự phản kháng của công chúng là hiếm có, thì các nhà khoa học, giới trí thức và các cựu chiến binh đã tham gia cùng với nhau đưa ra  những lời chỉ trích dữ dội về chế độ Hà Nội để phản đối những kế hoạch của chính phủ.

“Trung Quốc đã khét tiếng xấu trong thế giới hiện đại như là một quốc gia gây nên tình trạng ô nhiễm lớn nhất cũng như những vấn nạn khác,” 135 nhà trí thức Việt Nam đã tuyên bố trong một bản kiến nghị chỉ trích kế hoạch khai mỏ và đã giao kiến nghị nầy vào hôm thứ Sáu tuần trước tới Quốc hội.

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã nói rằng công nghiệp khai mỏ bauxite sẽ giúp khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội trên vùng Cao nguyên Trung phần, theo tin từ Thông tấn Xã Việt Nam cho hay.

Chính phủ ước tính các dự án khai thác mỏ bô xít (alumin) sẽ đòi hỏi mức đầu tư tổng cộng hơn 10 tỉ đô la và sẽ, từ đây đến trước năm 2025, sản xuất ra hàng năm từ 13 đến 18 triệu tấn quặng nhôm, một sản phẩm được xử lý phần đầu của bauxite.

Thế nhưng những người chỉ trích cho rằng các khu mỏ sẽ chỉ đem tới nguồn lợi tiền bạc rất hạn chế cho Việt Nam, khi nước này có kế hoạch xuất khẩu hầu như toàn bộ alumina.

Người phản đối nổi bật nhất của mưu đồ này là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 97 tuổi, người đã dẫn dắt chiến thắng của Việt Nam trước quân đội thực dân Pháp.

Trong những bức thư ngỏ gửi tới chính phủ, ông đã cảnh báo về sự nguy hiểm đối với môi trường, nguy hiểm đối với cuộc sống của các dân tộc thiểu số, và nguy hiểm đối với  “an ninh và quốc phòng” của Việt Nam.

Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí minh đã bày tỏ những quan điểm tương tự, và giáo sư kinh tế Nguyễn Quang Thái đã tuyên bố trong một bản báo cáo mới đây gửi tới chính phủ VN rằng lời cảnh báo của tướng Giáp cần phải được tôn trọng.

Chúng ta không nên cho phép những công nhân nước ngoài đi vào khu vực này,” ông Thái viết, nhưng không nói tới Trung Quốc.

Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên – đáng chú ý đối với sản xuất cà phê – đã gây nên những va chạm có tính chất bạo lực ở Tây Nguyên, xứ sở của dân tộc thiểu số theo Cơ đốc giáo Montagnards, khi họ tranh đấu chống lại việc tịch thu đất đai và ngược đãi tôn giáo.

Hòa thượng bất đồng chính kiến Thích Quảng Độ, nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam bị cấm đoán, đã kêu gọi dân chúng tố cáo “những hậu quả tàn phá” về việc khai mỏ nầy lên người dân bản địa.

Một sự hiện diện vĩnh viễn của người Trung Quốc tại Tây Nguyên sẽ đặt ra “một mối đe doạ báo động” đối với an ninh quốc gia, ông nói.

Nếu như các dự án bauxite được thực hiện, thì các nhà khoa học lo sợ về sự huỷ diệt to lớn của vùng đất đai màu mỡ, nơi mà rừng, cà phê và trà đang phát triển.

Họ cũng lo ngại về việc ô nhiễm nguồn nước và nói rằng dân cư địa phương, mà một số trong đó đã nhận được hoặc sẽ nhận được đền bù, phải chịu mạo hiểm mất mát đất đai và không có đủ tiêu chuẩn làm việc trong các nhà máy nầy.

Nhà văn Nguyên Ngọc cho biết có thể sẽ “có những cuộc phản đối mới” của các dân tộc thiểu số trong vùng.

Các chuyên gia ước tính có mấy chục ngàn người Trung Quốc sẽ tới Tây Nguyênđể thực hiện các dự án bauxite và cho là hiện có vài trăm công nhân Trung Quốc đang có mặt ở tỉnh Lâm Đồng, nơi mà đất đã được dọn sạch.

“Đối với những quốc gia như Việt Nam … khai thác tài nguyên thiên nhiên để phát triển là cần thiết,” theo nhà địa chất Đặng Trung Thuận. “Khai thác là hiển nhiên, thế nhưng với quy mô như thế nào?”

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm 2009, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Bô-xít Tây Nguyên, Chính trị, Môi trường | Leave a Comment »

VN đang có nỗi lo mới về sự xâm lược của người TQ

Posted by adminbasam trên 19/04/2009

TIME

Ở Việt Nam, đang có  những nỗi lo sợ mới về một “sự xâm lược” của người Trung Quốc

Martha Ann Overland

Thứ Năm 16-4-2009

Cách đây 30 năm, các bộ đội Việt Nam đã tham dự một trận đánh sau cùng rất dữ dội trong các vùng đồi núi ở Lạng Sơn gần biên giới phía Bắc để đẩy lui quân địch. Hai bên đã chịu đựng những thiệt hai khủng khiếp, nhưng sau cùng Việt Nam đã tuyên bố thắng trận.

Mấy chục năm sau, các mối quan hệ ngoại giao (giữa hai nước Việt Trung) đã và đang được hồi phục và hai quốc gia nầy, ít nhất là trên công luận, vẫn gọi nhau là bạn bè.

Kẻ thù cũ của Việt Nam giờ đây là một nhà đầu tư chính trong quốc gia này, thương mại giữa hai nước ở mức cao hơn bao giờ hết và nhiều khách du lịch, không phải là bộ đội, đang đổ dồn vào Việt Nam.

Không, không phải là những khách du lịch người Mỹ đâu, khách du lịch chính là những người Trung Quốc. Như một phần của một nỗ lực rất mạnh mẽ để mở rộng ảnh hưởng chính trị và thương mại trong vùng Đông Nam Á, Trung Quốc đang đầu tư rất nhiều ở Việt Nam.

Các công ty Trung Quốc hiện đang tham gia vào trong hàng ngàn dự án xây dựng cầu đường, khai thác hầm mỏ và xây dựng các nhà máy điện. Tuy nhiên, mặc cho thực tế về sự hợp tác giữa hai nước cộng sản đang được khuyến khích bởi các nhà lãnh đạo Việt Nam, sự xâm lấn thân thiện nầy không làm yên lòng những người đã và đang chiến đấu chống lại những toan tính xâm lăng của người Trung Quốc trong hơn 1000 năm qua, và lần gần đây nhất là vào năm 1979.

Nhiều người ở Việt Nam hiện đang lo lắng rằng Trung Quốc đang được trao cho những chiếc chìa khóa không những là để khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia họ mà còn của cả những khu vực có tính chiến lược nhạy cảm, đe dọa an ninh quốc gia.

“Sự nguy hiểm nhất đó là Trung Quốc đã và đang thắng hầu hết các cuộc đấu thầu xây dựng nhà máy điện, nhà máy xi măng, và các công ty hóa chất,” viên Tổng giám đốc Hiệp Hội Công Nghệ Cơ Khí Nguyễn Văn Thu đã cho biết. “Họ chiếm hết tất cả các hợp đồng xây dựng và chẳng để lại gì hết.”

Ông Thu nói rằng ông đang tình nghi các công ty Trung Quốc đã chiến thắng và nắm hết tất cả các hợp đồng xây dựng bằng cách bỏ thầu các công trình với giá rất thấp đến mức khó lòng chấp nhận được, điều ấy có nghĩa là họ đang cắt xén công trình xây dựng, đe dọa phẩm chất và sự an toàn (của các công trình hay sản phẩm).

Nhưng nỗi quan ngại lớn nhất của ông Thu là làn sóng tràn vào của số lượng lớn người Trung Quốc, bao gồm những người nấu ăn và làm vệ sinh dọn dẹp, nghĩa là họ đang chiếm lấy việc làm của người Việt Nam và đe dọa sự ổn định của xã hội.

“Các nhà thầu khoán người Trung Quốc mang mọi thứ vào Việt Nam, thậm chí cả các bàn cầu của phòng vệ sinh!” ông Thu cho biết. “Đó là các vật liệu mà Việt nam có thể sản suất, và các công việc mà người Việt Nam có thể làm.”

Điều lôi cuốn sự chỉ trích mới đây nhất dành cho tình cảm chống lại người Trung Quốc là kế hoạch của chính phủ Hà Nội chấp thuận các công ty của Tập đoàn Nhôm Trung Quốc (Chinalco) khai thác quặng Bô-xít ở các vùng Cao Nguyên của Việt Nam.

Bô-xít là một thành phần chính của nhôm, thứ kim loại mà Trung Quốc đang cần để cung ứng cho kỹ nghệ xây dựng của họ. Việt Nam có 8 tỉ tấn bô-xít có phẩm chất cao, nguồn dự trữ đứng hàng thứ ba của thế giới.

Tuy vậy, cái giá phải trả cho việc hủy hoại môi trường thiên nhiên là rất cao. Việc đào xới bằng phương pháp cắt đất xuống sâu cho quặng bô-xít lộ ra thì có hiệu quả, nhưng các vết sẹo của đất và việc chế biến bô-xít phát ra một thứ bùn trầm tích đỏ rất độc hại mà loại bùn nầy có thể thâm nhập vào trong các nguồn cung cấp nước nếu không bảo quản đúng mức.

Nhiều khoa học gia Việt Nam cũng như các phong trào môi trường đang phát triển của Việt nam đã và đang chất vấn sự khôn ngoan của việc nhường các quyền khai mỏ cho Trung Quốc, (trong khi) chính các mỏ bô-xít của Trung Quốc đã phải đóng cửa vì những tai hại khổng lồ và khủng khiếp mà các khu mỏ bô-xít (alumin) đã gây ra cho môi trường ở Trung Quốc.

Nhưng sự phản đối thật sự dường như với môi trường thì ít mà nỗi sợ của Việt Nam về nước láng giềng ở biên giới phía Bắc thì nhiều hơn.

Các nhóm dân tộc chủ nghĩa tố cáo chính quyền Hà Nội về việc bị áp lực của Trung Quốc đang đói khát các nguồn nguyên vật liệu bằng cách chấp thuận cho dự án khai thác mỏ được tiến hành.

Nhiều blogger người Việt đang khuấy lên những nỗi lo ngại rằng làn sóng du nhập của các công nhân Trung Quốc là một phần của kế hoạch lâu dài của Bắc Kinh để chiếm đóng quốc gia của họ. Những nhóm có khuynh hương dân chủ bị cấm hoạt động nầy, (đang sung sướng có được cơ hội  chỉ trích chính quyền độc tài), gọi việc hợp tác khai mỏ giữa Việt Nam và Trung Quốc là “một mưu đồ mờ ám”.

Đầu tháng nầy, Thượng tọa Thích Quảng Độ đã nói rằng việc đào xới đất xuống sâu để lấy bô-xít sẽ tàn phá cách sinh sống của các nhóm dân tộc thiểu số. Ông nói thêm rằng dự án bô-xít là một “minh họa về sự lệ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc.” Không thấy có sự chống đối tương tự như thế đối với hai công trình khai thác mỏ của công ty nhôm khổng lồ Alcoa của Mỹ tại tỉnh Đắc Nông ở Tây Nguyên.

Có lẽ, lời chỉ trích không mong đợi nhất đến từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một nhà lãnh đạo quân sự rất được kính trọng ở Việt Nam, ông ta đã giúp đánh thắng người Pháp và về sau là thắng người Mỹ. Trong một lá thư gởi tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người anh hùng 97 tuổi nầy đã nêu lên mối quan ngại về sự hiện diện của một số lượng lớn người Trung Quốc ở những vùng trên Cao nguyên Trung Phần, một cửa ngõ chiến lược đối với Việt Nam, một nơi từng quyết định thắng bại của các trận chiến.

Các quốc gia khác trong vùng nầy không thoải mái vì tình trạng đói khát các nguồn tài nguyên của Trung Quốc. Tháng 3 -2009, vì các quan ngại về an ninh quốc gia, chính quyền Úc đã từ  chối một cuộc bỏ thầu trị giá 1,8 tỉ đô la của công ty Khai Mỏ Trung Quốc Minmetals muốn mua lại công ty Minerals OZ đang vướng đầy nợ nần, công ty Mineral làm chủ mỏ Zinc lớn hàng thứ hai của thế giới. Công ty Oz Minerals có những mỏ nằm gần khu thử nghiệm vũ khí Woomera của nước Úc.

Chính quyền Hà Nội nói rằng họ đang lắng nghe các nguồn quan ngại nhưng họ dường như không thay đổi ý kiến. Gần đây, ông Dũng đã tuyên bố “việc khai mỏ bô-xít là một chính sách lớn của đảng và nhà nước.”

Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã tái khẳng định sự hỗ trợ của chính phủ, và vài viên chức của tỉnh đã có mặt tại một cuộc hội nghị khai mỏ gần đây để bảo vệ dự án bô-xít nầy, những viên chức địa phương của tỉnh nầy lý luận rằng mặc dầu có sự hiện diện của các công nhân Trung Quốc, việc khai thác mỏ sẽ đem lại phúc lợi cho những người dân thiểu số nghèo nàn của vùng nầy.

Sức ép lên Việt Nam để tiến hành theo kế hoạch đã định là rất lớn, ông Carl A. Thayer nói, ông là một nhà chuyên môn nghiên cứu về Việt Nam, dạy tại Đại Học New South Wales của học viện Quốc Phòng Úc. Việt nam đang cần buôn bán với Trung Quốc để tồn tại.

Ông Thayer thừa nhận rằng không có một công ty Trung Quốc nào hoạt động độc lập với chính quyền của họ. “Nếu quí vị tìm hiểu cho kỹ các công ty Trung Quốc nầy, quí vị sẽ khám phá ra rằng các công ty đó có quan hệ chặc chẽ với quân đội hay an ninh Trung Quốc” ông cho biết. “Nhưng một cuộc xâm lăng của Trung Quốc ư? Tôi không tin điều này.”

Ông Thayer nhận thấy rằng: Một số các khó khăn là do chính Việt Nam gây ra. Việt Nam đang trở nên ngày càng lệ thuộc vào các nguồn đầu tư trực tiếp của ngoại quốc để giữ cho nền kinh tế khỏi bị chìm.

Năm ngoái, các nhà đầu tư ngoại quốc đã đầu tư một mức kỷ lục là 11,5 tỉ đô la vào Việt Nam. Trung Quốc có 73 dự án đầu tư vào Việt Nam có trị giá 334 triệu đô la. Nhưng sau khi có cuộc suy thoái toàn cầu, các đầu tư trực tiếp của ngoại quốc sụt giảm 70% vào quí 1 năm 2009, so sánh với cùng thời gian nầy năm ngoái.

Hà Nội đã và đang kêu gọi gia tăng đầu tư, và thậm chí đang rất cần các nguồn tiền bạc từ bên ngoài bơm vào cho nền kinh tế của họ đang ở một mức rất thấp.

Việt Nam cũng đang thua thiệt vì mức chênh lệch thương mại khổng lồ với Trung Quốc (Việt Nam xuất khẩu qua Trung Quốc 1 tỉ đô la, nhưng nhập khẩu của Trung Quốc 20 tỉ đô la năm 2008 – theo website của bộ Ngoại Thương VN).

Khi có nhiều công ty người Trung Quốc hùn hạp nhau ở phía bên kia biên giới và đầu tư nhiều triệu đô la vào các dự án đầu tư mới, Hà Nội không thể nào ra lệnh cho những công ty đó điều gì phải nên làm. Họ cũng không thể chỉ ngăn chận làm giảm bớt nguồn tiền đầu tư ấy. “Nhà nước Việt Nam phải thận trọng về những gì họ mong muốn” Giáo sư Thayer cảnh báo.

Người dịch: Trần Hoàng

 

In Vietnam, New Fears of a Chinese ‘Invasion’

By Martha Ann Overland / Hanoi Thursday, Apr. 16, 2009

Vietnamese workers walk along rubber trees in Vietnam’s Central Highland Gia Lai province in March 2006

Kham / Reuters

Thirty years ago, Vietnamese soldiers waged a final, furious battle in the hills of Lang Son near the country’s northern border to push back enemy troops. Both sides suffered horrific losses, but Vietnam eventually proclaimed victory. Decades later, diplomatic relations have been restored and the two nations, at least in public, call each other friend. Vietnam’s former foe is a major investor in the country, bilateral trade is at an all-time high, and tourists, not troops, are pouring in.

No, not Americans. Chinese. As part of an aggressive effort to expand its commercial and political influence in Southeast Asia, China is investing heavily in Vietnam. Chinese companies are now involved in myriad road projects, mining operations and power plants. Yet, despite the fact that cooperation between the two communist countries is being encouraged by Vietnam’s leaders, this friendly invasion does not sit well among a people who have been fighting off Chinese advances for more than a thousand years, most recently in 1979. Many in Vietnam worry that China is being handed the keys not just to their country’s natural resources but also to sensitive strategic areas, threatening the nation’s security. “The danger is that China has won most of the bids building electricity, cement and chemical plants,” warns Nguyen Van Thu, the chairman of Vietnam’s Association of Mechanical Industries. “They eat up everything and leave nothing.” (See pictures of the border war between China and Vietnam.)

Thu says he suspects some Chinese companies have won construction contracts by submitting lowball bids, which could mean they are cutting corners, threatening quality and safety. But Thu’s biggest concern is the influx of large numbers of Chinese workers, including cooks and cleaning staff, that are taking jobs from Vietnamese and threatening the country’s social stability. “Chinese contractors bring everything here, even the toilet seats!” declares Thu. “These are materials Vietnam can produce, and work that Vietnamese can do.”

The latest lightning rod for anti-Chinese sentiment is Hanoi’s plan to allow subsidiaries of the Aluminum Corporation of China (Chinalco) to mine bauxite ore in Vietnam’s Central Highlands. Bauxite is a key ingredient in aluminum, which China needs to fuel its construction industry. Vietnam has an estimated eight billion tons of high-quality bauxite, the third-largest reserves in the world. The environmental cost of extracting the mineral, however, can be high. Strip mining is efficient, but scars the land and bauxite processing releases a toxic red sludge that can seep into water supplies if not adequately contained. Several senior Vietnamese scientists as well as Vietnam’s burgeoning green movement have questioned the wisdom of giving mining rights to China, whose own mines were shut down because of the massive damage they caused to the environment.

But the real opposition appears to have less to do with the environment and more to do with Vietnam’s fear of its neighbor on the country’s northern border. Nationalist groups accuse Hanoi of caving in to pressure from commodities-hungry China by allowing the mining project to go forward. Bloggers are whipping up fears that the influx of Chinese workers is part of Beijing’s long-term strategy to occupy their country. Banned pro-democracy groups, which are happy for any opportunity to criticize the authoritarian government, call the mining venture an “ill-begotten scheme.” Earlier this month, a dissident Buddhist monk, Thich Quang Do, said that strip mining will destroy the way of life of the region’s ethnic minorities. He added that the project created “an illustration of Vietnam’s dependence on China.” There has been no such outcry against U.S. aluminum giant Alcoa’s plans to mine two sites in Dak Nong province in the Central Highlands.

Perhaps the most unexpected criticism has come from General Vo Nguyen Giap, a revered Vietnamese military leader who helped defeat the French and later the Americans. In a letter to Vietnam’s Prime Minister Nguyen Tan Dung, the 97-year-old war hero voiced concern over the presence of large numbers of Chinese in the Central Highlands, which is a strategic gateway to Vietnam, one where battles have been won and lost.

Other countries in the region are made uneasy by China’s thirst for resources. Last month, the Australian government rejected a $1.8 billion bid by Chinese mining company Minmetals to acquire debt-ridden OZ Minerals, the world’s second-biggest zinc miner, due to national security concerns. OZ Minerals has operations near Australia’s Woomera weapons testing site.

The Hanoi government says it is listening to concerns but it appears to be unmoved. Dung recently declared bauxite mining a “major policy of the party and the state.” Deputy Prime Minister Hoang Trung Hai reaffirmed the government’s support, and several local provincial officials were on hand at a recent mining conference to defend the project, arguing that despite the presence of the Chinese workers, development will benefit the impoverished ethnic minorities who live in the region.

The pressure on Vietnam to proceed as planned is enormous, says Carl A. Thayer, a Vietnam expert who teaches at the University of New South Wales’ Australian Defense Force Academy. Vietnam needs to trade with China, the world’s third-largest economy, to survive. Thayer acknowledges that no Chinese company operates independently of the government. “If you go up far enough you will find a military or a security connection,” he says. “But Chinese occupation? I don’t believe that.”

Some of the problems are of Vietnam’s own making, observes Thayer. The country has become increasingly dependent on foreign direct investment to buoy its economy. Last year, overseas investors sunk a record $11.5 billion into Vietnam. China last year had 73 investment projects worth $334 million in the country. But in the wake of the global recession, foreign direct investment plummeted 70% in the first quarter of 2009 compared to the same time period last year.

Hanoi has been calling for increased investment, and is even more desperate for external cash infusions now that its economy has flatlined. Vietnam has also racked up a massive trade deficit with China. As more Chinese companies venture across the border and sink millions into new investment projects, Hanoi can’t dictate all the terms. Nor can they just close the spigot. “The Vietnamese have to be careful of what they wish for,” says Thayer.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Báo chí, Chính trị, Lịch sử, Quan hệ Việt-Trung | Leave a Comment »

Người Tử tù Câm

Posted by adminbasam trên 18/04/2009

Đôi lời: Xin giới thiệu một nhân vật khá đặc biệt, một nhà báo chống tham nhũng bị án tù giam đầu tiên ở Việt Nam (XHCN) cách đây 11 năm, do “lỗi tác nghiệp” khi đang là Tổng biên tập tờ Doanh Nghiệp. Anh bị án tù một năm lẻ mấy ngày – đúng bằng thời gian tạm giam. Sẽ chưa tiện để nói về vụ việc của anh, chỉ có thể đề cập ở đây là cho tới hôm nay anh vẫn là một nhà báo rất say mê với nghề nghiệp, khát khao nâng cao dân trí, chống tham nhũng. Ngoài ra, anh còn có cả pho chuyện kể về đời sống và tâm lý người tù rất cảm động. Tiếc rằng cuộc sống với nghiệp báo bộn bề chưa cho anh điều kiện thai nghén những tác phẩm văn học bằng chất liệu sống đặc biệt hiếm hoi đó. Dưới đây là một truyện ngắn viết về một nhân vật và cảnh ngộ éo le có thật, một bạn tù mà chưa từng được gặp gỡ của anh (truyện đã được đăng trên tờ Văn Nghệ Trẻ năm 2007).

 

Người Tử tù Câm

Truyện ngắn của Nguyễn Hoàng Linh

Hắn bị giam ở cạnh buồng của tôi. Gần một tháng trời kể từ ngày tôi bị giam vào đây, hắn không nói một lời nào. Dãy buồng B lẻ lặng như câm, như điếc. Theo số suất cơm của người “tù tự giác” bê vào thì cả dãy chỉ có hai người, tôi và hắn.

Thời gian lặng lẽ trôi đi như dòng nước chảy ngược. Tương lai chẳng thấy đâu mà chỉ toàn hiện lên quá khứ. Cái buồng giam bé hẹp chưa đầy 6 mét vuông, hai bệ xi măng lạnh ngắt, một bệ xí và một chiếc bể nước con khiến lồng ngực như khép lại, tức thở. Đêm đến, giấc ngủ chập chờn toàn những bóng ma và ác quỷ.

– Nó câm đấy! án “dựa cột”. Đang chờ ngày hành quyết.

– Trẻ lắm, mới 27 tuổi. Đẹp trai.

– Quê ở Thái Nguyên. Vừa cướp của, vừa giết người.

– Thỉnh thoảng khóc một mình. Tội nghiệp lắm!

Mỗi lần đưa cơm, người “tù tự giác” chỉ kịp thông tin từng mẩu về hắn như vậy. Cứ như người gom nhặt từng mẩu bánh mì rơi vãi để chắp thành một chiếc bánh mì, tôi mường tượng ra gương mặt và số phận của hắn.

***

“Có ai còn sống khô… ô… ông!”. Thình… Thình… Thình… Tôi giật mình tỉnh dậy. Đêm lặng ngắt, chỉ có tiếng o… o… của chiếc chấn lưu đèn ống mắc ngoài hành lang vọng vào. Cánh cửa sắt vẫn đóng im ỉm. Hình như có tiếng người, lại cả tiếng đập cửa? Không thể thế được. Đương nhiên không phải tiếng thằng câm. Vậy thì ai gọi? Vọng từ đâu đến? Hay là tiếng của những oan hồn?… Tim tôi đập thình thịch. Tôi khẽ nghiêng người, đưa mắt nhìn sang bệ xi măng bên cạnh. Không có gì. Không có bóng áo trắng nào nằm ở đấy cả. Người “tù tự giác” thỉnh thoảng nói với tôi rằng ở đây nhiều ma lắm. Hôm nào nghe tiếng chó tru lên ngoài xa là có ma về. Nhiều người tù đang đêm tỉnh dậy, thấy một bóng áo trắng nằm ngay bên cạnh mình. Rồi lại có người nhìn thấy ma đi lũ lượt ngoài hành lang, tay dắt cả chó ngao… Tôi không tin là trên đời này có ma và cũng chưa bao giờ gặp ma. Nhưng tôi vẫn cho rằng có một “thế giới vật chất phi truyền thống” nào đó, tồn tại ở một dạng sóng hạt nào đó mà chỉ một số người “bắt” được tần số mới cảm nhận được. Trường hợp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ngồi tại Hà Nội mà hướng dẫn người tìm mộ tận trên rừng Trường Sơn, nói đâu đúng đấy trong hàng trăm trường hợp thì đâu còn là sự ngẫu nhiên. Có lẽ ma đang nằm bên cạnh mình thật, đang nói, đang gọi thật, đang đập cửa thật mà mình chỉ cảm nhận được khi ngủ chứ không cảm nhận được khi thức. Tôi cứ tự an ủi mình bằng cách nghĩ như vậy và yên tâm quay mặt vào tường ngủ tiếp.

“Có ai còn số… ố… ống khô… ô… ông!”. Thình… Thình… Thình… Tôi lại choàng tỉnh. Song lần này khác với lần trước, sau tiếng “khô… ô… ông” cuối cùng ấy là một tiếng nấc vô vọng. Tôi tỉnh hẳn, ngồi bật dậy, lao ra cửa, tay nắm lấy song sắt. Ngoài hành lang vẫn vắng lặng. Ánh đèn nê-ông nhợt nhạt như màu của xác chết. Tôi lấy hết can đảm thì thào “Ai đấy! Có tôi đây!”. Tôi linh cảm thấy rằng đấy là tiếng gọi của thằng câm.

– Anh ở phòng nào? – Tiếng người reo lên nho nhỏ.

– B13! – Tôi thầm thì.

– Tôi B15. Tôi là thằng câm đây!

– Câm sao lại nói được?

Lặng đi vài giây, thằng câm khe khẽ:

– Chuyện dài lắm. Có lẽ tôi sắp phải “đi” rồi.

Rồi thằng câm kể: Quê tôi ở Thái Nguyên. Anh đã lên Thái Nguyên bao giờ chưa? Vùng đất đồi núi, chó ăn đá, gà ăn sỏi ấy, chẳng có cái gì tồn tại được trừ cây chè và cái đói, cái nghèo. Nhà tôi có sáu người. Nói là sáu song thực chất chỉ có năm: bố, mẹ và ba anh em tôi. Tôi ở giữa. Còn đứng thứ sáu là một con chó. Nó tên Tu Tu, bảy tuổi. Nhà tôi nghèo, thiếu đủ thứ song không thể thiếu con Tu Tu. Nó cùng vui, cùng buồn với tất cả mọi người trong nhà, nó thân thiện với bạn bè, người thân của gia đình nhưng cực kỳ hung dữ với những kẻ có tâm địa ác độc. Ai đến nhà chơi, nếu con Tu Tu nằm ngay bên cạnh khách, thỉnh thoảng gầm gừ, ấy là báo hiệu người nhà phải cảnh giác người đang ngồi chơi đấy mà tâm địa tối tăm. Còn những người khác, nó lảng ra ngoài cổng. Nó biết cảm thông, chia sẻ cái nghèo với chủ. Nhà tôi một tháng, năm thì mười họa mới có một bữa cơm có thịt, và hôm ấy, bao giờ con Tu Tu cũng biến mất, không ngồi chồm hỗm, vui vẻ với chủ như những bữa khác. Chỉ khi cả nhà ăn xong, bưng cái mâm bát ra bờ giếng để rửa thì nó mới len lén xuất hiện, la liếm những mẩu xương thừa một cách ngon lành. Có lẽ nó hiểu rằng có nó trong bữa ăn, số thịt ít ỏi kia sẽ phải chia làm sáu chứ không phải làm năm. Hành động “nghĩa hiệp” của nó khiến cả nhà tôi càng thương nó hơn, gặm miếng xương cũng gặm dối hơn, miếng thịt cũng cấu lại một ít giả vờ là xương để lại góc mâm dành cho nó.

Thế mà một hôm, đến bữa cơm chiều không thịt, không cá, con Tu Tu biến mất. Cả nhà tôi bàng hoàng, biết sự chẳng lành đã xảy ra với nó. Một tai họa khủng khiếp mà gia đình tôi chưa bao giờ gặp phải. Không thể ai bắt trộm được nó vì nó rất khôn và rất dữ. Nó không thể bỏ chúng tôi được vì cũng như chúng tôi không thể bỏ nó. Thế mà suốt từ trưa đến lúc cả nhà ngồi quanh một mâm cơm toàn ngọn rau lang luộc với muối vừng, nó vẫn không về. Cả nhà chẳng ai nuốt nổi lưng bát cơm. Bố tôi ngồi thẫn thờ trên chiếc phản cũ kỹ giữa nhà, rít thuốc lào sòng sọc. Mẹ tôi kê đôi dép nhựa rách, ngồi đầu thềm vừa ngóng con Tu Tu vừa lau nước mắt. Thằng em trai tôi bưng mâm cơm ra bờ giếng, khóc ti tỉ. Chỉ riêng ông anh tôi, mặt lì lì, chẳng nói chẳng rằng. Cả nhà nặng nề như có tang.

Khoảng 10 giờ đêm, anh tôi lôi tôi ra đầu nhà, giọng lạnh sắc:

– Thanh! Mày còn giữ con dao găm hồi trước không?

Tôi hơi chột dạ:

– Còn. Nhưng anh cần làm gì?

– Đi cứu con Tu Tu.

Tôi mứng quýnh:

– Sao? Anh tìm được con Tu Tu rồi à? Anh biết chỗ con Tu Tu à? Nó bị bắt trộm hay sao?

– Lấy con dao găm ra đây – Giọng anh vẫn lạnh ngắt.

Tôi cuống lên:

– Thế thì phải cứu bằng được nó – Nói rồi, tôi vội chạy vào bếp, lấy con dao giắt trên mái, giấu trong một ống tre.

Anh tôi bảo:

– Phải mang theo cái kìm cắt nữa. Nó đang bị nhốt ở trong một chiếc cũi mắt cáo.

Chúng tôi chuẩn bị xong xuôi và lặng lẽ ra đi trong đêm tối, hướng về thành phố. Hôm ấy trời đầy sao. Từ nhà tôi ra đến thành phố chưa đầy 6km. Gió heo may mát lạnh của mùa thu không làm giảm khí thế hừng hực trong tôi. Song tôi có biết đâu rằng, đó là một đêm tối định mệnh, một đêm không bao giờ xảy ra lần thứ hai trong đời.

– Sao anh tìm ra đứa bắt trộm con Tu Tu?

– Nó không bị bắt trộm. Tao đã bán nó.

– Trời! – Tôi kêu lên và đứng sựng lại giữa lưng chừng dốc một quả đồi – Không thể có việc đó được. Anh nói dối.

Anh tôi kéo tay tôi lôi đi:

– Tao nói thật đấy.

– Anh không phải là người vô lương tâm. Nếu vô lương tâm, con Tu Tu nó đã biết, nó sẽ không bao giờ chơi với anh. Nhưng đằng này, nó quý anh nhất nhà…

Anh tôi vẫn lầm lũi đi về hướng thành phố. Đường đồi gập ghềnh, mấp mô, chỗ lồi chỗ lõm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bị vấp ngã chúi mũi.

– Anh bán cho nhà nào?

– Tuấn thịt chó.

Mấy tiếng “Tuấn thịt chó” khiến tôi choáng váng. Con Tu Tu mà vào tay nhà ấy chắc gì giờ này còn sống. Như hiểu được tâm trạng của tôi, anh nói:

– Hôm nay đầu tháng, khách ăn thịt chó ít, nó chưa bị giết đâu. Tao vừa đi quan sát về.

– Sao anh lại bán nó? – Tôi hỏi và hồi hộp đợi câu trả lời.

Bóng đen bên cạnh tôi vẫn lầm lũi di chuyển, rồi phát ra những âm thanh cục mịch, khô khốc như những viên sỏi ném vào màn đêm:

– Tao cần tiền. Thằng Tiến bị tai nạn gãy chân. Không có tiền chạy chữa. Tao chẳng còn cách nào khác.

Tôi thở dài và thấy thương anh tôi. Anh Tiến là bạn nối khố của anh tôi từ nhỏ, cùng học với nhau, cùng đi làm thuê với nhau và cùng cảnh nghèo với nhau. Chỉ khác một điều bố mẹ anh Tiến mất sớm, để lại 3 đứa em nhỏ, nhà nghèo đến sát tận xương tủy. Quả thật, đối với anh tôi, giữa anh Tiến và con Tu Tu, chẳng thể phân biệt bên nào hơn bên nào, chỉ có điều một bên là con chó và một bên là con người. Anh Tiến hơn phân có lẽ là vì cuộc sống của 3 đứa em nhỏ. Anh Tiến sống thì chúng nó sẽ sống…

Nhà Tuấn thịt chó ở ngoại thành, bên con đường đá lẫn nhựa lổn nhổn. Đằng sau nhà là một cái ao lớn, xung quanh trồng chè lúp xúp. Trong bóng đêm, anh tôi chỉ cho tôi chỗ nhốt con Tu Tu, phần chái nhà sau bếp. Từ chỗ hàng rào bên hông nhà, qua vườn chè là tới bếp. Cũi chó đặt ở đó. Tôi được phân công đứng ngoài hàng rào nghe ngóng.

Anh tôi như một con mèo, nhẹ nhàng nhảy qua hàng rào cao ngang lưng, lom khom vượt qua vườn chè, tiến về phía bếp. Có tiếng “ư ử” khe khẽ của con Tu Tu. Nó đã đánh hơi được chủ. Tim tôi như muốn vỡ ra. Con Tu Tu vì vui mừng mà làm lộ thì không còn cách nào cứu thoát. Thật may, con Tu Tu đã im bặt, chỉ còn tiếng thở của nó. Rồi tiếng lách cách kìm cắt dây thép… Bỗng có tiếng kẹt cửa. Tôi nín thở. Cửa nhà trên mở. Ông chủ thịt chó từ từ tiến về phía nhà bếp. Nguy mất rồi, ông ta đã chặn đường ra. Nếu lộ, chỉ còn một nước là nhảy xuống ao, mà xuống ao là đường tử.

Có tiếng vật nhau uỳnh uỵch. Tiếng kêu thất thanh. Tiếng ú ớ. Tiếng chân người chạy sầm sầm trong nhà, ngoài bếp. Tôi đang loay hoay chưa biết làm thế nào thì thấy bóng con Tu Tu vút qua hàng rào. Tiếp là anh tôi vụt qua theo, ngay chỗ tôi ngồi náu. Một bóng đen đuổi sát. Theo phản xạ tự nhiên, tôi vụt dậy, lao ra ôm chặt lấy bóng đen. Sau mấy giây vật lộn, giằng ra không được, bóng đen liền ôm chặt lấy tôi và hô lớn: “Cướp! Cướp! Bà con ơi, bắt lấy nó”. Dân chúng vây quanh tôi, đèn pin loang loáng. Tôi bị đánh một trận nhừ tử. Mặt mũi, tay chân chỗ nào cũng sưng húp, đau nhừ. Họ dùng dây thừng trói gô tôi lại như bó giò, kéo lê tôi tới đồn công an…

* * *

Cửa sắt nhà giam ken két mở. Tiếng kể chuyện của thằng câm im bặt. ở trong nhà giam này, mọi người ai mắt cũng kém đi và tai lại thính lên, thính nhạy không kém gì tai chó, tai mèo. Chỉ nghe tiếng chân người đi ngoài hành lang là biết đó là ai, quản giáo hay “tù tự giác”, người chữa điện hay người đưa cơm. Tiếng mở cửa, đóng cửa sắt cũng như giới thiệu được tên người, tính cách. Hôm nay, đang nửa đêm có cán bộ quản giáo đi tuần thế này, chắc là có vấn đề nghiêm trọng.

Tiếng giày của người cán bộ quản giáo rõ dần. Tôi vội chui vào màn, nằm im giả vờ ngủ. Ông quản giáo này tên là Duy, quê ở Bắc Ninh. Ông có gương mặt đầy đặn, phúc hậu, song đôi mắt hơi buồn, khi nói chuyện, đôi chân mày hơi nhíu lại. Người ta bảo những người như thế thường đa cảm, thương người, số sẽ vất vả. Riêng với ông quản giáo Duy, tôi có cảm tình với ông ngay từ đầu, không phải chỉ vì tướng mạo mà vì cách cư xử. Ông quan tâm đến tù nhân như bác sĩ quan tâm tới bệnh nhân, hỏi han, chăm lo từng tí một. Chính ông đã khiến tôi xoá hết những gì ác cảm từ xưa đến nay về nhà tù. Thì ra, nơi nào cũng có những người tốt, thậm chí rất tốt nữa là đằng khác.

Quản giáo Duy đến trước cửa buồng giam chúng tôi thì dừng lại, nghe ngóng một hồi rồi lẩm bẩm:

– Quái, rõ ràng có tiếng người rì rầm ở chỗ này. Chẳng lẽ lại có ma?

Ông nghé vào buồng tôi, sang buồng thằng câm đứng một lúc, lẩm bẩm thêm vài câu gì đó rồi quay trở lại phòng trực ban.

Một lát sau, tiếng thằng câm thì thầm:

– Anh vẫn còn thức đấy chứ?

– Còn! Tôi vẫn nghe đây. Anh không giết người sao lại nhận án tử hình?

– Tôi không giết người nhưng anh tôi giết. Tôi không thể ngờ được rằng anh tôi đã đâm chết ông chủ hiệu thịt chó. Đêm hôm ấy, họ hỏi cung tôi. Tôi nói tôi là người qua đường, thấy tiếng í ới, nhộn nhạo, rồi thấy có người nhảy qua hàng rào. Tôi nghĩ là kẻ trộm nên ôm chặt lấy người đó. Tôi không hề biết đấy là con trai ông chủ hiệu thịt chó. Cũng không biết là trong nhà có vụ giết người. Nói rồi, nói mãi, công an họ vẫn không tin. Họ cho xét nghiệm hiện trường, xét nghiệm tất cả những thứ trên người tôi có. Họ nói rằng mấy sợi tóc rơi trên nền bếp nhà ông chủ hiệu thịt chó chính là của tôi. Vết máu trên áo tôi là máu của ông chủ hiệu thịt chó. Tất cả mọi chứng cứ đều chống lại tôi. Vợ chồng con trai ông chủ thịt chó quyết tâm trả thù cho cha bằng cách dựng hiện trường giả. Ngay sau khi tôi bị dẫn lên đồn công an, nó lập tức về mở tung cửa tủ, vứt mấy cái nhẫn vàng vung vãi khắp nhà. Lấy ngay cái gậy mà nó đã đánh vào đầu tôi làm tang vật để lấy mẫu máu và tóc của tôi tại hiện trường. Vết máu trên áo tôi chính là vết máu trên áo nó dây sang. Khi vật lộn trong bếp, máu của bố nó đã thấm đẫm vào nó. Rồi khi vật lộn với tôi, máu ấy lại dây sang tôi. Cái bản tự khai của vợ chồng nó mới ác độc. Nó mô tả rằng khi nghe tiếng cạy cửa, vợ chồng nó đã biết là kẻ trộm, song khi thấy tay tôi lăm lăm cầm dao, nên không dám động tĩnh gì. Đến khi tôi cạy tủ, lấy hết vàng bạc nhà nó chuồn ra sau bếp thì chẳng may đúng lúc ông bố ở nhà dưới dậy ra vườn đi tiểu đêm bắt gặp, thế là tôi bỏ của chạy lấy người, đâm chết bố nó. Chạy ra đến hàng rào thì nó đuổi bắt được tôi.

Trong vụ việc này, chỉ có hai người biết chắc chắn tôi không phải là kẻ giết người, cướp của, đó là con ông chủ thịt chó và anh trai tôi. Tôi đã từng hy vọng lương tâm con ông chủ thịt chó sẽ cắn rứt, sẽ tự đứng ra rút lời khai bịa đặt kia. Nhưng việc ấy đã không xảy ra. Tôi không trách gì anh ta. Nỗi đau mất cha của anh ta quá lớn. Đời anh ta lại quá quen với mùi tanh của máu, dù đó là máu chó. Nếu một chút nào vô lương tâm, độc ác và tàn nhẫn thì cũng là điều dễ hiểu. Còn anh trai tôi, sau khi nghe tôi bị kết án tử hình, anh trở nên điên loạn, lúc khóc, lúc cười, thỉnh thoảng lại đập đầu vào bất cứ thứ gì có thể đập được và kêu đến khản tiếng: “Tôi giết em tôi rồi! Tôi giết em tôi rồi!”. Một ngày kia, anh viết đơn tự thú kể lại tất cả. Từ việc bán con Tu Tu, đi cứu con Tu Tu, rồi bị dồn vào tình thế quẫn bách, vô thức nên đã vô ý giết người. Trong đơn, anh xin chịu tội chết thay cho tôi vì tôi không có tội. Tôi không hiểu cái đơn tự thú ấy có làm ai tin không, song tại buổi thẩm vấn gần đây nhất, tôi đã viết bản lời khai xác định rằng tôi là kẻ giết người. Anh ấy thương tôi mà nghĩ ra câu chuyện ấy. Lời khai của tôi được các cơ quan pháp luật tin ngay lập tức, vì tất cả các sự kiện được khớp vào nhau đến mức không thể còn một khe hở nghi ngờ nào lọt qua. Người tố cáo có, người làm chứng có, người nhận tội có, vật chứng có… tất cả đều y như thật.

Tôi làm việc này vì đã nghĩ kỹ lắm rồi. Ở đời, ân oán phải sòng phẳng. Nhà mình đã giết chết một người của nhà người ta thì nhà mình phải có một người đền mạng. Mình không đền rồi cuộc đời cũng sẽ bắt mình phải đền. Việc đã lỡ rồi, làm sao bây giờ. Cả nhà tôi bây giờ chỉ có tôi là đáng đền mạng nhất. Bố mẹ tôi thì già rồi, bao nhiêu năm nuôi chúng tôi khôn lớn, vất vả nhọc nhằn từ mờ sáng đến tối mịt, không đáng phải chịu đựng thêm bất cứ một bất hạnh nào của cuộc đời. Em trai tôi còn nhỏ dại, nó cần phải được học hành nên người. Còn anh tôi. Anh ấy lại càng đáng được sống hơn, vì anh ấy đã mất cả cha lẫn mẹ. Từ nhỏ đến lớn, nỗi đau mất mát luôn luôn đeo đẳng anh ấy mặc dù gia đình tôi, kể cả con Tu Tu, đã dành cho anh tình thương lớn nhất.

***

Lại có tiếng lách cách khoá cửa sắt phía đầu hành lang. Vẫn tiếng giày của quản giáo Duy. Chúng tôi im bặt và chui vào màn giả vờ ngủ. Tiếng ngáp dài và tiếng lầu bầu vọng vào: “Đúng là có ma. Hay mình mơ ngủ. Vớ vẩn thật”. Tiếng giày xa dần, xa dần.

* * *

Câu chuyện của chúng tôi lại tiếp tục.

Bố tôi và bố anh ấy cùng chung đơn vị bộ đội. Trong một trận chiến đấu, bố anh ấy bị thương nặng. Trước khi mất, ông nắm tay bố tôi vừa nói vừa ứa nước mắt: ”Tôi chỉ có duy nhất một đứa con trai. Nó mất mẹ từ nhỏ. Nó không thể không có bố. Anh hãy là bố nó thay tôi”. Nói rồi, ông tắt thở. Anh tôi lớn lên trong gia đình tôi như người con đẻ. Anh thương bố mẹ nuôi, thương các em, thương con Tu Tu hơn cả thân mình.

Anh sống tự tin và hiếu thảo. Anh chưa làm điều ác với ai bao giờ. Với bạn bè, anh không tiếc một thứ gì. Như việc của anh Tiến đấy, anh đã phải đứt ruột bán con Tu Tu để cứu lấy bạn, cứu lấy cuộc sống của ba đứa em nhỏ của bạn. Rồi lại phải làm cái việc vô cùng độc ác để cứu con Tu Tu. Anh ấy đang có người yêu. Anh ấy sẽ lấy vợ, và sẽ có con. Bố anh ấy dưới suối vàng chắc sẽ mãn nguyện lắm…

***

Câu chuyện của thằng tử tù câm cứ thì thầm, thì thầm như một huyền thoại. Lời kể của hắn tuôn như suối chảy, rì rào, trong vắt, thanh thản, không giận hờn, không nuối tiếc. Cuộc sống bình dị của một gia đình nghèo vùng bán sơn địa thấp thoáng trong trí tưởng tượng của tôi. Một mái nhà tranh thưng ván gỗ nằm nép dưới chân một đồi chè. Từ đỉnh đồi, những hàng chè mềm mại như sóng biển lan dần xuống chân đồi. Nắng sớm nhuộm vàng xanh những đồi chè lô xô. Nhìn màu nắng, người ta liên tưởng đến bát nước chè xanh cắm tăm, đượm chát và ngọt hậu. Nếu không có câu chuyện của thằng câm, tôi không thể nghĩ rằng ở đó có những con người sống cao nghĩa đến như thế. Tôi hỏi vọng sang:

– Thế anh bị câm từ khi nào?

– Ngay tại phiên tòa, sau khi nghe tuyên án: “Chịu mức hình phạt cao nhất: Tử hình!”. Tôi muốn thốt lên một lời nào đấy song lưỡi cứng lại, cổ họng nóng ran như bị đứt một cái gì đó. Và từ đấy, âm thanh duy nhất của tôi có thể phát ra được là tiếng ú ớ. Bản năng sinh tồn đã khiến có một phần nghìn tia hy vọng loé lên trong tôi, rằng sự thật và sự trong sáng của lương tâm sẽ phán quyết tại tòa. Thế nào tòa cũng tìm ra được một dấu vết nào đấy của sự thật. Chân lý sẽ được khẳng định, nhưng tôi đã nhầm. Tất cả đã được định sẵn. Đã sáu tháng rồi, không hiểu tại sao hôm nay tôi lại nói được. Có lẽ điềm trời báo trước là tôi sắp đi rồi.

***

Quả đúng như thằng câm dự đoán. Khoảng 4 giờ sáng, tiếng khóa hành lang lách cách. Tiếng chân rậm rịch, toàn người lạ, đi về phía chúng tôi. Cửa buồng giam thằng câm được mở. Tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng trao đổi thì thầm. Tôi nhổm dậy, nhìn qua song sắt và nổi gai khắp người: “ Đội thi hành án”.

Thằng câm đi qua buồng tôi, gương mặt trẻ trung, cương nghị, thông minh hiện ra trước mắt tôi. Trong giây lát, tôi thoáng thấy hai giọt nước mắt lăn trên gò má như còn lông măng của hắn. Tôi hai tay nắm chặt chấn song sắt nhà tù, muốn hét lên một câu: “Thả người ta ra, người ta không có tội” nhưng không phát ra được lời nào. Lưỡi tôi cứng lại, cổ họng tôi nóng ran như bị cứa đứt một cái gì đó. Tôi gục vào cánh cửa. Nước mắt cứ thế trào ra…

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Dân chủ/Nhân Quyền, Pháp luật, Tham nhũng, Văn hóa | 1 Comment »

Bài học khai thác bauxite ở Tây Nguyên

Posted by adminbasam trên 18/04/2009

Bài học khai thác bauxite ở Tây Nguyên

Vietsciences – Nguyễn Đức Hiệp

18/04/2009

Tình hình khai thác bauxite trong khu vực

Hiện nay công ty Chinalco của Trung Quốc đang tăng mua cổ phần từ 9% đến 18% công ty Rio Tinto (công ty Anh-Úc lớn chuyên khai thác khoáng sản như sắt, than, bauxite, đồng, ..) và mua một phần các mỏ, nhà máy khai thác và luyện nhôm, sắt, đồng của Rio Tinto.  Chinalco là công ty mẹ của Chalco. Chalco được Chinalco thành lập để  hoạt động hữu hiệu ở ngoài Trung Quốc với trái phiếu Chalco được niêm yết trên thị trường chứng khoán Hong Kong và New York và có văn phòng đặt ở nhiều nơi trên thế giới.

Nhà máy lớn nhôm bauxite với công nghệ hiện đại ở Weipa, miền bắc Úc thuộc tiểu bang Queensland đã được công ty Trung Quốc Chinalco (China Aluminum Corporation) mua trước đây  39% . Ngoài ra Rio Tinto và Chinalco đang thẩm định thăm dò thiết lập nhà máy luyện nhôm ở vùng Aurukun gần Weipa. Chinalco hiện nay dự định tăng mua cổ phần 18% Rio Tinto (coi như Trung Quốc có cổ phần lớn nhất trong các nhà đầu tư vào Rio Tinto) đang được chính phủ Úc xem xét trước khi cho phép mua. Trung Quốc bỏ vào gần 20 tỉ đô Mỹ để tăng cổ phần từ 9% đến 18% và tham dự sở hữu, sản xuất  liên doanh chung các mỏ sắt, than ở Úc và mỏ đồng ở Chile, Mỹ, Indonesia và Peru (50% phần hùn nhà máy luyện nhôm Yarwun Aluminium Refinery, 49% vào nhà máy nhôm Boyne Smelters Ltd, 30% vào công ty Rio Tinto Indonesia Holdings Ltd ở Indonesia,  15% trong công ty mỏ sắt ở Tây Úc Hamersley Iron Pty Ltd, 49.75%  vào Rio Tinto Escondida Ltd sản xuất đồng ở Chile, 30% trong dự án La Granja Copper Development project, 25% vào Kennecott Utah Copper Co sản xuất đồng ở Mỹ, 8.5% vào Shining Prospect Pte Ltd của Rio Tinto). Đây là đầu tư lớn nhất của Trung Quốc vào công ty ở nước ngoài. Lúc trước Trung Quốc định mua Công ty dầu của Mỹ nhưng bị Quốc hội Mỹ phủ quyết.

Nhiều nhà đầu tư đang nắm cổ phần dưới 10% của Rio Tinto ở Anh và Úc không hài lòng về việc giám đốc điều hành  (CEO) và ban quản trị công ty Rio Tinto đã muốn có tiền đầu tư của Chinalco để trả số nợ quá nhiều (khoảng 40 tỉ đô) sau khi Rio Tinto mua công ty nhôm Alcan (Aluminum Company of Canada) lớn thứ ba trên thế giới cuối năm 2007 trong thời điểm giá cao (nay vì khủng hoảng tài chính nên phải bán đi các tài sản khác để trả nợ). Các chính trị gia ở Úc đang tìm cách vận động chính phủ Úc từ chối không cho Chinalco mua Rio Tinto vì lúc này giá quá rẻ, ở đáy chu kỳ (bottom cycle) và lợi ích quốc gia, (vì hiện nay Trung Quốc mua sắt, than,.. của Rio Tinto rất nhiều và nếu Trung Quốc có 2 giám đốc trong ban điều hành thì sự thương lượng giá cả hàng năm để bán cho Trung Quốc sẽ bị hạ thấp) và nhất là Chinalco là công ty quốc doanh với vốn từ chính phủ Trung Quốc (sovereign fund) nên dễ bị chính trị xen vào và không còn thuần tuý là thương mại nữa.

Điểm chính là Trung Quốc hiện nay có quá nhiều ngoại tệ và muốn nắm nguồn cung cấp năng lượng, nhiên liệu và tài nguyên (resources) cũng như công nghệ cao, nên hiện nay chuyển vào lãnh vực này và không muốn mua phiếu nợ (bond) hay kỳ phiếu kho bạc (Treasury notes) của Mỹ nữa. Chinalco vì là chuyên về nhôm nên đang muốn nắm công nghệ luyện nhôm và làm chủ Rio Tinto (Alcan đã bị Rio Tinto nuốt). Cũng vì thế mà người ta không lấy làm lạ khi Trung Quốc muốn “tháo sắt vụn” chở qua Dak Nông, Lâm Đồng, giống như ở Đông Timor, để sửa soạn cho công nghệ cao mới ở nước của họ.

Theo tôi nghĩ, chính phủ Úc đang bị sức ép của Chinalco và Trung Quốc để chấp thuận nhưng đang bị dân và nhiều người trong giới đầu tư phản đối về tầm nhìn thiển cận của ban điều hành Rio Tinto để giải quyết nợ, nên có thể sẽ ngăn không cho Chinalco mua Rio Tinto.

Sau khi phái đoàn của Chinalco đến Úc thuyết trình trước Ban thẩm định đầu tư nước ngoài (Foreign Investment Review Board), vào giữa tháng 3-2009, Thượng viện Úc đã mang vấn đề này ra nghiên cứu, bàn cãi, để khuyến cáo chính phủ. Vì tầm quan trọng của sự đầu tư lớn này của Chinalco trong lãnh vực tài nguyên và lợi ích quốc gia, nên Ban thẩm định đã quyết định gia hạn thêm 3 tháng (thay vì chỉ trong vòng 30 ngày) để nghiên cứu thêm và lấy ý kiến của nhiều tổ chức, công ty có liên hệ, trước khi gởi báo cáo đến tổng trưởng tài chánh để có quyết định sau cùng.

Tương lai dự án bauxite ở Việt Nam

Tổng thống Đông Timor dám làm và bắt buộc phải hủy bỏ hợp đồng, vì toà án xác định là đã vi phạm pháp luật, nhưng ở Việt Nam dự án đã được khởi công, với quyết tâm của chính phủ  thực hiện với công ty Chalco của Trung Quốc, mặc dầu với công nghệ cũ, có khả năng gây ô nhiễm, gây tác động môi trường cao, và mặc dầu sự quan tâm, lên tiếng của nhiều người. Vậy thì phải làm gì ?

Về sự kiện khai thác bauxite ở Dak Nông, Lâm Đồng, viết tâm thư, kiến nghị hay phản ảnh lên chính phủ, như nhiều người đề nghị, đều sẽ không đi đến đâu. Và chẳng lẽ sau này có những vấn đề khác lại tiếp tục kiến nghị bằng tâm thư . Một cách tiếp cận khác là buộc chính phủ phải thông suốt và thi hành nghiêm chỉnh luật môi trường mà quốc hội phê chuẩn.

Vì điều cốt yếu là : thực thi đúng luật môi trường. Luật môi trường (xem phụ lục) là cơ sở cho phép xem xét lại kế hoạch khai thác bauxite ở Dak Nông, Lâm Đồng, với sự tham gia của nhiều tổ chức và quần chúng một cách trong suốt và đúng luật, điều mà hiện nay đã không được thực hiện đúng đắn trong dự án Nhân Cơ, Gia Nghĩa ở Dak Nông.

Đây là một bài học và cũng là cơ hội để Việt Nam học tập kinh nghiệm, thiết lập một quá trình thông suốt cho các dự án về sau này.

Theo tôi được biết, thì báo cáo “Tác động môi trường” (EIA) có, nhưng sơ sài không đầy đủ, so với tầm cỡ rất lớn của dự án, không ai biết và được đọc ngoài một số ít thành viên trong chính phủ, đảng, và các nhà tư vấn. Cách đây không lâu tôi có đọc một báo cáo ngắn của một nhà tư vấn (bản tiếng Anh chuyển ngữ từ tiếng Việt) thì Nhân Cơ, Gia Nghĩa chỉ là một phần của một dự án lớn bao gồm khai thác bauxite, lấy aluminia (Al2O3) chuyển xuống Ninh Thuận hay Bà Ria, lập nhà máy luyện Aluminium (Al) ở một trong hai nơi này, xuất khẩu (chủ yếu sang Trung Quốc) ở cảng mới tại mũi Kê Gà …

Dư án lớn thế này mà ít ai biết, cho đến cách đây nửa năm khi công ty chủ là Công ty Than và Khoáng sản Việt Nam mở Hội nghị tham khảo với các chuyên gia và sau đó sửa soạn khởi công. Ngay cả Quốc hội cũng không mang ra bàn.

Quá trình nghiên cứu, tham khảo, đánh giá tác động, thẩm định, thông báo, lấy ý kiến trước khi có quyết định, đã không được thực hiện nghiêm túc. Dự án khai thác ở Nhân Cơ với công ty Trung Quốc có lẽ đã được định sẵn và vì thế tất cả những đánh giá về tác động môi trường, lợi ích kinh tế, ảnh hưởng văn hóa dân tộc Tây Nguyên, an ninh quốc gia… chỉ là những yếu tố ngoại vi đã bị để ngoài tai.

Vì Việt Nam không có tòa án môi trường (Environment Court) và không có tổ chức phi chính phủ bản địa nào đủ mạnh để, dựa theo luật pháp, mang vấn đề ra, xem xét lại quyết định dự án bauxite ở Tây Nguyên (các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, theo tôi nghĩ, họ do dự và không muốn xen vào).

Việc cần, theo tôi lúc này, ngoài việc lên tiếng phản ảnh, nghiên cứu, phân tách cho rõ, như nhiều người đã làm ở trong và ngoài nước, là vận động để Quốc hội mang ra bàn, với hy vọng chính phủ xem xét lại. Cũng mong rằng chính phủ lắng nghe và từ bài học này tạo ra một quá trình đổi mới thông suốt hơn, như công bố các bản báo cáo đánh giá tác động môi trường (EIA) và nếu mạnh dạn, thì lập ra một “trọng tài” độc lập : một tòa án môi trường chuyên biệt để thực thi luật môi trường.

Nếu không thì sau này lại sẽ có những sự việc tương tự tái diễn, và chúng ta lại sẽ tiếp tục phản ảnh kêu gọi để chính phủ lắng nghe và sửa đổi.

Đối với chính phủ, thì việc lập ra một toà án môi trường sẽ chỉ có lợi, vì tránh được những  khúc mắc đau đầu : những quyết định khó khăn nhất sẽ được “khoán” cho một tổ chức tư pháp phán xét và giải quyết công minh, và do đó giải toả được mọi sức ép từ bên ngoài. Một nước mà trong đó người dân không cảm thấy luật pháp được thực thi đứng đắn, thì nước đó sẽ có những mầm mống bất an và sẽ đánh mất sự tự trọng.

Nguyễn Đức Hiệp

 

Phụ Lục:

Điều 18 – Luật bảo vệ môi trường ở VN (1993)

(http://www.nea.gov.vn/luat/toanvan/Luat_ BVMT.html);

Điều 18 – Tổ chức, cá nhân khi xây dựng, cải tạo vùng sản xuất, khu dân cư, các công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, chủ dự án đầu tư của nước ngoài, hoặc liên doanh với nước ngoài, chủ dự án phát triển kinh tế – xã hội khác phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường để cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường thẩm định.

Kết quả thẩm định về báo cáo đánh giá tác động môi trường là một trong những căn cứ để cấp có thẩm quyền xét duyệt dự án hoặc cho phép thực hiện.

Chính phủ quy định chi tiết việc xây dựng và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường và có quy định riêng đối với các cơ sở đặc biệt về an ninh, quốc phòng nói tại Điều 17…

Quốc hội xem xét, quyết định đối với dự án có ảnh hưởng lớn đến môi trường. Danh mục dự án loại này do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định.

Luật bảo vệ môi trường (1993) được điều chỉnh lại năm 2005 :

(http://www.chatthainguyhai.net/luatBVMT_ index.htm)
Điều 18 – Đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.

1. Chủ các dự án sau đây phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường :

a) Dự án công trình quan trọng quốc gia ;

b) Dự án có sử dụng một phần diện tích đất hoặc có ảnh hưởng xấu đến khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, các khu di tích lịch sử – văn hoá, di sản tự nhiên, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng ;

c) Dự án có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nguồn nước lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ sinh thái được bảo vệ ;

d) Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất, cụm làng nghề ;

đ) Dự án xây dựng mới đô thị, khu dân cư tập trung ;

e) Dự án khai thác, sử dụng nước ngầm, tài nguyên thiên nhiên quy mô lớn ;

g) Dự án khác có tiềm ẩn nguy cơ lớn gây tác động xấu đối với môi trường ;

2. Chính phủ quy định danh mục các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Điều 19 – Lập báo cáo đánh giá tác động môi trường :

1. Chủ dự án quy định tại Điều 18 của Luật này có trách nhiệm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

2. Báo cáo đánh giá tác động môi trường phải được trình bày đồng thời với báo cáo nghiên cứu tính khả thi của dự án.

©  http://vietsciences.free.frr và http://vietsciences.org Nguyễn Đức Hiệp

2009/4/18 Nguyen Hue Chi <chi.nguyenhue@gmail.com>

Trân trọng

Nguyễn Huệ Chi 

 
Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Bô-xít Tây Nguyên, Chính trị, Môi trường, Trung Quốc | Leave a Comment »

Báo động họa Cộng sản

Posted by adminbasam trên 17/04/2009

National Interest Online

Báo động họa Cộng sản

Lời tựa của TTX Vĩa Hè:

Chúng ta đang sống trong thời kỳ lo sợ về hiểm họa Cộng sản

1919-1920 chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ đã lùng bắt và trục xuất mấy trăm người di dân có các quan điểm chính trị cực tả. Sự lo lắng nầy đã bị gây ra bởi các nỗi sợ về một sự lật đổ của những người cộng sản ở Mỹ sau cuộc Cách Mạng Nga 1917Tựa đề Red Scare xuất phát từ 1919-1920.

*Quan điểm của tác giả là : Nếu TQ đe dọa bất cứ nước nào ở Đông Á, thì Mỹ đừng nên xía vào, mặc kệ nó. Hãy lo cho quốc nội.

Doug Bandow

Ngày 15-4-2009

Chi phí quân sự của Hoa Kỳ tiếp tục tăng lên mặc dù những mối đe doạ tiềm tàng chống lại nước Mỹ đã giảm xuống mức tối thiểu.

Những người biện hộ cho một lực lượng quân sự lớn mạnh hơn đang kêu gọi sự chú ý tới những kẻ thù cũ và mới, mà Trung Quốc là đối thủ hàng đầu đại diện cho loại Kẻ Thù Số Một.

Thế nhưng nếu Bắc Kinh đại diện cho một mối đe doạ, thì sự đe dọa ấy là đối với sự thống trị của Hoa Kỳ ở Đông Á, chứ không phải với nước Mỹ. Tuy nhiên, chỉ khi nào Trung Quốc gây ra mối đe dọa tại đất Mỹ thì mới đáng giá để giao tranh.*

Một số người tán thành cho chính sách này đã coi Trung Quốc như là một mối nguy hiểm tiềm tàng, trong khi những người khác coi cuộc chiến tranh với Bắc Kinh là chắc chắn phải xẩy ra.

Sự gia tăng các chi tiêu quân sự của Trung Quốc là nỗi lo sợ chung đối với tất cả mọi người. Ngũ Giác Đài đã nêu bật mối quan ngại của họ qua bản báo cáo thường niên mới đây nhất về ngân sách quốc phòng của Trung Quốc.

Bắc Kinh đã đáp trả bằng việc gọi bản báo cáo này là một “sự bóp méo cực độ về các sự kiện” và là sản phẩm của “lối tư duy Chiến tranh Lạnh”, thứ đóng vào vai trò “lợi dụng ảo tưởng về mối đe doạ quân sự của Trung Quốc.”

Để làm cho mọi người tin, Bộ Quốc phòng (BQP) đưa ra một giọng điệu có cân nhắc tính toán khi họ trình bày chi tiết về những nỗ lực quân sự gia tăng của Trung Quốc.

Các lực lượng lục quân của Bắc Kinh đang thực hiện nhiều tiến bộ thực sự — song vẫn còn còi cọc so với quân đội Mỹ, lực lượng Mỹ khởi đầu với một cơ sở to lớn vững mạnh và chi tiêu gấp nhiều lần hơn (TQ).

Bản báo cáo này của Hoa Kỳ tương tự như (báo cáo) của nước Anh ở thế kỷ 19, với đế chế trải rộng trên toàn cầu của họ, (khi ấy) Anh công khai than phiền về lực lượng hải quân đang bành trướng của Mỹ. Cuối cùng, Washington đã qua mặt cường quốc Anh, nhưng chỉ sau hai cuộc chiến tranh thế giới đã cùng lúc đánh thức nước Mỹ trỗi dậy và làm nước Anh kiệt sức.

Bản báo cáo của Ngũ Giác Đài mở đầu bằng cách công khai tuyên bố rằng “Hoa Kỳ chào đón sự trỗi dậy của một nước Trung Hoa ổn định, hòa bình, và thịnh vượng, và khuyến khích Trung Quốc tham gia một cách có trách nhiệm vào hệ thống quốc tế.” Tuy nhiên, Ngũ Giác Đài nói thêm rằng, “nhiều biểu hiện không rõ ràng bao quanh hướng đi tương lai của Trung Quốc, đặc biệt liên quan tới việc sức mạnh quân sự đang bành trướng của Trung Quốc có thể được sử dụng ra sao.”

Thật là đầy đủ, song làm cách nào Washington định nghĩa chữ “có trách nhiệm”?  (thì) Bản báo cáo không cho biết. Tuy nhiên, người ta hoài nghi rằng chữ “trách nhiệm” có nghĩa là sự chấp nhận quyền bá chủ quân sự của Mỹ ở Đông Á. Và với điều này, Bắc Kinh chắc chắn hầu như là không đồng ý.

Việc xây dựng lực lượng quân đội của Trung Quốc từ đó đến giờ là quan trọng song vẫn còn ở mức độ có tính toán. “Quân Giải phóng Nhân dân (QGPND) đang theo đuổi một sự chuyển đổi toàn diện từ một đội quân khổng lồ đã được xây dựng dành cho các cuộc chiến tranh tiêu hao sinh lực kéo dài trên lãnh thổ của họ sang một quân đội có khả năng chiến đầu và giành chiến thắng trong thời gian ngắn hạn, những xung đột ở cường độ cao chống lại các kẻ thù có công nghệ cao,” theo như giải thích của Ngũ Giác Đài.

Cuộc chuyển đổi của quân đội Trung Quốc “được nạp thêm năng lượng bằng việc thu đoạt được các vũ khí tối tân của nước ngoài, bằng tiếp tục đầu tư cao độ vào nền công nghiệp quốc phòng và khoa học công nghệ, và những cải cách sâu về tổ chức và học thuyết quân sự của lực lượng lục quân.” Cuối cùng, là các lực lượng vũ trang của Trung Quốc tiếp tục phát triển và chọn lựa những công nghệ quân sự có tính chất tàn phá, bao   gồm những vũ khí như tàu ngầm, các hỏa tiễn bay thấp để tránh ra đa, hỏa tiển có gắn đầu đạn hạt nhân hay các đầu đạn có ngòi nổ như trong chiến tranh qui ước, và các hỏa tiễn có gắn  bộ phận hướng dẫn chính xác *, cũng như vũ khí hạt nhân, trên vũ trụ, và chiến tranh trên mạng toàn cầu, là những thứ  đang thay đổi các cán cân quân sự khu vực trong miền (Á châu) và tất cả những sự kiện quân sự ấy đang có những hàm ý  vượt quá khu vực châu Á-Thái Bình Dương **.

Tuy nhiên, sự bành trướng có kế hoạch này chỉ đe doạ chút ít tới an ninh của Hoa Kỳ. Chỉ có lực lượng hạt nhân của Trung Quốc ngày nay là có thể tấn công nước Mỹ về mặt lý thuyết.

Bắc Kinh hiện sở hữu vào khoảng 40 hỏa tiễn xuyên lục địa, một số có tầm bắn hạn chế, và từ 15 tới 20 tàu ngầm có khả năng phóng được các hỏa tiễn. Trung Quốc đang cải thiện các tiềm năng chiến lược, “hiện đại hóa lực lượng tên lửa có tầm bắn xa hơn bằng việc bổ sung thêm những hệ thống duy trì hoạt động,” Ngũ Giác Đài cho biết, song trên thực tế, kết quả sẽ là một lực lượng phòng thủ, chứ không phải để tấn công.

Ngược lại, kho chứa vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ bao gồm hàng ngàn đầu đạn tinh vi được gắn trên hàng trăm tên lửa. Có một “khoảng cách về tên lửa” nguy hiểm (giữa Hoa kỳ và Trung Quốc), nhưng nó lại theo chiều hướng thuận lợi hoàn toàn cho Washington, và Bắc Kinh sẽ phải mất nhiều năm để xây dựng một lực lượng quân sự ở mức khiêm nhường có khả năng đơn giản ngăn ngừa nước Mỹ.

Dĩ nhiên, Trung Quốc có khuynh hướng hoạt động vượt quá vùng bờ biển của riêng họ. Trung Quốc đang “phát triển những vũ khí có tầm bắn xa hơn để có các khả năng vượt quá lãnh thổ Đài Loan,” những thứ vũ khí ấy, Ngũ Giác Đài cảnh báo rằng, “có thể cho phép Trung Quốc hướng sức mạnh của mình nhằm đảm bảo quyền sử dụng các nguồn tài nguyên hoặc yêu sách chủ quyền trên những vùng lãnh thổ đang tranh chấp, (TS & HS)”. Bắc Kinh “đang có được một số lượng lớn các tên lửa tầm thấp với độ chính xác cao.”

Ngoài ra, các hệ thống ra đa gắn trên phi cơ đang bay ở cao có khả năng phát hiện và phân biệt được phi cơ của địch và bạn cách xa 350-500 km và hệ thống tiếp nhiên liệu trên không sẽ cho phép các hoạt động trên không (của phản lực cơ) được nới rộng tới vùng Biển Đông và xa hơn nữa,” trong khi “các khu trục hạm và tàu ngầm tiên tiến phản ánh tham vọng của Bắc Kinh muốn bảo vệ và phát triển các quyền lợi trên biển của họ tới Trường Sa, và vượt quá quần đảo Trường Sa.”

“Các đơn vị tên lửa mới của Trung Quốc được trang bị những loại tên lửa có tầm bắn quy ước” vượt quá cả lãnh thổ Đài Loan. Bắc Kinh cũng đang phát triển những khả năng tham gia vào cuộc chiến tranh không qui ước, bao gồm công nghệ chống vệ tinh và tiềm năng tác chiến trên mạng internet toàn cầu.

Những bước đi này nghe qua thì đầy hăm dọa, song Trung Quốc vẫn còn một chặng đường dài để đi trong việc tạo ra một lực lượng quân sự có khả năng cao. Theo những ghi nhận từ Bộ Quốc Phòng Mỹ, quân đội Trung Quốc “tiếp tục phải đối mặt với những khiếm khuyết thiếu hụt trong khâu phối hợp tác chiến giữa các lực lượng (hải, lục, không quân, và tiếp liệu) và kinh nghiệm thực tế trong các cuộc diễn tập chung và những cuộc hành quân chiến đấu,” và họ phải tiếp tục thay thế “những phi cơ và tàu chiến đã lỗi thời,” điều chỉnh “học thuyết hành quân để đạt được và hiểu biết các năng lực  mới của họ,” và biến đổi cho thích ứng “trang thiết bị hậu cần và công tác huấn luyện.”

Bắc Kinh chưa có khả năng “đánh thắng một đối thủ ở mức độ trung bình.” Thêm vào đó, “Trung Quốc có thể sẽ không đặt kế hoạch và hỗ trợ những đơn vị quân đội nhỏ đóng quá xa lãnh thổ Trung Quốc trước 2015, và sẽ không thể đặt kế hoạch và hỗ trợ những lực lượng lớn trong các cuộc hành quân chiến đấu xa khỏi Trung Quốc cho mãi tới khi bước vào thập niên tiếp theo.” (ý nói từ năm 2020-2030).

Trong bất cứ trường hợp nào, các khả năng như thế sẽ dường như phù hợp với quyền lợi kinh tế và địa-chính trị của một quốc gia bị bao bọc bởi các nước đã từng đánh nhau trong quá khứ.

Thậm chí nếu có ai đang nghi ngờ rằng các hoạt động quân sự của Bắc Kinh là “phòng vệ một cách thuần túy,” như Bắc Kinh đang nhấn mạnh, các hoạt động quân sự ấy đặt ra chút ít nguy hiểm trực tiếp đối với nước Mỹ*.

Sau cùng, Trung Quốc có đạt được thành công tối thiểu về qui ước chiến lược. Mặc cho những lời phát biểu về chuyện quan tâm từ các viên chức Trung Quốc khác nhau trong việc thủ đắc một hàng không mẫu hạm, từ đó đến nay Bắc Kinh đã và đang có làm chút ít để gia tăng khả năng nầy.Trái lại, Hoa Kỳ đang sở hữu 7 nhóm hàng không mẫu hạm.

Trung Quốc cũng thiếu một khả năng không quân chiến lược quan trọng.  Sẽ không có các lực lượng tấn công người Trung Quốc đang hướng tới các vùng đất đai sở hữu ở Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, như Hawaii chẳng hạn, trong đời sống hiện nay của chúng ta (ý nói 30-40 năm nữa, Trung Quốc cũng chưa đủ khả năng tấn công Hawaii).

Các quốc gia Đông Á (Việt Nam, Lào, Kampuchea, Đại Hàn, Nhật, Malaisia,…) có thể ở vào tình trạng nguy hiểm lớn hơn, vì Trung Quốc chắc chắc đang muốn hỗ trợ lời nói của họ bằng sự hiện diện, (nếu như không muốn nói sử dụng khi cần thiết), của lực lượng quân sự trong việc giải quyết những vụ tranh chấp đất đai ở trong vùng này.

Nhưng bảo vệ các con cọp Đông Á – các quốc gia nầy (Đài Loan, Nam Hàn, Nhật) phần lớn đều có khả năng tự bảo vệ họ  –  không phải là giống như việc bảo vệ nước Mỹ.

Thêm vào đó, từ đó đến nay chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã và đang có tính thực dụng (làm theo quyền lợi) và có tính chất giới hạn. Mục tiêu hiển nhiên nhất của Trung Quốc là gia tăng một quân đội có khả năng củng cố ước muốn của họ lên Đài Loan*, vùng đất đang bị cách ly khỏi lục địa Trung Quốc trong 60 năm qua.

Tuy nhiên, các căng thẳng ở eo biển Đài Loan đang giảm dần nhờ những thay đổi chính trị ở thủ đô Đài Bắc, mặc dầu sự hăm dọa về hoạt động quân sự chưa biến mất.

Thêm vào đó Bộ Quốc Phòng Mỹ đang thừa nhận rằng “một nỗ lực xâm lăng Đài Loan sẽ làm tổn thương các lực lượng bộ binh vũ trang chưa được thử sức của Trung Quốc và mời mọc sự can thiệp của quốc tế.” Đài Bắc cũng có thể làm rất nhiều hơn nữa để tự bảo vệ chính họ. “Các cuộc đầu tư của Đài Loan để làm vững chắc thêm hạ tầng cơ sở, làm gia tăng sức mạnh các khả năng phòng vệ cũng có thể làm giảm khả năng của Bắc Kinh để đạt được các mục đích của họ.”

Bi kịch thay, về mặt nguyên lý, Trung Quốc dường như nhái lại giống hệt thái độ của Mỹ. David Isenberg báo cáo rằng tại một cuộc họp báo của Bộ Quốc Phòng, nhân viên Ngũ Giác Đài đã cắt nghĩa rằng các ưu tiên của Trung Quốc là “ để bảo vệ và duy trì vai trò của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tiếp tục phát triển kinh tế, bảo đảm sự ổn định trong nước, bảo vệ chủ quyền đất đai của quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ và có được vị thế siêu cường”

Chỉ có điều thứ nhất (bảo vệ và duy trì vai trò cầm quyền của đảng) là khác với các mục đích của Hoa Kỳ trong bối cảnh, và trong khi Washington thích chọn lựa ngoại giao (đàm phán) để cải thiện xa hơn các quyền lợi theo nhận thức của họ, dẫu vấn đề ấy là đất đai hay địa chính trị, Mỹ chưa sẵn sàng sử dụng lực lượng quân đội để tăng cường cho các đòi hỏi hay sự khẳng định của họ.

Chính quyền Mỹ có thể bảo đảm niềm tin lớn hơn Bắc Kinh, nhưng Mỹ không thể nhấn mạnh rằng Mỹ luôn luôn đúng, còn Trung Quốc luôn luôn sai, và bởi vậy chỉ có Mỹ là xứng đáng tự vũ trang cho chính họ.

Thực tế, Bắc Kinh có thể bàn cãi rằng việc xây dựng quân đội của họ làm giảm bớt nguy cơ xảy ra chiến tranh với Mỹ. Mục đích quan trọng nhất của Trung Quốc (tương tự với Washington) không phải là tấn công nước Mỹ, mà  là ngăn chận Mỹ không tấn công Trung Quốc.

Ngũ Giác Đài đang thừa nhận tương tự như thế mà không nói một cách rõ ràng và đầy đủ rằng Bắc Kinh hiện đang tập trung vào chuyện ngăn ngừa Mỹ (bằng cách):

Kể từ năm 2000, Trung Quốc đã và đang mở rộng các kho vũ khí như tàu ngầm, các phi đạn có tầm thấp để tránh ra đa, các phi đạn có gắn đầu đạn hạt nhân hay các đầu đạn thường, và các hỏa tiễn có gắn  bộ phận hướng dẫn đi đến mục tiêu một cách chính xác. Trung Quốc đang biểu lộ và đặt kế hoạch được tin tưởng là ngày càng gia tăng. Họ phân chia thành lớp lang các lực lượng tấn công dọc theo biên giới của họ và triển khai vào trong miền Tây Thái Bình Dương.

Trung Quốc có, hay đang thủ đắc phương tiện:

1./ Có khả năng gây nguy hiểm cho những tàu có bề mặt rộng, bao gồm các tàu sân bay, (các khả năng gây nguy hiểm là: các tàu ngầm có trang bị các hỏa tiển bay rất nhanh, bay rất thấp để chống tàu sân bay và các chiến hạm), các thủy lôi được hướng dẫn bằng các bộ cảm ứng phát hiện các dòng nước xoáy là dấu vết của sóng để lại sau lưng các con tàu lớn đang di chuyển, và thủy lôi ấy có thể lượn qua lượn lại như con rắn chạy vào đỉnh của cái hính nón nằm sau tàu, hay các tên lửa mang đầu đạn chống lại các tàu chiến;

2./ Trung Quốc chối là không sử dụng các sân bay đặt căn cứ gần biển, các cứ điểm an toàn và các trung tâm tiếp liệu quân dụng trong miền (bằng cách đặt ở trong các căn cứ nầy các hỏa tiễn có đầu đạn qui ước có tầm bay xa và chính xác, và các hỏa tiễn có đầu đạn được hướng dẫn để tấn công vào đất liền); và

3./  Có khả năng gây nguy hiểm cho các máy bay đang bay trên bầu trời hay gần lãnh thổ của Trung Quốc hay các lực lượng khác (bằng các phi cơ phản lực thế hệ thứ 4 chế tạo trong nước hay nhập khẩu của nước ngoài, các hệ thống phòng không dùng tên lửa tầm xa từ mặt đất tấn công bắn lên không, các hệ thống theo dõi giám sát các máy bay, các đơn vị phòng không từ các tàu chiến). Các tiến bộ trong lãnh vực khảo sát, định vị, hướng dẫn, và đo thời gian, cũng như hệ thống nhắm các mục tiêu trên đất liền, đang dần dần đuổi kịp để tạo ra khả năng tấn công chính xác.

Nước nào đã gởi những “tàu chiến có bề mặt rộng” sử dụng “các sân bay gần bờ biển, các cứ điểm an toàn, và các trung tâm tiếp liệu trong miền,” và triển khai các phản lực cơ chống lại Trung Quốc? Không cần phải hỏi (cũng biết là chỉ có Mỹ mới làm thế- người dịch TH)

Kết quả của thế kỷ 21 lệ thuộc rất nhiều vào bản chất của mối quan hệ giữa các siêu cường hiện nay của toàn cầu, là Mỹ, và siêu cường sắp tới đây chắc chắn là Trung Quốc.

Sự phát triển của Mỹ đã biến đổi trật tự thế giới mà không gây ra mối xung đột trên thế giới. Trong lúc sự nổi lên của Đức đã châm ngòi hai trận hỏa hoạn hủy hoại địa cầu. Có phải Mỹ sẽ giúp đỡ một cách thành công cho sự gia tăng ảnh hưởng  của Trung Quốc hay không?

Washington có các quyền lợi quan trọng để bảo vệ, nhưng không phải tất cả các quyền lợi của Mỹ là có tính chất sống còn. Bảo vệ lãnh thổ Mỹ, các quyền tự do, và dân chúng ở quốc nội mới là quan trọng; bảo đảm ảnh hưởng thống trị của Mỹ cách xa nửa vòng thế giới không phải là có tính chất sống còn. Và thực hiện việc bảo đảm ảnh hưởng thống trị của Mỹ cách xa nửa vòng thế giới tại cái giá chấp nhận được sẽ làm sự phát triển (bên trong nước Mỹ gặp) nhiều khó khăn hơn nữa.*

Bằng cách chi tiêu chỉ bằng một phần ngân sách quốc phòng của Mỹ, Bắc Kinh đang xây dựng một quân đội có thể ngăn chận sự can thiệp của Mỹ chống lại Trung Quốc. Để vượt qua lực lượng nầy, Washington phải chi tiêu nhiều tiền hơn nữa, mà tiền nhiều hơn thì Mỹ lại không có.

Đây là một điều cần hỏi dân chúng Mỹ hy sinh để bảo vệ quốc gia của chính họ. Có một điều khác đặt ra những đòi hỏi cao hơn về tài chánh để bảo vệ các nước đồng minh thịnh vượng và đông dân. Đặc biệt, kể từ khi  nước Trung Quốc ngày một trở nên giàu có, và Trung Quốc đang bắt đầu thách thức tình trạng lãnh đạo kinh tế của Mỹ. (Vì vậy) Trung Quốc không chắc là rút lui một cách đầy biết ơn và chấp nhận sự lãnh đạo tiếp tục của Hoa Kỳ.

Với Trung Quốc đang ở trong tình trạng tiến bộ, Bộ Quốc Phòng Mỹ quan sát rằng “Mỹ tiếp tục làm việc với các đồng minh và các bạn bè trong miền Đông Á để theo dõi những sự tiến triển nầy và điều chỉnh lại các chính sách của chúng ta một cách thích hợp .”

Nhưng sự điều chỉnh chính sách phải nên giảm bớt các tham vọng quốc tế của Mỹ thay vì gia tăng việc chi tiêu quân sự của Mỹ. Washington phải nên thay thế sự thống trị bằng sự phòng vệ như là một phần trọng tâm của chính sách đối ngoại của họ.

[Doug Bandow là một thành viên lão thành tại Học Viện Cato. Một cựu phụ tá đặc biệt của Tổng thống Reagan, ông ta là tác giả cuốn sách: Những Hành động Sai lầm ở Nước ngoài: Đế chế Toàn cầu Mới của Mỹ (Nhà xuất bản Xulon)]

Người dịch: Trần Hoàng

[1] Doug Bandow là một thành viên lão thành tại Học Viện Cato. Một cựu phụ tá đặc biệt của Tổng thống Reagan, ông ta là tác giả  cuốn sách: Những Hành động Sai lầm ở Nước ngoài: Đế chế Toàn cầu Mới của Mỹ

Lời bình:

* Mặc dầu  Doug Bandow  đã từng là một cựu phụ tá đặc biệt của TT Reagan, là TT thuộc đảng cộng hòa, rất cao bồi và diều hâu, nhưng Doug Bandow không có khuynh hướng mạnh mẻ của đảng Cộng Hòa. Ông muốn nói với chính phủ Obama rằng:

1./  Nếu TQ đe dọa bất cứ nước nào ở Đông Á, thì Mỹ đừng nên xía vào, mặc kệ nó.  Và ông nói rõ thêm:

2./ Bảo vệ lãnh thổ Mỹ, các quyền tự do, và dân chúng ở quốc nội mới là quan trọng; bảo đảm ảnh hưởng thống trị của Mỹ cách xa nữa vòng thế giới không phải là có tính chất sống còn. Và thực hiện việc bảo đảm ảnh hưởng thống trị của Mỹ cách xa nữa vòng thế giới tại cái giá chấp nhận được sẽ làm sự phát triển (trong nước Mỹ gặp) nhiều khó khăn hơn nữa.

3./ Nên giảm bớt các tham vọng quốc tế của Mỹ thay vì gia tăng việc chi tiêu quân sự của Mỹ vì (Bằng cách chi tiêu chỉ một phần của ngân sách quốc phòng của Mỹ) Bắc Kinh đang xây dựng một quân đội có thể ngăn chận sự can thiệp của Mỹ chống lại Trung Quốc. Để vượt qua lực lượng nầy, Washington phải chi tiêu nhiều tiền hơn nữa, mà tiền nhiều hơn thì Mỹ lại không có.

4./ Trong toàn bài báo nầy, người ta thấy tác giả cho rằng khuynh hướng mở rộng quân sự của TQ là cẩn thận, ôn hòa và hợp lý.  Ông cho rằng việc mở rộng quân sự của TQ là chính đáng, không có tính hăm dọa Mỹ. Như vậy, tác giả có quan điểm ngồi chờ TQ đến tận nước Mỹ gây hấn rồi hãy tính. Đây cũng là một dẫn chứng cho thấy  quan điểm của tác giả không phải là quan điểm của một nhà quân sự và lãnh đạo của một nước lớn: “Muốn hòa bình, phải chuẩn bị chiến tranh”.

Tác giả lại càng không phải là một nhà kinh tế. Vì từ xưa tới nay, kinh tế và chính trị luôn đi kèm với nhau.  Nước lớn và giàu mạnh bao giờ cũng có quân đội hùng mạnh để bảo vệ hàng hóa, lãnh thổ, người dân, sĩ diện quốc gia và quyền lợi của họ ở quốc ngoại. Không cần phải trích dẫn, đọc lại lịch sử ai ai cũng có thể nhận ra điều ấy.

Ngân sách quốc phòng của Mỹ năm 2009 là 515 tỉ đô la, gia tăng 74% so với năm 2001. Bộ Quốc Phòng chi ra 20 tỉ đô năm 2009 để gia tăng thêm số lượng quân đội hiện dịch [1]

Trong bài diễn văn của Obama ngày 27-2-2009, ông cũng nói rõ là sẽ gia tăng số lượng quân đội để làm nhẹ bớt đi gánh nặng của các quân nhân đang tại ngũ.

Rút lui khỏi Iraq 130.000 quân, nhưng gia tăng số lượng quân nhân tại ngũ thì hẳn có nghĩa là số quân đội ấy sẽ được huấn luyện, chuẩn bị và chờ đợi để triển khai quân đội qua một chỗ khác khi cần.

Tóm lại, quan điểm của tác giả không thích hợp với địa vị siêu cường quốc số một của Mỹ.

[1] http://www.whitehouse.gov/omb/budget/fy2009/defense.html

——————————

Lược dịch từ báo Bloomberg online :

Sự nổi dậy của Trung Quốc là một mối lo của giới chức quốc phòng và Hải Quân của Mỹ. Hai bài báo trong tháng 3-2009 của hãng tin và truyền hình Bloomberg (và tờ Washington Post) cho thấy điều lo lắng bất an đó.

Những nhân viên thử vũ khí của Ngũ Giác Đài đã nhắc nhở Hải Quân Mỹ phải đưa ra kế hoạch làm thế nào ngăn chận các hỏa tiển bay rất thấp nhằm tránh sự phát hiện của ra đa, hỏa tiển này có khả năng thay đổi hướng bay, và bay với tốc độ siêu thanh, hơn 1200 km/ giờ, gọi là Sizzler của Nga.

Hỏa tiển Sizzler có khả năng đánh chìm các tàu sân bay và các chiến hạm. Hơn 6 năm qua, Hải Quân Mỹ vẫn chưa tìm ra cách nào để ngăn chận các hỏa tiển Sizzler.

Theo một tài liệu của văn phòng ngân sách của bộ quốc phòng Hoa Kỳ, thứ trưởng Bộ quốc phòng Gordon England đã ra thời hạn cho Hải Quân Mỹ vào trước ngày 29-4-2009, phải cắt nghĩa cho ông ta biết làm cách nào Hải Quân Mỹ có thể (chế tạo một vũ khí có thể) tấn công ngăn chận các loại hỏa tiển Sizzler (nếu hỏa tiễn nầy nhắm bắn các tàu sân bay của  Mỹ). TQ mua hỏa tiển Sizzler của Nga và 8 tàu ngầm trang bị các hỏa tiển nầy vào năm 2002.

Đô đốc Michael Mullen, trưởng phòng hành quân của Hải Quân Hoa Kỳ phát biểu vào ngày hôm nay rằng.

“Thứ trưởng Quốc Phòng England đã yêu cầu chúng tôi đến gặp ông ta trước cuối tháng 4 nầy cùng với kế hoạch (chống lại hỏa tiển Sizzler) của chúng tôi,”

Mullen đã trả lời trong một cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Bloomberg. “Có thể không phải là một câu trả lời đơn độc. Chắc có lẻ đó là một câu trả lời liên hệ tới nhiều mặt. Hỏa tiển Sizzler bay rất nhanh và nó thay đổi được hướng bay với nhiều đặc tính rất đáng quan ngại. Chuyện ấy đang đặt chúng ta vào trong một tình huống rằng chúng ta cần phải đánh giá nó một cách nhanh chóng và cụ thể”

Charles McQueary, giám đốc văn phòng thử nghiệm vũ khí, đánh giá rằng các mối hăm dọa ấy  nghiêm trọng quá đến nổi ông đã cảnh báo  trưởng ban mua vũ khí của Bộ Quốc Phòng Mỹ rằng ông đã có hành động chận đứng lại việc đóng tàu sân bay và các khu trục hạm trị giá vài chục tỉ đô la, và chận đứng các chương trình chế tạo tên lửa khác cho đến chừng nào mà vấn đề chống lại các phi đạn Sizzler của Nga được giải quyết xong.

Orville Hanson, một sĩ quan đánh giá các loại vũ khí trong 38 năm qua, nói “Đấy là một loại vũ khí hủy diệt tàu sân bay. Đó là mục đích duy nhất của hỏa tiển sizzler ấy”

Ông nói thêm “Sau khi hủy diệt xong tàu sân bay, TQ có thể bước vào Đài Loan”.

Theo phát ngôn viên của Văn phòng Tình Báo của Hải Quân, Robert Althage, thì Trung Quốc đã mua được các hỏa tiển tầm thấp, bay với tốc độ siêu thanh nầy của Nga vào năm 2002, TQ mua cùng với 8 tàu ngầm chạy bằng dầu diesel được chế tạo đặc biệt để trang bị và bắn ra các tên lửa nầy,

Charles McQueary, giám đốc văn phòng thử nghiệm vũ khí, viết trong một thông báo rằng trừ phi sự hăm dọa của hỏa tiển Sizzler được (hải quân Mỹ đưa ra các kế hoạch để) giải quyết, văn phòng thử nghiệm vũ khí của ông sẽ không chấp thuận các kế hoạch thử nghiệm cần thiết dành cho việc sản xuất được bắt đầu trên nhiều dự án khác, bao gồm dự án đóng một tàu sân bay CVN mang được 21 chiến đấu cơ trị giá 35,8 tỉ đô la của hãng North Grumman Corp; dự án chế tạo các khu trục hạm DDG-1000 mang được các đầu đạn hướng dẫn bằng hệ thống computer, trị giá 36,5 tỉ đô la, của hãng Northrop và hãng General Dynamics Corporation; và hai dự án của hãng Raytheon Corporation, chế tạo hệ thống tự bảo vệ tàu, giá 1,1 tỉ đô la, và chương trình chế tạo hỏa tiền SM-6 trị giá 6 tỉ đô la.

“Hỏa tiển Sizzler là loại hỏa tiển bay rất nhanh, và bay rất thấp. Nó sẽ không được nhìn thấy cho mãi tới khi hỏa tiền nầy đến khá gần. Vào lúc mà quí vị phát hiện ra nó và cho tới lúc mà nó chạm vào quí vị là một khoảng thời gian rất ngắn. Quí vị muốn biết khả năng của quí vị để đương đầu với hỏa tiển Sizzler” Cựu đô đốc Eric Mc Vadon phát biểu.

Hệ thống hỏa tiển Aegis của Hải Quân Mỹ trang bị trên các tuần dương hạm và khu trục hậm bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 1980, đang được chế tạo để bảo vệ các nhóm tàu sân bay khỏi sự tấn công của tên lửa. Nhưng, các cựu sĩ quan và các sĩ quan hải quân hiện nay nói rằng Hải Quân không đảm bảo Aegis, được chế tạo bởi Lockheed Martin Corporation, có khả năng phát hiện, theo dõi và đối đầu ngăn chặn hỏa tiển Sizzler.

“Đây là một đề tài vào lúc tôi mới vào làm việc thử nghiệm vũ khí vào năm 2001,”  Thomas Christie nói, ông ta là nhân viên thử nghiệm vũ khí hàng đầu của Bộ Quốc Phòng từ giữa năm 2001 đến đầu năm 2005, đã trả lời trong một cuộc phỏng vấn.

“Hải Quân Mỹ đã nhận ra rằng đây là một đề tài chính và qua nhiều năm, họ đã từng tiếp tục hứa hẹn rằng  họ sẽ cung cấp tiền bạc đầy đủ để chế tạo và sản suất” những hỏa tiển có thể có khả năng  như Sizzler, để giúp hình thành sự phòng vệ chống lại Sizzler. Nhưng cho đến nay, Hải Quân Mỹ vẫn không chế tạo được thứ hỏa tiển có chức năng tương tự như Sizzler.”  Christie nói.

Hậu quả là: trong một cuộc xung đột, “Hoa Kỳ sẽ gởi một tàu sân bay chất đầy đủ các dụng cụ và thủy thủy đoàn đi vào trong một tình thế nguy hiểm mà không có niềm tin rằng họ có khả năng chiến thắng những gì đang là một niềm hăm dọa rất gần ở chân trời (hỏa tiển Sizzler).”  Christie cho biết.

——————————————–

Trên tờ Washington Post, tháng 3-2009, viết:

“Trung quốc dàn 400.000 bộ đội TQ và 1100 hỏa tiển ở bờ biển đối diện với Đài Loan…”,  nhưng thật ra đây là chiến lược dương đông kích tây trong hơn 20 năm  qua của TQ. Chiến lược nầy giúp TQ nhiều mối lợi.

Thứ nhất, TQ làm cho chính phủ Đài Loan phải mua vũ khí của Mỹ để phòng vệ. Đây là một cách làm cho chính phủ suy yếu vì bị các phe đối lập thân TQ, hoặc có đường lối ôn hòa ở Đài Loan chỉ trích. Vì nhóm ôn hòa muốn dùng tiền để cải thiện các điều kiện xã hội cho tốt hơn thay vì mua vũ khí. Lợi thứ nhì của TQ là viện cớ Đài Loan mua vũ khí, thì TQ cũng sẽ mua vũ khí của Nga để hiện đại hóa hải quân và lục quân; TQ cũng có cớ gia tăng ngân sách quốc phòng mà các nước phương Tây và láng giềng nếu có quan ngại thì TQ có cớ để trưng ra.

Các doanh gia Đài Loan đầu tư hơn 100 tỉ đô la vào TQ kể từ 1983. TQ ngoài miệng nói như vậy, nhưng trong vài chục năm tới, TQ cũng chẳng xâm lăng Đài Loan cho mất lợi về kinh tế, vì Đài Loan là một nguồn nhân lực quản lý, các ông chủ điều hành các hãng xưởng và giúp TQ giải quyết công an việc làm cho người TQ và đem lại sự ổn định.

Một trong những mục đích chính của sự hiện đại hóa quốc phòng của TQ là để thọc sâu về phương Nam, xuống vùng  Biển Đông để tranh đoạt Trường Sa, Hoàng Sa và để chiếm nguồn tài nguyên dầu- khí ở biển ở cùng biển nầy.

Việc thiết lập các căn cứ trên các quần đảo có mục đích phòng thủ ở phương nam và làm an ninh hải lộ chở hàng hóa xuất khẩu của TQ. Đây cũng là hải lộ chính chở hàng nhập khẩu và các nguồn nhiên liệu và nguyên liệu thô từ khắp nơi về để cung ứng cho nền kinh tế Trung Quốc.

Trung Quốc sẽ trở nên an ninh hơn nếu tạo ra một vùng đệm an toàn nằm quanh TQ. Bắc Triều Tiên, Miến Điện, Tây Tặng là những nước dùng làm vùng đệm an toàn cho TQ. Có thêm Việt, Miên, Lào nữa thì phía  Nam của TQ coi như an toàn hơn. Và các thủy lộ ở Biển Đông hoàn toàn an ninh.

Năm 2007, TQ đã đầu tư 500 triệu đô la vào hải cảng Sihanouk ở phía Nam của  Kampuchia. Việc phát triển hệ thống đường cao tốc và đường xe lửa từ cực nam Kampuchea (ngang với tỉnh Rạch Giá (Cà Mau) xuất phát từ hải cảng nầy, chạy thẳng lên hướng bắc, đi qua Lào, và chạy thẳng lên các tỉnh phía Nam Trung Quốc là cũng nằm trong mục đích vừa quốc phòng vừa giải quyết kinh tế cho các tỉnh phía Nam (không nằm dọc theo bờ biển) và phía Tây của TQ đang còn rất nghèo.

TQ xâm nhập và di cư dân TQ vào  3 nước Đông Dương bằng kinh tế và tài chánh. TQ cấp viện trợ kinh tế cho 2 nước Miên và Lào rất hậu hỉnh. Kể từ 1993, TQ đã xây dựng đường sá, nhà máy điện, cầu,… và cho chính phủ Kampuchea và Lào vay với lãi suất thấp để các viên chức trong chính phủ lập công ty hãng xưởng làm ăn riêng hoặc chung với các công ty của TQ.

Ngoài ra, TQ trả toàn bộ ngân sách lương bổng cho Lào và Kampuchea, mỗi nước được nhận mỗi năm từ 500 triệu-1 tỉ đô la kể từ 2007, so với vài trăm triệu đô la hàng năm trong nhiều năm trước đó. Nhờ các món tiền lót tay ấy, chính phủ Lào và Kampuchea đã hoàn toàn im lặng để TQ di dân hơn 800.000 người vào  Kampuchia và Lào từ 1993- nay.

Các nhân vật cao cấp nhất của Kampuchea và Lào đều nằm trong tay của Trung Quốc. Báo chí phương Tây chụp hình căn nhà của TT Hunsen và tự hỏi: làm sao một thủ tướng lương có 400 đô, mà có thể xây một cung điện trên đồi, trị giá nhiều triệu đô la; sàn nhà và quầy rượu lót bằng đá granite của Ý; đặc biệt, trên sân thượng của biệt thự nầy có chỗ dùng cho trực thăng đậu. Nơi làm việc của Hun Sen là một chỗ tòa nhà khác.  Ở Lào, Phó thủ tướng là người gốc Trung Quốc. Các hợp đồng xây dựng lớn của Lào đều do ông phó Thủ Tường nầy vay mượn từ ngân hàng của Trung Quốc. (xem bài về Lào đã post tuần trước).

Ở Việt Nam, trong 2 tháng qua, báo chí VN đều đồng loạt đăng tin là các công ty Trung Quốc năm nay đã  giành được tất cả hợp đồng thầu làm các công ty hóa chất, cầu đường, xây dựng, (các hãng may xuất khẩu thì đã thuộc về TQ từ lâu rồi.)

Các hãng TQ hiện nay đã và đang có mặt trên khắp cả ba miền ở VN. Ở Tây nguyên, Trung quốc hiện đang khai thác bô xít (Alumin) của Trung Quốc từ 2007 cho đến nay tại Đắc Nông và Bảo Lộc.

Ở Miền Tây,  các hãng Trung Quốc cũng đã có mặt ở Tiền Giang và Cà Mau vào năm 2009. Việc chính quyền địa phương tịch thu đất đai của dân miền Tây và trao lại cho các công ty TQ xây hãng xưởng đã làm dân chúng đi khiếu kiện về việc bị mất đất và không bồi hoàn tiền bạc thỏa đáng.

——————————————————–

National Interest Online

Red Scare

by Doug Bandow

04.15.2009

U.S. military spending continues to increase even though conventional threats against America are de minimis. Advocates of a bigger military point to supposed adversaries old and new, with China the leading contender for Enemy Number One. But if Beijing poses a threat, it is to U.S. domination of East Asia, not America. Only the latter, however, is worth fighting for.

Some policy advocates identify the People’s Republic of China (PRC) as a potential danger, while others view war with Beijing as likely. Common to all is the fear of growing Chinese military outlays. The Pentagon highlighted its concern with the latest annual report on the PRC’s defense budget. Beijing responded by calling the document a “ gross distortion of the facts” and product of “Cold War thinking” which plays “up the fallacy of China’s military threat.”

To its credit, the Department of Defense (DOD) takes a measured tone as it details China’s increased military efforts. Beijing’s armed forces are making real strides —but remain dwarfed by America’s military, which starts at a vastly higher base and spends several times as much. The U.S. report is equivalent to nineteenth century Great Britain, with its globe- spanning empire, publicly complaining about America’s expanding navy. Washington eventually did surpass British power, but only after two global wars simultaneously roused America and exhausted Britannia.

The Pentagon report opens by proclaiming that “the United States welcomes the rise of a stable, peaceful, and prosperous China, and encourages China to participate responsibly in the international system.” However, the Pentagon adds, “much uncertainty surrounds China’s future course, particularly regarding how its expanding military power might be used.”

True enough, but how does Washington define “responsibly”? The report doesn’t say. However, one suspects it means accepting American military hegemony in East Asia. And with this Beijing isn’t likely to agree.

The PRC military build up so far has been significant but measured. “The People’s Liberation Army (PLA) is pursuing comprehensive transformation from a mass army designed for protracted wars of attrition on its territory to one capable of fighting and winning short-duration, high-intensity conflicts against high-tech adversaries,” explains the Pentagon. This transformation is “ fueled by acquisition of advanced foreign weapons, continued high rates of investment in its domestic defense and science and technology industries, and far-reaching organizational and doctrinal reforms of the armed forces.” Finally, China’s armed forces continue to develop and field disruptive military technologies, including those for anti-access/area-denial, as well as for nuclear, space, and cyber warfare, that are changing regional military balances and that have implications beyond the Asia-Pacific region.

Yet this concerted expansion little threatens U.S. security. Only the PRC’s nuclear force is theoretically able to strike America today. Beijing possesses about forty intercontinental ballistic missiles, some of limited range, and fifteen to twenty submarine-launched ballistic missiles. China is improving its strategic capabilities, “modernizing its longer-range ballistic missile force by adding more survivable systems,” observes the Pentagon, but in practice the result will be a defensive, not offensive, force. The U.S. nuclear arsenal, in contrast, includes thousands of sophisticated warheads on hundreds of missiles. There is a dangerous “missile gap,” but it runs entirely in Washington’s favor, and Beijing is going to have to spend years to build a modest force simply capable of deterring America.

Of course, China intends to move beyond its own shores. The PRC is “developing longer range capabilities that have implications beyond Taiwan,” which “could allow China to project power to ensure access to resources or enforce claims to disputed territories,” warns the Pentagon. Beijing “is acquiring large numbers of highly accurate cruise missiles.”

Moreover, the PRC’s “airborne early warning and control (AEW&C) and aerial-refueling programs would permit extended air operations into the South China Sea and beyond,” while “advanced destroyers and submarines reflect Beijing’s desire to protect and advance its maritime interests up to and beyond the second island chain.” China’s “new missile units outfitted with conventional theater-range missiles” reach past Taiwan. Beijing also is developing asymmetric war capabilities, including antisatellite technology and cyberwarfare potential.

These steps sound ominous, but the PRC still has a long way to go in creating a highly capable military. Notes DOD, China’s military “continues to face deficiencies in inter-service co operation and actual experience in joint exercises and combat operations” and must continue replacing “outdated aircraft and maritime vessels,” adjusting “ operational doctrine to encompass new capabilities,” and tailoring “logistics equipment and training.” Beijing is not yet capable of “defeating a moderate-size adversary.” Moreover, “China will not be able to project and sustain small military units far beyond China before 2015, and will not be able to project and sustain large forces in combat operations far from China until well into the following decade.”

In any case, such capabilities would seem consistent with the economic and geopolitical interests of a country bounded by nations that it has battled in the past. Even if one doubts that the PRC’s military activities are “purely defensive,” as Beijing insists, they pose little direct danger for America. After all, the PRC has minimal strategic conventional reach. Despite expressions of interest from various Chinese officials in acquiring an aircraft carrier, so far Beijing has done little to add this capability. In contrast, the United States possesses eleven carrier groups. China also lacks a significant strategic air capability. There will be no Chinese strike force heading towards America’s Pacific possessions, let alone Hawaii, in our lifetime.

East Asian countries may be at greater risk, since the PRC likely wants to back up its words with the presence, if not necessarily the use, of military force in settling territorial disputes in the region. But defending the East Asian Tigers—who are largely capable of protecting themselves—is not the same as defending the United States.

Moreover, so far the PRC’s foreign policy has been pragmatic and restrained. China’s most obvious objective is to create a military capable of enforcing its will on Taiwan, separated from the mainland for most of the last century. However, tensions in the Taiwan Strait are abating thanks to political changes in Taipei, though the threat of military action has not disappeared. Moreover, DOD admits that “an attempt to invade Taiwan would strain China’s untested armed forces and invite international intervention.” Taipei also could do significantly more to protect itself: “Taiwan’s investments to harden infrastructure and strengthen defensive capabilities could also decrease Beijing’s ability to achieve its objectives.”

Ironically, in principle China appears to be mimicking America’s behavior. David Isenberg reports that at the DOD press briefing, the Pentagon official explained that China’s priorities appeared to be “perpetuating the role of the Chinese Communist Party, continuing economic development, ensuring domestic stability, protecting national sovereignty and territorial integrity and obtaining great-power status.” Only the first differs from U.S. objectives in the abstract, and while Washington prefers diplomacy to advance its perceived interests, whether explicitly territorial or more broadly geopolitical, it is ever-ready to use military force to enforce its claims. The U.S. government may warrant greater trust than Beijing, but it cannot insist that America automatically is right and China automatically is wrong and therefore only the former is entitled to arm itself.

In fact, Beijing can argue that its military buildup reduces the likelihood of war with the United States. The PRC’s most important goal vis-à-vis Washington is not attacking America, but preventing America from attacking China. The Pentagon admits as much without explicitly saying that Beijing is focused on deterring Washington:

Since 2000, China has expanded its arsenal of anti-access and area-denial weapons, presenting and projecting increasingly credible, layered offensive combat power across its borders and into the Western Pacific. China has or is acquiring the ability to: 1) hold large surface ships, including aircraft carriers, at risk (via quiet submarines, advanced anti-ship cruise missiles (ASCMs), wire-guided and wake-homing torpedoes, or anti-ship ballistic missiles); 2) deny use of shore-based airfields, secure bastions and regional logistics hubs (via conventional ballistic missiles with greater ranges and accuracy, and land attack cruise missiles); and 3) hold aircraft at risk over or near Chinese territory or forces (via imported and domestic fourth generation aircraft, advanced long-range surface-to-air missile systems, air surveillance systems, and ship-borne air defenses). Advances in China’s space-based reconnaissance and positioning, navigation, and timing, as well as survivable terrestrial over-the-horizon targeting, are closing gaps in the creation of a precision-strike capability.

Who would be sending in “large surface ships” using “shore-based airfields, secure bastions and regional logistics hubs,” and deploying aircraft against the PRC? Don’t ask.

The outcome of the twenty-first century depends much on the nature of the relationship between the globe’s current superpower, the United States, and the globe’s likely next superpower, China. America’s growth transformed the international order without causing world conflict, while Germany’s rise triggered two global conflagrations. Will the United States—and the larger existing order—successfully accommodate the PRC’s growing influence?

Washington has vital interests to protect, but not all of its interests are vital. Defending American territory, liberties and people at home is vital; ensuring dominant American influence half-a-world away is not. And doing the latter at acceptable cost will grow ever more difficult. By spending a fraction of America’s defense budget, Beijing is constructing a military able to deter U.S. intervention against China. To overcome this force, Washington will have to spend far more money which it does not have. It is one thing to ask the American people to sacrifice to defend their own nation. It is quite another to impose ever higher financial exactions to protect populous and prosperous allied states. Especially since an increasingly wealthy China, which is beginning to challenge America’s lead economic status, is unlikely to retreat gracefully and accept perpetual U.S. hegemony.

With China on the move, DOD observes that “The United States continues to work with our allies and friends in the region to monitor these developments and adjust our policies accordingly.”  But the resulting policy adjustment should be reducing America’s international ambitions rather than increasing America’s military spending. Washington should replace dominance with defense as the core of its foreign policy.

Doug Bandow is a senior fellow at the Cato Institute. A former special assistant to President Reagan, he is the author of Foreign Follies: America’s New Global Empire (Xulon Press).

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Chính trị, Khối XHCN sụp đổ | Leave a Comment »

Trung Quốc hứa hẹn sẽ cải thiện nhân quyền và quyền dân sự của người dân trong 2 năm tới

Posted by adminbasam trên 15/04/2009

RFA

Trung Quốc ban bố một kế hoạch cải thiện các quyền dân sự, kinh tế và chính trị cho các công dân nước mình trong vòng hai năm tới

Ngày 13-4-2009

HONG KONG – Nội các của Trung Quốc hôm thứ Hai đã hứa sẽ cải thiện việc bảo vệ nhân quyền cho các công dân của họ, bao gồm thuê mướn những giám thị để giám sát nhà tù và hệ thống giam giữ của nước này, bảo đảm quyền dành cho các nhà báo được viết bài mang tính phê bình, và truyền hình công khai các phiên xử án.

“Trung Quốc vẫn phải đương đầu với nhiều thách thức và có một chặng đường dài phía trước trong những nỗ lực để cải thiện tình trạng nhân quyền của họ,” theo như nguyên văn trong bản kế hoạch “Hành động Nhân quyền” của Bắc Kinh, kế hoạch nầy có mục đích gia tăng việc bảo vệ các quyền dân sự, quyền chính trị và kinh tế trong vòng hai năm tới.

Động thái này xảy ra tiếp theo sau sự oán giận trong công chúng – hầu hết là biểu hiện qua mạng Internet — vào những tháng gần đây về những cái chết tại nơi giam giữ của công an, từ những hoạt động kiểm soát quyền tự do phát biểu ý kiến trên mạng trực tuyến, và tình cảnh tuyệt vọng của “dân khiếu kiện” ở Trung Quốc, những người tìm cách gởi đi những lời khiếu kiện xuyên qua các hệ thống luật pháp để chống lại những việc làm sai trái của các viên chức chính phủ.

Tuần trước, một nhóm các tổ chức đấu tranh cho quyền dân sự đã công bố một bức thư ngỏ phản đối việc áp dụng quyền hạn của công an trái pháp luật và sự vi phạm thô bạo quyền tự do cá nhân của công dân ở Trung Quốc.”

Kêu gọi những cuộc cải cách hệ thống chính trị một đảng độc tài của Trung Quốc, bức thư nầy đề ngày 3 tháng Tư đã được tám nhóm cổ võ cho các quyền dân sự.

Bức thư đã kêu gọi đảng cộng sản TQ không được “chà đạp lên Hiến pháp và luật pháp Trung Quốc theo ý muốn của đảng vin vào danh nghĩa của hài hòa và ổn định xã hội, và đi theo một đường lối mà trong đó đảng cộng sản coi dân chúng, nhân loại và nhân quyền như là những kẻ thù của họ.“

Những vụ giam giữ trái pháp luật

Trong mục nói về các quyền dân sự và chính trị, bản văn kiện cho nhân quyền này đã chỉ ra hệ thống những nhà tù và trung tâm giam giữ của Trung Quốc như là đang cần phải có sự giám sát của công chúng nhiều hơn, họ lập lại lời tuyên bố công khai của Bắc Kinh về việc lấy những lời thú nhận (của những người bị tình nghi) bằng cách tra tấn, việc nầy vẫn còn rất phổ biến theo cáo cáo của những người từng bị giam giữ.

“Những biện pháp có hiệu quả cần phải được đưa ra nhằm ngăn chặn những hành vi đó, như là hành hạ, lạm dụng thân thể, xỉ nhục người bị giam, hay lấy lời khai nhận tội bằng cách tra khảo,” nội dung bản kế hoạch nhân quyền, được cơ quan thông tấn nhà nước Tân Hoa Xã công bố toàn bộ.

Bản kế hoạch cũng đã trích dẫn lại những đạo luật chống lại hành động giam cầm và đối xử trái pháp luật với những người bị tình nghi tại nơi giam giữ.

“Việc bắt nhốt những người bị tình nghi có tội, việc thay đổi nơi giam giữ, hay tăng thời hạn giam giữ phải được thực hiện phù hợp với luật pháp,” bản kế hoạch cho biết.

Tân Hoa Xã, trong một bài tường thuật kèm theo kế hoạch nhân quyền, đã nhắc tới những cải thiện về hệ thống giam giữ hiện nay với cái chết của một người đàn ông Trung Quốc tại một đồn công an ở tỉnh Vân Nam cách đây hai tháng.

Cái chết của ông ta, Tân Hoa Xã cho biết, “đã khơi dậy tiếng nói mạnh mẽ của công chúng dành cho việc gia tăng sự minh bạch và việc giám sát hệ thống giam giữ trong nước.”

Những người viết đơn thỉnh nguyện ở Trung Quốc thường cho biết họ đã bị tạm giam trong “những trung tâm tiếp nhận” lớn dành cho những ai đã tới Bắc Kinh và các thành phố lớn khác để khiếu kiện về chính quyền địa phương của họ.

Những trung tâm này được cho biết là tạo thành một hệ thống “các nhà tù đen” rất có hiệu quả, mà ở đó những người đi khiếu kiện sau đó sẽ bị các viên chức áp giải trở lại thành phố quê hương họ.

Trong khi bản tài liệu này hứa sẽ “đảm bảo cho các công dân” quyền được chỉ trích nhà nước, đưa ra lời khuyên, than phiền, và kết tội các tổ chức nhà nước và các công chức,” nó còn cho rằng hệ thống khiếu kiện bằng gửi “đơn từ và gặp gỡ” sẽ “được duy trì mà không bị ngăn chặn.”

Nhiều người đi khiếu kiện đã báo cáo là bị giam cầm nhiều năm không chính thức trong bốn bức tường đá tại các văn phòng khiếu kiện của chính quyền, cũng như những hành động quấy nhiễu và đánh đập những người nào tìm cách đưa đơn khiếu nại lên cấp cao hơn.

Bản kế hoạch đã kêu gọi sự ngăn cách (bằng lưới hay tường kính) giữa những người bị tạm giam và các nhân viên thẩm vấn trong các phòng hỏi cung, và chính phủ phải cam kết đẩy mạnh việc thực hiện các cuộc kiểm tra sức khỏe cho các can phạm  trước và sau khi có những cuộc hỏi cung.

Tập trung vào hành động hành hạ ngược đãi tù nhân

Những cái chết không được giải thích rõ ràng trong những nơi giam giữ của công an là một nguyên nhân chủ yếu gây nên những than phiền chống lại chính quyền, với việc những người khiếu kiện cho biết công an thường từ chối chuyển giao xác chết hoặc tiến hành các cuộc khám nghiệm tử thi, giả mạo các hồ sơ y tế, và sự “biến mất” hoàn toàn của các tử thi trong những trường hợp mà có những nghi ngờ của bà con thân nhân gợi lên.

Gia đình của những người bị giam giữ — đặc biệt trong những trường hợp liên quan tới an ninh quốc gia và bất đồng chính kiến — cũng đã than phiền về việc không được phép thăm viếng các tù nhân, về những vụ di chuyển dần dần tới các nhà tù rất xa, và về việc không được thông báo cho biết tin tức trong nhiều tháng trời về nơi những người thân của họ đang bị giam giữ.

Thỉnh thoảng, các nghi can chính trị và những người khiếu kiện có thể “bị biết mất” trong vài tháng dưới một hình thức “giám sát nơi ở” tại một địa điểm không được tiết lộ.

“Những quy định liên quan tới quan hệ thư từ, gặp gỡ mọi người, giải trí, và những cuộc thăm viếng của gia đình sẽ được cải thiện,” bản kế hoạch nêu rõ.

“Nhà nước đang cải tiến hệ thống chăm sóc vệ sinh cho các can phạm cũng như việc điều trị thuốc men cho họ, và cổ võ việc quản lý theo tiêu chuẩn hóa vấn đề chăm sóc đời sống và sức khoẻ của can phạm.”

Bản kế hoạch này cho biết các tù nhân muốn khiếu nại đều có thể được sắp xếp một cuộc gặp gỡ trực tiếp những người lãnh đạo trại giam hoặc nhà giam giữ, và đề nghị việc thuê mướn giám thị trong công chúng để giám sát những tỉnh huống nầy.

Một can phạm cũng có thể được gặp người biện lý thường trực trong một trại giam hoặc nhà giam giữ bẳng cách hẹn trước lấy ngày, “nếu như người này cảm thấy bị hành hạ ngược đãi và muốn khiếu nại.”

Theo dõi hệ thống tư pháp

Bản kế hoạch cũng đã kêu gọi việc sử dụng những cuộc ghi âm và hình ảnh trong các phòng xử án trên khắp cả nước.

“Các tòa án nhân dân với những điều kiện cần thiết sẽ ghi âm hoặc quay phim video các buổi xử án của họ và các hoạt động xử án lớn có liên quan, và thiết lập hệ thống văn thư lưu trữ âm thanh hình ảnh các hoạt động xét xử,” bản kế hoạch nhắc nhở, và bổ sung thêm rằng những người tham dự trong vụ án sẽ được quyền tìm hiểu không giới hạn những tài liệu đó.

Bản kế hoạch đã đưa ra những hỗ trợ mạnh mẽ bộ Luật về Luật sư của Trung Quốc, bộ luật nầy đảm bảo những quyền của luật sư để gặp gỡ, trao đổi, xem xét lại tài liệu của những người bị giam giữ, và tiến hành các cuộc điều tra và thu thập chứng cứ.

“Nhà nước cũng đảm bảo các quyền cá nhân của các luật sư và quyền tranh luận hay quyền bênh vực khi họ thi hành nhiệm vụ của họ,” bản kế hoạch nêu rõ.

Một số luật sư dân quyền nổi tiếng đã bị giam giữ, bị đánh đập, hoặc bị quấy rầy dưới hình thức khác vì họ đã cố gắng tranh đấu và tố cáo những bè nhóm quyền lợi ở địa phương có quyền lực.

Các nhóm đấu tranh cho nhân quyền ở nước ngoài đã phát động một chiến dịch đòi trả tự do cho luật sư dân quyền ở Bắc Kinh Gao Zhisheng, người đã bị tước giấy phép hành nghề sau khi ông phê phán chính phủ về cách xử lý của họ trong việc ngăn cấm hoạt động tinh thần của Pháp Luân Công và ông đã tổ chức một cuộc tuyệt thực để phản đối lối ngược đãi với các luật sư và những nhà tranh đấu cho nhân quyền của các giới chức chính quyền địa phương.

Ông Gao đã và đang mất tích từ ngày 4 tháng Hai và được tin là đã bị bắt cóc bởi chính quyền. Gia đình ông đang tìm cách tị nạn chính trị tại hoa Kỳ.

Và vào giữa năm 2005, luật sư dân quyền Guo Feixiong đã bị công an tỉnh Quảng Đông miền đông nam Trung Quốc đánh đập sau khi ông đại diện cho những người nông dân tìm cách loại bỏ người lãnh đạo đảng ở đây, người mà họ cáo buộc đã tham nhũng trong một vụ chuyển nhượng đất đai rất béo bở.

Ông Guo hiện đang thụ án tù giam năm năm vì “những hoạt động kinh doanh bất hợp pháp.”

Original reporting by RFA’s Mandarin and Cantonese services. Mandarin service director: Jennifer Chou. Cantonese service director: Shiny Li. Written for the Web in English by Luisetta Mudie. Edited by Sarah Jackson-Han.

Hiệu đính: Trần Hoàng

 

 

Nước đàn anh còn 2 năm nữa là được cởi xiềng.Trong khi ấy ở nước của thằng Em “môi răng”:

Báo Du lịch bị đình bản

Bộ Thông tin và Truyền thông vừa quyết định đình bản báo Du lịch trong ba tháng vì ’sai phạm nghiêm trọng’ trong số Tết Kỷ Sửu 2009.

Quyết định ký hôm thứ Ba 14/04 viết “lãnh đạo báo Du lịch đã không chấp hành sự chỉ đạo đối với các thông tin quan trọng, phức tạp và nhạy cảm”.

Số Du lịch Xuân Kỷ Sửu có một số bài đề cập tới chủ đề biên giới lãnh thổ cũng như chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Phó tổng biên tập phụ trách báo Du lịch Nguyễn Trung Dân cho hay sau bốn tháng từ khi số báo Xuân được xuất bản, quyết định được ký, chuyển một cách vội vã và có hiệu lực ngay trong ngày.

Ông Dân nói “sẽ chấp hành quyết định” của Bộ nhưng khẳng định tờ báo không có sai phạm như nêu trong quy định.

Ban biên tập tờ báo bị buộc là đã “vi phạm nghiêm trọng các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 6 và khoản 2 Điều 10 Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí”.

Theo đó, tờ báo bị cáo buộc không ‘thông tin trung thực’, không tuân thủ ‘tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước’ và đã ‘kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước’.

Quyết định của bộ trưởng Thông tin và Truyền thông cũng viết rằng “Lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên [báo Du lịch] đã kiểm điểm nhưng thiếu nghiêm túc, chưa nhận thức đầy đủ tính chất, mức độ nghiêm trọng của khuyết điểm”.

Trong thời gian đình bản ba tháng, bộ này cho hay sẽ có biện pháp củng cố, kiện toàn tổ chức tờ báo và nhân sự lãnh đạo. Ông Nguyễn Trung Dân cho hay ông sẵn sàng chuẩn bị tinh thần ra đi, “chỉ mong tờ báo được tiếp tục hoạt động”.

Báo Du lịch là cơ quan của Tổng cục Du lịch Việt Nam. Báo có phiên bản online, phiên bản in ra một tuần hai số.

Thông tin phức tạp, nhạy cảm

Ấn bản Xuân của báo Du lịch đăng bài viết của một số tác giả được tiếng là ‘nói thẳng’ như nhà văn Nguyên Ngọc và tiến sỹ Nguyễn Quang A.

Trong số này cũng có cả bài của nhà bất đồng chính kiến Bùi Minh Quốc.

Lãnh đạo báo Du lịch đã không chấp hành sự chỉ đạo đối với các thông tin quan trọng, phức tạp và nhạy cảm, vi phạm nghiêm trọng các quy định.

Quyết định của bộ trưởng Thông tin và Truyền thông

Báo Du lịch Xuân dành nhiều diện tích để đề cập tới chủ đề chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong bài viết tựa đề ‘Ải Nam Quan’, báo này cũng trích đăng lại bài thơ Hận Nam Quan trong vở kịch thơ của Hoàng Cầm.

Đặc biệt, số này còn có bài ‘Tản mạn cho đảo xa’ của tác giả Trung Bảo, ca ngợi tinh thần của những người tham gia biểu tình phản đối chính sách của Trung Quốc đối với các quần đảo của Việt Nam cuối 2007 – đầu 2008.

Tác giả này viết: “Nếu có ‘kẻ xấu’ nào đó ‘kích động’ người ta đi biểu tình vì yêu nước, ta nên tôn trọng những ‘kẻ xấu’ này”.

“Ngược lại, khi ‘người tốt’ tìm cách ngăn cản sự biểu lộ đầy phẫn uất một cách chính đáng của người dân vì chứng kiến đất mẹ bị xâm phạm, thì hẳn những kẻ vẫn mạo xưng ‘người tốt’ này cần phải được xem lại.“

Ông cũng cảnh báo: “Lịch sử cũng sẽ không bỏ qua cho chúng ta khi cứ giả như không có, không biết một phần đất nước vẫn đang còn bị xâm lấn.”

Trong một phỏng vấn với BBC, Phó tổng biên tập Nguyễn Trung Dân nói ông không cho rằng báo Du lịch đã ‘xé rào’.

Người Việt Nam nào cũng làm như tôi (khi quyết định cho đăng các bài trên). Động viên lòng yêu nước của người dân thì có gì mà không làm? 

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/04/090415_baodulich.shtml

 

 

RFA

China Vows To Improve Rights

2009-04-13

China launches a national plan to improve the civil, economic, and political rights of its citizens over the next two years.

HONG KONG—China’s cabinet pledged Monday to improve human rights protection for its citizens, including hiring public supervisors to oversee the country’s prison and detention system, guaranteeing the right of journalists to write critical material, and televising trials.

“China still confronts many challenges and has a long road ahead in its efforts to improve its human rights situation,” according to the text of Beijing’s “Human Rights Action” plan, which aims to boost protection for civil, political, and economic rights over the next two years.

The move come s in the wake of public outrage —mostly expressed on the Internet—in recent months at deaths in police custody, controls over online freedom of expression, and the plight of China’s “ petitioners,” who seek to lodge complaints against alleged official wrongdoing through legal channels.

Last week, a group of civil rights organizations issued an open letter protesting the “illegal exercise of police power and the rude violation of Chinese citizens’ personal freedom.”

Calling for reforms of China’s authoritarian one-party political system, the April 3 letter was signed by eight groups promoting civil rights.

It called on the ruling party not to “trample the Chinese Constitution and the law at will in the name of social harmony and stability and get on a path on which they regard people, humanity, and human rights as their enemies.”

Illegal detentions

Under the section on civil and political rights, the human rights document singled out China’s system of prisons and detention centers as being in need of greater public supervision, reiterating Beijing’s declared stance on the extraction of confessions by torture, which is still commonly reported by former detainees.

“Effective measures shall be taken to prohibit such acts as corporal punishment, abuse, insult of detainees, or the extraction of confessions by torture,” the human rights plan, which the official news agency Xinhua published in full, said.

The plan also restated laws against illegal detention and treatment of suspects in custody.

“Taking a criminal suspect in custody, changing the place of custody, or extending the term of detention must be carried out in accordance with the law,” the plan said.

Xinhua, in its accompanying report on the human rights plan, linked the pledged improvements in the detention system to the death of a Chinese man at a police station in Yunnan province two months ago.

His death, it said, “aroused public outcry for enhancing transparency and supervision of the country’s detention system.”

China’s petitioners frequently report being detained in large “ reception centers” for those who travel to Beijing and other major cities to make complaints about their local governments.

These centers are said to constitute an efficient system of “black jails,” from which petitioners are then escorted by officials back to their hometown.

While the document pledges to “guarantee citizens’ rights to criticize, give advice to, complain of, and accuse state organs and civil servants,” it said the petitioning complaints system of “letters and visits” would “remain unblocked.”

Many petitioners report years of stonewalling and unofficial detentions at government complaints offices, as well as harassments and beatings of those seeking to take their complaints higher up.

The plan called for the physical separation of detainees and interrogators in interrogation rooms, and it pledged to promote the practice of physical examinations for detainees both before and after interrogation.

Focus on prison abuse

Unexplained deaths in police custody are a key cause for complaints against the government, with petitioners reporting refusal to hand over a body or to conduct post-mortem examinations, falsification of medical records, and the outright “disappearance” of dead bodies in cases in which relatives’ suspicions are aroused.

Detainees’ families—particularly those whose cases are related to state security and political dissent —have also complained of not being allowed to visit prisoners, of precipitate moves to far away prisons, and of not being informed for months where their loved ones are being held.

Political detainees and petitioners can sometimes “disappear” for months on end, under a form of “residential surveillance” at an undisclosed location.

“The rules regarding detainees’ correspondence, meeting with people, entertainment, and family visits shall be improved,” the plan said.

“The state is improving the sanitation management system for detainees as well as their medical treatment, and promoting standardized management of detainees’ life and health care.”

It said prisoners wishing to make a complaint could arrange a direct meeting with leaders of prisons or detention houses, suggesting the hiring of public supervisors to oversee conditions.

A detainee could also meet the procurator stationed in a prison or detention house by appointment, “if the former feels he has been abused and wants to make a complaint.”

Monitoring the judicial system

The plan also called for the use of audio-visual recordings in courtrooms across the country.

“People’s courts with necessary conditions shall record or video their court sessions and major relevant trial activities, and establish audio-visual archives of trial work,” it said, adding that parties to the case would be given unfettered access to such records.

The plan gave strong support to China’s Lawyers Law, which guarantees lawyers’ rights to meet, correspond with, and review files of persons in custody, and to conduct investigations and collect evidence.

“The state also guarantees the personal rights of lawyers and their right to debate or defend when they carry out their duties,” it added.

Several prominent civil rights lawyers have been jailed, beaten, or otherwise harassed for trying to take on powerful local vested interests.

Overseas rights groups have launched a campaign for the release of Beijing-based rights lawyer Gao Zhisheng, who lost his law license after he criticized the government for its treatment of the banned Falun Gong spiritual movement and organized a hunger strike to protest the ill-treatment of lawyers and rights activists by local officials.

Gao has been missing since Feb. 4 and is believed to have been kidnapped by authorities. His family is seeking political asylum in the United States.

And in mid-2005, civil rights lawyer Guo Feixiong was beaten by police in China’s southern Guangdong province after representing villagers seeking to remove their party head, whom they accused of corruption in a lucrative property transaction.

Guo is currently serving a five-year jail term for “illegal business activities.”

Original reporting by RFA’s Mandarin and Cantonese services. Mandarin service director: Jennifer Chou. Cantonese service director: Shiny Li. Written for the Web in English by Luisetta Mudie. Edited by Sarah Jackson-Han.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Dân chủ/Nhân Quyền, Trung Quốc | Leave a Comment »

Obama chấp thuận cho Du Lịch và gởi Tiền tới Cuba

Posted by adminbasam trên 14/04/2009

Obama chuẩn thuận cho du lịch, chuyển tiền tới Cuba

By JENNIFER LOVEN, thông tín viên của hãng tin AP, tại tòa Bạch Ốc

Người dịch: Trần Hoàng

Washington – Tổng thống Obama đang chấp thuận cho những người Mỹ đi du lịch mà không bị giới hạn và chuyển tiền tới cho gia đình của họ ở Cuba và dễ dàng hóa các hạn chế khác vào ngày thứ Hai để khuyến khích một thời kỳ mới của sự cởi mở hướng về một đảo-quốc bị cai trị bởi những người cộng sản trong 50 năm qua.

Tòa Bạch ốc đã đưa ra lời thông báo chính thức vào lúc phát ngôn viên của tổng thống Robert Gibbs họp báo hàng ngày với các ký giả — nói bằng cả hai thứ tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha.

“TT Obama rất ước mong nhìn thấy sự tự do nhiều hơn nữa cho người dân Cuba. Có nhiều hành động mà ông ta có thể đưa ra và thi hành ngày hôm nay để mở rộng nguồn  tin  và cung cấp những bước quan trọng để hổ trợ các điều ấy” ông Gibbs nói.

Nhưng, ông Gibbs cũng cho biết Obama chỉ là một vế của phương trình, có nghĩa là  Cuba cần phải nhúng tay vào thực hiện nhiều hơn nữa.

Ông Gibbs nói: “Có một số bước mà chính quyền Cuba có thể thực hiện và nên làm ngay bây giờ”

Với những thay đổi nầy, Obama có mục đích làm nhẹ sự lệ thuộc của người dân Cuba vào chế độ của Castro, với hy vọng rằng những chuyện ấy sẽ dẫn người dân Cuba đòi hỏi các tiến bộ về quyền tự do chính trị, ông Gibbs nói tiếp.

Có khoảng 1,5 triệu người Mỹ có bà con họ hàng trên đảo quốc đã chuyển qua chế độ  cộng sản từ 1959 khi Fidel Castro nắm được quyền kiểm soát.

Obama đã từng hứa hẹn làm việc nầy khi còn là một ứng cử viên Tổng thống. Hơn một tuần qua người ta được biết rằng Obama sẽ thông báo cho dân chúng trước khi ông có mặt tại cuộc hội đàm vào tuần nầy tại Hội Nghị của các nước Nam Mỹ ở Trinidad và Tobago.

“Chẳng có những người đại sứ nào tốt hơn cho bằng những người Mỹ gốc Cuba,” Obama đã nói trong một bài nói chuyện khi còn đang tranh cử vào tháng 5, 2008 ở Miami, tiểu bang Florida, trung tâm của cộng động người Mỹ gốc Cuba.

Bây giờ là lúc để cho những người Mỹ gốc Cuba nhìn thấy cha mẹ và anh chị em của họ. Bây giờ là lúc để cho tiền bạc của người Mỹ gốc Cuba làm cho gia đình của họ giảm bớt sự lệ thuộc lên chế độ cộng sản của Castro.”

Những bước khác đã được thực hiện vào ngày thứ Hai bao gồm việc mở rộng những gì đã được chấp thuận ở trong các thùng quà gởi theo bưu điện tới Cuba, chẳng hạn như áo quần, các đồ vệ sinh cá nhân, các hạt giống, cần câu cá và những đồ cần dùng cá nhân cần thiết khác.

Chính phủ Mỹ cũng sẽ bắt đầu cấp phát các giấy phép chấp thuận cho các công ty truyền thông, các công ty khác cung cấp điện thoại cầm tay và truyền hình tới dân Cuba, và chấp thuận các thành viên trong gia đình ở Mỹ chi trả tiền cho bà con của họ ở Cuba có được các dịch vụ ấy. (Cuba cách Florida 150 km)

Vào tháng 5-2008, Tổng thống George Bush đã loan báo một chính sách mới, theo đó những người sống ở Mỹ có thể gởi cell phone trong các gói quà gởi đến cho người Cuba ở đảo nầy. Lúc ấy, các phụ tá của TT Bush nói rằng những người ở Mỹ có thể trả tiền dịch vụ phôn đi kèm với điện thoại di động mà họ gởi tới Cuba.

Tuy nhiên, mặc dầu các điện thoại di động với các hợp đồng phục vụ từ Mỹ chỉ dùng được ở một số miền nào đó trên hòn đảo nầy, và dịch vụ điện thoại không phải là ổn định và lúc nào cũng có, mà còn lệ thuộc vào các đặc tính của các điện thoại di động nầy.

Việc gởi tiền tới cho các nhân viên cao cấp trong chính phủ và các đảng viên đảng cộng sản Cuba vẫn còn bị cấm dưới chính sách mới của Obama.

Các hạn chế đã được đặt ra bởi chính phủ của TT Bush đã giới hạn các người Mỹ du lịch tới Cuba  chỉ trong vòng 2 tuần và mỗi 3 năm được đi du lịch một lần. Các cuộc viếng thăm đã từng được giới hạn trong phạm vi gia đình trực hệ cha, mẹ, con, cái, anh, chị, em ruột.

Francisco Hernandez, hội trưởng hội những người Mỹ gốc Cuba Quốc Gia, đã từng là người ủng hộ trung thành về các hạn chế du lịch, nhưng nay ông ta ủng hộ lời thông báo của Obama.

Việc ấy sẽ giúp người Cuba trở nên độc lập hơn với nhà nước “không chỉ trong lãnh vực kinh tế mà còn trong lĩnh vực thu nhận tin tức, và các mối quan hệ với thế giới bên ngoài,” ông Hernandez phát biểu. Ông ta đã từng bị tù bởi chính quyền Cuba trong gần 2 năm sau khi tham dự vào cuộc đổ bộ vào Vịnh Con Heo bị thất bại vào năm 1961.

Nhân viên hãng du lịch Miama Tesie Aral đã cho biết điện thoại của cô đã reo không ngừng trước lúc có lời công bố nầy, với một sự gia tăng lên gấp 10 lần so với mức độ bình thường vào sáng thứ Sáu tuần trước.

“Mọi người đều đã có kế hoạch đi du lịch tới Cuba nhiều hơn dựa vào khả năng tiền bạc của họ để đi hàng năm,” cô Aral, chủ của chi nhánh du lịch ABC.  “Họ có thể đi du lịch nhiều lần hơn hay không thì chuyện ấy lệ thuộc vào nền kinh tế.”

Cũng ở trong buổi nói chuyện tại Miami cách đây gần 1 năm, Obama đã hứa sẽ làm khác đi với những gì mà ông nói là con đường của các chính trị gia trước kia đã từng làm đối với chính sách Cuba – “các chính trị gia đến Miami nói rất mạnh mẻ, nhưng khi họ về lại Washington, họ không thay đổi gì hết về chính sách đối với Cuba.”

“Trong (46 năm của) đời tôi, chưa bao giờ có người dân Cuba nào trên hòn đảo ấy được biết về sự tự do.

“Trong cuộc đời của hai thế hệ người Cuba ở đấy, chưa bao giờ có những người Cuba nào từng được biết về nền dân chủ là gì,”

Obama đã nói tiếp. “ Đo là một điều khủng khiếp và một hiện trạng bi kịch mà chúng ta đã biết trong 50 năm qua – về những cuộc bầu cử ở Cuba là những thứ gì đâu ấy chứ không phải là loại bầu cử tự do hay công bình; còn những người bất đồng chính kiến thì bị giam cầm trong các nhà tù tối tăm vì tội nói sự thật. Tôi sẽ không chấp nhận và bênh vực cho thứ bất công ấy, quí vị cũng sẽ không chấp nhận và bênh vực cho thứ bất công ấy, và chúng ta hãy cùng nhau đứng lên cho tự do ở Cuba.”

Obama cũng đã hứa hẹn tham dự vào cuộc nói chuyện ngoại giao trực tiếp với chính phủ Cuba, “không cần điều kiện tiên quyết” nhưng mà với “một sự chuẩn bị kỷ càng” và “một chương trình nghị sự rõ ràng.”

Một số dân biểu và nghị sĩ, được sự hậu thuẩn bới các nhóm nông dân và doanh nghiệp đang nhìn thấy những cơ hội mới ở Cuba, đang cổ vỏ cho những sự tái xem xét rộng rãi hơn về những cấm đoán về thương mại và du lịch (từng được đặt ra trong quá khứ nay có nên bãi bỏ hay không).

Nhưng các viên chức nói rằng Obama đang giữ nguyên lệnh cấm vận về thương mại đã được ban hành 50 năm qua, họ lý luận rằng chính sách ấy cung cấp một lợi thế để ép buộc chế độ ở Cuba phải thả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị và coi đó như là một bước hướng tới bình thường hóa các mối quan hệ với Mỹ.

Laura Wider-Munoz của hãng tin AP ở Miami đã đóng góp cho bài tường thuật nầy.

 

Obama allowing travel, money transfers to Cuba

By JENNIFER LOVEN, AP White House Correspondent Jennifer Loven, Ap White House Correspondent – 10 mins ago

WASHINGTON – President Barack Obama is allowing Americans to make unlimited trips and money transfers to family in Cuba and easing other restrictions Monday to usher in a new era of openness toward the island nation ruled by communists for 50 years.

The White House made the formal announcement during presidential spokesman Robert Gibbs’ daily briefing with reporters — in both English and Spanish.

“The president would like to see greater freedom for the Cuban people. There are actions that he can and has taken today to open up the flow of information to provide some important steps to help that,” Gibbs said.

But Gibbs said Obama is only one part of the equation, suggesting that Cuba must do more as well.

“There are some steps that the Cuban government can and must take,” Gibbs said.

With the changes, Obama aims to lessen Cubans’ dependence on the Castro regime, hoping that will lead them to demand progress on political freedoms, the spokesman said. About 1.5 million Americans have relatives on the island nation that turned to communist rule in 1959 when Fidel Castro seized control.

Obama had promised to take these steps as a presidential candidate. It has been known for over a week that he would announce them ahead of his attendance this weekend at a Summit of the Americas in Trinidad and Tobago.

“There are no better ambassadors for freedom than Cuban Americans,” Obama said in a campaign speech last May in Miami, the heart of the Cuban-American community. “It’s time to let Cuban Americans see their mothers and fathers, their sisters and brothers. It’s time to let Cuban-American money make their families less dependent upon the Castro regime.”

Other steps taken Monday include expanding the things allowed in gift parcels sent to Cuba, such as clothes, personal hygiene items, seeds, fishing gear and other personal necessities.

The administration also will begin issuing licenses to allow telecommunications and other companies to provide cell and television services to people on the island, and to allow family members to pay for relatives on Cuba to get those services.

Last May, President George W. Bush announced a new policy that people living in the United States could include cell phones in gift parcels sent to Cubans. At the time, Bush aides said that U.S. residents could pay for the cell service attached to phones they send.

However, though American cell phones with service contracts from the U.S. work on some parts of the island, service is not always reliable and depends on the phones’ specifications.

Sending money to senior government officials and Communist Party members remains prohibited under Obama’s new policy. Restrictions imposed by the Bush administration had limited Cuban travel by Americans to just two weeks every three years. Visits also were confined to immediate family members.

Francisco Hernandez, head of the exile group the Cuban American National Foundation, was once a staunch supporter of travel restrictions but supported Obama’s announcement.

It will help Cubans become more independent of the state “not only in economic terms but in terms of information, and contacts with the outside world,” said Hernandez, who was imprisoned by the Cuban government for nearly two years after participating in the 1961 failed Bay of Pigs invasion.

Miami travel agent Tesie Aral said her phone has been ringing nonstop in anticipation of the announcement, with a tenfold increase last Friday alone.

“People were already planning to travel more based on their ability to go every 12 months,” said Aral, owner of ABC Charters. “Whether they can travel more frequently than that depends on the economy.”

Also in that Miami speech nearly a year ago, Obama promised to depart from what he said had been the path of previous politicians on Cuba policy — “they come down to Miami, they talk tough, they go back to Washington, and nothing changes in Cuba.”

“Never, in my lifetime, have the people of Cuba known freedom. Never, in the lives of two generations of Cubans, have the people of Cuba known democracy,” he said then. “This is the terrible and tragic status quo that we have known for half a century — of elections that are anything but free or fair; of dissidents locked away in dark prison cells for the crime of speaking the truth. I won’t stand for this injustice, you won’t stand for this injustice, and together we will stand up for freedom in Cuba.”

He also promised to engage in direct diplomacy with Cuba, “without preconditions” but with “careful preparation” and “a clear agenda.”

Some U.S. lawmakers, backed by business and farm groups seeing new opportunities in Cuba, are advocating wider revisions in the trade and travel bans.

But officials said that Obama is keeping the decades-old U.S. trade embargo, arguing that that policy provides leverage to pressure the regime to free all political prisoners as one step toward normalized relations with the U.S.

Associated Press writer Laura Wides-Munoz in Miami contributed to this report.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in ASEAN, Cải cách ngân hàng, Quan hệ quốc tế | Leave a Comment »

Bằng cách nào TQ di dân vào VN,Lào,CPC

Posted by adminbasam trên 13/04/2009

Ở Việt Nam, người Trung Quốc đã di dân vào xây dựng hãng xưởng ở Đắc Nông, Bảo Lộc, Cà Mau và Tiền Giang; Ở Lào Trung Quốc đã xây dựng thành phố China Town ở thủ đô Vạn Tượng

Lào Lo Sợ Vết Chân của Trung Quốc

Chủ Nhật 6 tháng 4, 2008

By DENIS D. GRAY, AP Writer VIENTIANE, Laos

Người dịch: Trần Hoàng

Vạn Tượng, Lào – Một thành phố Hoa kiều hiện đại đang nổi lên kế bên thủ đô uể oải của nước Lào, đang bừng lên những nổi lo sợ rằng nước láng giềng vĩ đại phía bắc của Lào đang nuốt dần dần quốc gia nhỏ bé nầy.

Những người Lào hoảng hốt quá đến nổi chính quyền của đảng cộng sản Lào (một chính quyền hiếm khi nào cắt nghĩa việc làm của họ với dân chúng) buộc lòng phải lên tiếng giải thích hành động của họ với công luận; chiến dịch giải thích cho quần chúng về hành động của chính phủ là một chuyện chưa từng xẩy ra từ trước.

“Thị trấn người Trung quốc” (ở giữa thủ đô nước Lào) là một đề tài nóng hổi trong các câu chuyện kèm theo những lời đồn đại, và phần lớn những câu chuyện nầy đã xen lẫn với những lo ngại và giận dữ mà chế độ cộng sản Lào đã bưng bít, che dấu, giữ bí mật không cho dân chúng biết về một thỏa thuận thuộc vào hàng quan trọng nhất*.

Nhiều viên chức của chính phủ Lào và những tổ chức của các quốc gia đang hoạt động ở Lào đang bàn tán ầm ỉ về chuyện nầy thì được chính phủ Lào nhắc nhở cho họ biết đây là một ” Dự án Phát triển Thành phố Mới” chứ không phải là “thị trấn của người Trung quốc”

Phó thủ tướng Lào Somsavat Lengsavad nhấn mạnh cuộc hợp tác với Trung quốc không để lại những đe dọa. ” Điều này là bình thường. Hầu hết nước nào trên thế giới cũng có một thi trấn của người Trung quốc, thế thì tại sao Lào lại không nên có một thị trấn như thế?” Ông ta nói với những phóng viên người Lào.

Theo hình ảnh được ghi nhận từ một nghệ sĩ làm việc trong báo của chính phủ, dự án thành phố mới nầy sẽ có cao ốc cao chọc trời giống như khu Manhattan ở New York. Vẫn chưa có văn kiện nào nói rằng có bao nhiêu người Trung quốc sẽ sống ở trong thành phố nầy. Con số 50 ngàn gia đình người Trung Quốc sẽ đến sinh sống trong thành phố mới được mọi người suy đoán rộng rãi, nhưng phó thủ tướng Lào Somsavat phủ nhận không có chuyện đồng ý trước là sẽ có bao nhiêu người Hoa kiều sẽ đến đây sinh sống.

Ý tưởng về 50 ngàn người Trung quốc đến sống trong một thành phố có 460 ngàn người Lào là một yếu tố làm người Lào không an tâm và thoải mái.

Thêm vào đấy là yếu tố vị trí: thành phố mới sẽ được xây dựng trên đầm lầy That Luang, đầm lầy nầy nằm kế bên một vùng di tích lịch sử (Parliament monument có từ thế kỷ 15) tượng trưng cho chủ quyền của quốc gia và vùng đầm lầy nầy cũng là một vùng sinh thái quan trọng (cho động vật và thực vật trong tự nhiên.)

Hiện nay là lúc mà Trung quốc đang nhanh chóng trở thành quốc gia có quyền lực về chính trị và kinh tế hàng đầu ở Lào. Khi những di dân người Hoa, với túi tiền đầy ắp, và phong tục tập quán của họ vượt tràn qua miền biên giới, thì những miền đất phía Bắc của Lào hiện nay đang bắt đầu trở thành giống như một tỉnh lỵ của Trung quốc.

Theo phó Thủ tướng Lào Somsavat, một công ty Trung quốc đã có được hợp đồng mướn đất dài hạn 50 năm (có thể tái ký kết khi hết hạn) để biến 16 km vuông (4000 mẫu tây) “ruộng lúa thành một thành phố hiện đại”, mục đích là kích thích bầu không khí đầu tư và doanh nghiệp của một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới

Phó thủ tướng Somsavat**, một người Lào gốc Trung quốc với nhiều liên hệ gần gủi với nhà cầm quyền Bắc kinh đã cắt nghĩa chuyện làm ăn nầy như sau.

Khi Lào thiếu những món tiền để xây dựng một sân vận động cho Đông Nam Á vận hội mà quốc gia này sẽ đăng cai tổ chức vào năm 2009, Lào đã liên lạc với Ngân hàng Phát triển Trung quốc.

Ngân hàng TQ đề nghị cho một công ty Trung quốc, tên là Suzhou Industrial Park Overseas Investment Company, mượn tiền để xây dựng sân vận động, và đổi lại, chính quyền Lào phải cho ngân hàng phát triển Trung quốc thuê mướn miếng đất nói trên.

Hợp đồng nầy đã được ký kết vào tháng 9 – 2007, theo như nguồn tin hành chánh, mà dân chúng Lào không hề hay biết trước gì hết. Khi báo chí liên lạc với công ty này ở Suzhou, công ty từ chối không trả lời các câu hỏi. Tại một cuộc họp báo, Thị trưởng thủ đô Vạn tượng Sinlavong Khoutpahythoune nói rằng có 3 công ty người Trung quốc làm việc trong dự án nầy.

Ngay cả những cán bộ cách mạng lão thành của Lào cũng lên tiếng chỉ trích, họ nói rằng họ đã chiến đấu để không cho Mỹ và các quốc gia khác vào đóng quân ở Lào suốt chiến tranh Việt nam (1954-1975) và bây giờ họ đang nhìn thấy chính quyền Lào mở rộng cửa cho những quốc gia ngoại quốc đến đây (ám chỉ Trung quốc).

“Người Lào không có cá tính mạnh mẻ, vì thế họ sợ rằng những người Trung quốc sẽ đến ở và rồi sẽ và gia tăng dân số và biến quốc gia của chúng tôi thành nước Trung quốc,” ông Sithong Khamvong nói thế, ông là một người dân thuộc giới trung lưu của thủ đô Vạn tượng và cũng là cựu đảng viên đảng cộng sản Lào. Chưa có văn bản hành chánh nào nói rõ là những người Trung Quốc phải hội đủ điều kiện nào mới được cho phép để định cư trong vùng ngoại ô của phố Tàu.

Theo một đánh giá không chính thức, hơn 300,000 người Trung quốc đang sống ở Lào, nhưng con số thật sự thì không thể nào biết được vì nhiều người Tàu đã làm giấy tờ giả giống như họ đang dùng các loại giấy giả nầy để sống trong các nước láng giềng vùng Đông nam Á châu, Miến điện. Vùng đất phía bắc của quốc gia Miến điện nay đã đầy rẫy những biểu tượng về văn hóa, kiến trúc, và ngôn ngữ của Trung quốc

Cũng làm chướng tai gai mắt nhiều người Lào là vùng đất mà thành phố nầy được lên kế hoạch nằm gần dinh thự Parliament là nơi họp của Vua Lào và các quan trong quá khứ và Đền Vàng  That Luang được xây dựng từ thế kỷ 16, một biểu tượng quan trọng nhất của chủ quyền quốc gia và cũng là nơi thánh địa của phật tử.

Theo một nghiên cứu thực hiện bởi Quỹ Tài Nguyên Thiên nhiên của thế giới đặt căn cứ ở Tân Tây Lan cho biết vùng đầm lầy này là nơi nước lụt trong thành phố rút ra đây, “một cái cống lớn” cho một thành phố không có hệ thống thoát nước thải, và một nguồn cung cấp cá, rau, và các thực vật khác dùng làm thức ăn cho người dân nghèo.

“Điều quan tâm chính của tôi là dự án thành phố mới này sẽ phá vỡ cả ba yếu tố ấy,” Pauline Gerrard, tác giả của cuộc nghiên cứu vùng đất nầy, nói

Thị trưởng Vạn Tượng (bệnh vực cho dự án ấy) đã phản đối rằng: cánh đầm lầy nầy đã bị ô nhiễm và sự phát triển đúng đắn sẽ cải thiện môi trường.

Một số báo cáo tường thuật rằng khu vực nầy đang được thiết kế để khuyến dụ những người giàu có và sẽ được làm theo kiểu mẫu dựa trên thành phố Suzhou, một nơi nổi tiếng về hệ thống kênh rạch và cây xanh.

Nhưng, những người ngoại quốc sống lâu năm ở Vạn tượng không thể nhớ được là có lần nào trong quá khứ mà giai cấp trung lưu Lào lại tỏ ra giận dữ như hiện nay. “Nhiều ký giả Lào đã rất thích viết về những phẩn uất này, nhưng họ không thể nào làm được. Không có những cuộc biểu tình ngoài đường phố ngoại trừ là những phản đối trong những quán cafe– trong những cuộc bàn bạc của chúng tôi,” ông Sithong nói.

Martin Stuart – Fox, một tác giả của nhiều cuốn sách về người lào, nói rằng thế hệ của người Lào lớn tuổi đã biết cách làm thế nào để quân bình ảnh hưởng của người Trung quốc và Việt nam, và tránh bị đè bẹp giữa những nước láng giềng hùng mạnh nầy. Nhưng thế hệ lớn tuổi này đang chết dần dần, và hiện nay ” dường như sự thăng bằng ấy đang bị mất đi.” Stuart đã phát biểu trong cuộc phỏng vấn từ Úc.

*Nhớ lại ở VN, nhà nước đã bí mật thỏa thuận cho Trung Quốc khai thác bô xít (alumin) cũng diễn ra trong bí mật từ năm 2005. Dân chúng ở Đắc Nông và Bảo Lâm (Bảo  Lộc) cho biết, chính phủ TQ đã cấp họ bổng cho sinh viên VN qua TQ học tiếng Hoa kể từ bốn năm nay 2005, 2006, 2007, 2008. Đến nay, số sinh viên ấy một số đã về nước và số còn lại chuẩn bị về vào mùa hè nầy và họ sẽ làm thông dịch cho các hãng xưởng Trung Quốc ở Đắc Nông, Bảo Lộc, (và các hãng mới xây dựng xong của TQ ở Tiền Giang và Cà Mau).

**Phía Việt Nam, có Phó thủ tướng  Hoảng Trung Hải, cũng được đưa ra nói chuyện về vấn đề nầy. TTX Vĩa Hè nghe lén bà con nói rằng ông nầy ăn nói và hành động rất khó ai lường được. Chỉ đăng ở đây hình của ông nầy sang họp ở Trung Quốc 2008

Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải,(đeo cà vạt màu xanh) và một viên chức người Trung Quốc tại Quảng Tây 2008. Ông Hải 50 tuổi là kỹ sư điện (Ba Sàm bình: “Học ăn, học nói, … học cười” – phải cười sao cho có tư thế, đừng lộ cái hèn, nhục quốc thể) .

với hy vọng có thêm sự hợp tác của Trung Quốc cho các miền duyên hải

Bài đọc thêm bài Anh ngữ về đề tài nầy 1-12-2008

http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/7757896.stm

Asia Finest Discussion Forum

Laos fears China’s footprint

Sun Apr 6, 12:39 PM ET

By DENIS D. GRAY, Associated Press Writer VIENTIANE, Laos

– A high-rise Chinatown that is to go up by Laos’ laid-back capital has ignited fears that this nation’s giant northern neighbor is moving to engulf this nation.

So alarmed are Laotians that the communist government, which rarely explains its actions to the population, is being forced to do just that, with what passes for an unprecedented public relations campaign.

The “Chinese City” is a hot topic of talk and wild rumor, much of it laced with anxiety as well as anger that the regime sealed such a momentous deal in virtual secrecy. The rumblings are being heard even among some government officials, and foreign organizations operating in Laos are being told to refer to the venture as a “New City Development Project” rather than a “Chinese city.” Deputy Prime Minister Somsavat Lengsavad insists the deal poses no threat.”This is not unusual. Almost every country in the world has a Chinatown, so why shouldn’t Laos have one?” he told Laotian reporters.

According to an artist’s impression in state-run media, it will have a Manhattan-like skyline. There is no word on how many Chinese will live there. The figure of 50,000 families is widely speculated but Somsavat denied any such number had been agreed upon.

The idea of 50,000 newcomers to a city of 460,000 is one factor causing unease. Another is location: The complex is to go up on the That Luang marsh, an area pregnant with nationalist symbolism and also ecologically important.

It comes at a time when China is rapidly becoming the No. 1 foreign economic and political power in Laos. As migrants, money and influence roll across the frontier, northern areas of the country are beginning to look like a Chinese province.

According to Somsavat, a Chinese company last fall was granted a renewable, 50-year lease to transform 4,000 acres of “rice fields into a modern city,” thus stimulating the business and investment climate of one of the world’s poorest nations.

Somsavat, an ethnic Chinese-Laotian with close ties to Beijing, explained that when Laos fell short of funds to build a stadium for the Southeast Asian Games it will host next year, it turned to the China Development Bank. The bank offered a Chinese company, Suzhou Industrial Park Overseas Investment Co., a loan to build the stadium in exchange for the lease.

The deal was signed last September, according to official media, with no known prior notice to the public. The company, contacted in Suzhou, declined to answer questions.

At a news conference, Vientiane Mayor Sinlavong Khoutphaythoune said three Chinese companies were involved in the project. Even some aging revolutionaries are critical, saying they fought to keep out the United States and others during the Vietnam War and now are seeing their own government opening the floodgates to foreigners.

“The Lao people are not strong, so they are afraid the Chinese will come in and expand their numbers and turn our country into China. We will lose our own culture,” said Sithong Khamvong, a middle-class Vientiane resident and former Communist Party member. There has been no official word on the conditions under which the Chinese might be allowed to settle in the new suburb.

By unofficial estimate, some 300,000 Chinese live in Laos but true figures are impossible to obtain since many have acquired false documentation much as they have done in another of China’s Southeast Asian neighbors, Myanmar. The north of that country is taking on a Chinese character.

Also irking many is the site of the planned city — near both the Parliament and the golden-spired, 16th century That Luang monastery, the most important symbol of national sovereignty and a sacred Buddhist site.

The area is now a mix of marshes, rice fields and creeping urbanization despite substantial international aid to preserve it as a wetland. A 2003 study by the Switzerland-based World Wide Fund for Nature said the marsh is the main runoff for flash floods, a “sewage tank” for a city with no central waste water system, and a source of edible fish and plants for the poor. “My major concern is that the new city will have an impact on these three factors,” says the study’s author, Pauline Gerrard.

The mayor counters that the marsh is already polluted and that proper development will improve the environment. Some reports say the area is designed to attract upmarket buyers and will be modeled on the Chinese city of Suzhou, famed for its canals and greenery.

But longtime foreigners in Vientiane can’t recall the middle class ever being so angry. “Lao journalists would like to write about this but they cannot. There is no protest except in coffee shops — in our ‘coffee parliaments,’” Sithong said.

Martin Stuart-Fox, an Australian author of books on Laos, says the old generation knew how to balance China’s influence and Vietnam’s and avoid being crushed between its powerful neighbors. But this generation has passed, he said in an interview from Australia, and now “it seems to me that the balance is being lost.” source:

http://www.asiafinest.com/forum/index.php?act=Print&client=printer&f=46&t=154527

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Chính trị, Gia đình/Xã hội, Quan hệ Việt-Trung | Leave a Comment »

Chê Bai VN – để Khuyến khích Đầu Tư vào TQ?

Posted by adminbasam trên 11/04/2009

Los Angeles Times

Các hãng đa quốc gia xem xét lại cẩn thận hơn về chuyện đầu tư ở Việt Nam

Các công ty cắt giảm hoạt động trong khi họ phải đương đầu với những hạn chế về nhân công và những vấn đề khác ở Việt Nam

Don Lee

Ngày 11-4-2009

Tường trình từ TPHCM — Chỉ cách đây vài năm, thành phố này nằm trong số những khu vực có mức đầu tư nước ngoài sôi động nhất ở châu Á.

Các hãng đa quốc gia lớn như hãng sản xuất bộ vi-xử- lý Intel Corp. và các công ty nhỏ hơn như Ampac Packaging, một nhà sản xuất các loại túi xách mua hàng đóng tại Cincinnati cho các hãng Gap và Target, đã lũ lượt kéo tới đây và những nơi khác của Việt Nam. Họ thiết lập các nhà máy để bổ sung hoặc, trong một số trường hợp, thay thế những cơ sở hãng xưởng ở Trung Quốc nơi đang càng ngày càng trở nên quá hao tốn để làm ra sản phẩm. “Trung Quốc cộng một,” họ đã gọi nơi này như vậy.

Giờ đây, với cơn suy thoái toàn cầu và Trung Quốc đang tự khẳng định lại bản thân như là một nhà sản xuất với giá rẻ, còn Việt Nam đang cảm thấy những hậu quả của một xu hướng khác: “Trung Quốc trừ một.”

Tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, cũng còn được biết với cái tên Sài Gòn, một cao ốc gồm các căn hộ cho thuê hiện đang là một trong những tòa nhà lớn nhất thành phố đã phủ bên ngoài màu xanh (vì đang xây dở dang) trong nhiều tháng nay. Bị eo hẹp về tiền mặt, chủ sở hữu của nó, tập đoàn Daewon Group của Hàn Quốc, đã ngừng công việc xây dựng thậm chí sau khi đã xây đến tầng thượng. Đó là một trong nhiều dự án nước ngoài trong khu vực phải ngừng lại hoặc đình chỉ vô thời hạn.

Hãng Wistron Corp. của Đài Loan trước đó đã lên kế hoạch tái đầu tư nhiều triệu đô la vào việc xây dựng một nhà máy sản xuất máy tính xách tay tại Việt Nam vào mùa đông năm ngoái, bổ sung thêm cho nhà máy chính của hãng tại khu vực Thượng Hải.

“Ngay lúc này kế hoạch ấy nhiều ít gì cũng đã đình lại,” người phát ngôn của hãng John Collins cho biết.

Đầu tư của Đài Loan tại Việt Nam trong hai tháng đầu năm nay chỉ bằng một phần năm so với cùng kỳ này một năm trước, theo đánh giá của bà Catherine Chi, một giám đốc lâu năm của Phòng thương mại Đài Loan, một trong những nhóm nước ngoài lớn nhất tại đây. Chính phủ ở Hà Nội đang dự đoán những dòng vốn tư bản nước ngoài sẽ sút giảm hơn một nửa trong năm nay.

Các công ty của Nhật như Sony Corp. và Canon Inc. đã đóng cửa hoặc giảm các hoạt động của mình tại Việt Nam. Nhà sản xuất xe hơi Trung Quốc Lifan Group đã tạm ngưng các kế hoạch lắp ráp xe tại đây.

Theo các số liệu khác, nền kinh tế của Việt Nam đang ở trong tình trạng thuận lợi hơn hầu hết các nước khác trong khu vực. Nhờ vào một mức tăng trưởng thương mại trong hàng hóa tiêu dùng, chính phủ chi tiêu vào cơ sở hạ tầng và nhiều nhà máy mở ra từ trước đó, tổng sản phẩm quốc nội của nước này, hay là tổng sản lượng hàng hoá làm ra của nền kinh tế, chắc chắn tăng trưởng 5,5% trong năm nay. Mức tăng đó sẽ là cao hàng thứ hai ở Đông Á sau Trung Quốc, theo như thông tin từ Ngân hàng Thế giới cho biết.

Những lợi thế so sánh của Việt Nam bao gồm lực lượng lao động có tính năng động, sự ổn định chính trị và dân số trẻ.

Thế nhưng trong hai năm qua các giám đốc nước ngoài cũng đã và đang tỉnh ngộ. Họ đã học được rằng Việt Nam, với một số dân khoảng 87 triệu, không phải là một phiên bản thu nhỏ của Trung Quốc.

Mặc dù Việt Nam có những giá trị tương đồng về Khổng giáo của Đông Á trong nền giáo dục và quan hệ gia đình, nhưng Việt Nam không biết cách kiểm soát và điều hành đề hoàn thành mọi việc một cách nhanh chóng như ở Trung Quốc.

Các thương gia than phiền rằng, thậm chí sau nhiều năm, công nhân vẫn chưa làm xong được đường cao tốc từ phi trường Thành phố Hồ Chí Minh chạy tới trung tâm thành phố. Không giống như Trung Quốc, việc tái di chuyển các gia đình dời đi chỗ khác ở là chậm chạp một cách quá cẩn trọng.

Việt Nam cũng không có lực lượng lao động lành nghề như một số người từng nghĩ. Trong lúc người Việt Nam trẻ tuổi cho thấy một thiên hướng học tập, thì các trường đại học lại thiên về lý thuyết nặng nề. Nhiều sinh viên tốt nghiệp thiếu điều kiện thực hành và thiếu rèn luyện kỹ thuật cần thiết cho sự nghiệp của họ tại các công ty đa quốc gia.

Hãng Intel mới đây đã nhận ra điều đó khi họ nghiên cứu việc thuê mướn nhân công mới cho một nhà máy lắp ráp và kiểm tra bộ vi xử lý trị giá 1 tỉ đô la mà họ đang xây dựng ở đây.

Hãng điện tử Intel đóng tại Santa Clara này đã phải xoay xở để tuyển mộ cho đủ số lao động là kỹ sư và công nhân có tay nghề trong làn sóng tuyển mộ ào ạt đầu tiên của họ. Nhưng Intel đã nhận ra rằng cần phải gây dựng một kênh cung cấp nhân tài riêng nếu như họ muốn phát triển ở Việt Nam, theo những người nắm rõ tình hình cho hay. Hãng Intel giờ đây đang cố gắng giúp các trường đại học trong nước bắt đầu thay đổi các môn học và chương trình giảng dạy.

Intel đã không trả lời về một lời yêu cầu dành cho việc bình luận về vấn đề này, nhưng các hãng phương Tây khác cũng đã bắt đầu có một tầm nhìn dài hạn hơn về Việt Nam.

“Đã có một vài điều phải suy nghĩ lại,” theo nhận xét của Sesto Vecchi, một luật sư và là nhà tư vấn tại Thành phố Hồ Chí Minh trong hai chục năm qua.

Mặc dù vậy hầu hết các nhà đầu tư ngoại quốc vẫn tiếp tục tăng thêm cổ phần ở Việt Nam cho các khoản đầu tư dài hạn, ông nhận xét, “Nhưng có lẻ một cảm nhận thực tế hơn vào lúc này về việc có bao nhiêu người đang sẵn sàng hổ trợ cho một nền công nghệ kỹ thuật cao phát triển nhanh.”

Trong một số phương cách để đối phó, những bất ổn gần đây của Việt Nam có nhiều liên hệ với bầu không khí kinh doanh đã được cải thiện của Trung Quốc hơn là với bất cứ khiếm khuyết riêng biệt nào của chính Việt Nam.

Trong 10 năm qua, Việt Nam đã từng được xem là hấp dẫn nhiều hơn khi mà những loại thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ áp đặt lên các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc như đồ gỗ và các túi nhựa.

Cùng lúc ấy, mức lương ở Trung Quốc đã tăng cao, cũng như với giá nguyên liệu thô cũng tăng cao. Luật lao động trở nên khó khăn và chặt chẽ hơn. Đồng nhân dân tệ gia tăng giá trị. Và nhà cầm quyền Trung Quốc đã nhòm ngó tới các doanh nghiệp có lao động phải làm việc cường độ cao, loại bỏ việc giảm thuế xuất khẩu và cố gắng làm việc nhiều hơn để ngăn ngừa các các hoạt động bất hợp pháp và thẳng tay đưa ra tòa rồi xử phạt nghiêm khắc những công ty vi phạm bằng những luật môi trường và luật an toàn lao động.

“Thời buổi của Trung Quốc như là một thị trường sản xuất cho xuất khẩu với chi phí thấp đã và đang chấm dứt,” Phòng Thương mại Mỹ tại Thượng Hải đã tuyên bố công khai vào tháng Ba năm 2008, với lưu ý rằng gần như một phần năm các công ty được khảo sát đã có kế hoạch chắc chắn để di chuyển một số công việc sản xuất tại Trung Quốc sang các quốc gia khá, đặc biệt là Việt Nam.

Nhưng cơn khủng hoảng tiền tệ toàn cầu và tình trạng suy thoái tiếp theo đã làm thay đổi tất cả những dự tính đó. Chính phủ Trung Quốc đã làm sống lại những chính sách cắt giảm thuế xuất khẩu và đã tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng. Giá cả hàng hóa nhu yếu (dầu, xăng, gạo, vàng, thịt bò, các đậu, kim loại thô…) ở Trung Quốc đã giảm mạnh, đồng nhân dân tệ đã ổn định và các nhân viên chính quyền đã thôi không còn gây sức ép quá nặng lên các chủ hãng thuê mướn người lao động, vì sợ rằng sẽ có nhiều nhà máy phải đóng cửa và mất việc làm.

Khảo sát tương tự của phòng thương mại một năm sau đó đã nhận ra rằng số lượng phần trăm của công ty đang lên kế hoạch di chuyển ra khỏi Trung Quốc đã giảm xuống gấp hai lần, cũng như số các công ty trả lời cuộc khảo sát diễn tả mối quan ngại về mất ưu thế cạnh tranh của Trung Quốc đã giảm bớt.

“Các công ty lớn hơn từng trải qua quá trình tìm kiếm địa điểm kinh doanh ở nơi khác đã và đang quay trở về Trung Quốc,” theo như nhận xét của ông Dean Ho, phó chủ tịch Unison International một hãng chuyên về đầu tư và tư vấn đóng tại Thượng Hải. Một số trong những công ty đó đã không thể nào tìm được đủ những công nhân giỏi, ông cho biết. Còn các công ty khác thì nhận thấy ở các nước đối thủ cạnh tranh (với Trung Quốc) có những mối thách thức riêng của mình.

Ông Liu Guizhong, phó giám đốc về ngoại thương của tập đoàn Galanz Group của Trung Quốc, nhà sản xuất lò vi ba (microwave) lớn nhất trên thế giới, đã nhớ lại cuộc viếng thăm Việt Nam vào tháng Tư năm ngoái. Ông và những người trong đoàn đã thích thú về những gì mà họ được trông thấy.

Họ đã nhận được chiếu khán nhập cảnh một cách dễ dàng. Thành phố Hồ Chí Minh đã khoe khoang về vài thiết bị bến cảng. Ông Liu nói rằng mức lương của người sản xuất tại Việt Nam vào khoảng 60 đô la một tháng cho mỗi công nhân, khoảng bằng nửa mức lương của công nhân ở Trung Quốc và khoảng bằng một phần ba mứcmà Galanz trả cho công nhân tại các thành phố ven biển Trung Quốc.

Tập đoàn Galanz đang xem xét ba địa điểm tại Việt Nam để xây dựng một nhà máy trị giá 25 triệu đô la, bao gồm những vùng ngoại ô chạy dọc bao quanh Thành phố Hồ Chí Minh gần với Sông Sài Gòn.

Thế rồi nền kinh tế của Việt Nam đã rơi vào tình trạng suy sụp, mức lạm phát gia tăng lên tới 28% vào mùa thu năm ngoái, được tiếp sức bởi giá cả nguyên vật liệu dâng cao và nạn đầu cơ tích trữ không kiểm soát nổi trong thị trường nhà đất và chứng khoán. Đồng nội tệ của Việt Nam mất giá dần. Một loạt các cuộc đình công của giới lao động trong các nhà máy may mặc quần áo và giày dép bổ sung thêm vào tình trạng rối loạn.

Hãng Galanz đã rút lui. Giống như các hãng khác, giờ đây họ muốn chờ đợi cho tới khi cơn bão tài chính toàn cầu qua đi. Các giới chức Việt Nam đã đưa ra những cắt giảm thuế mới và các khuyến khích khác để khuyến dụ các nhà đầu tư quay trở lại, song Galanz vẫn không đưa ra ý kiến gì.

“Nhiều công ty đang tháo chạy, vì thế chúng tôi đã quyết định tạm đình hoãn các kế hoạch của chúng tôi,” ông Liu cho biết. Lúc này, “có quá nhiều khía cạnh tiêu cực.”

Hiệu đính: Trần Hoàng

 

Tác giả bài báo trên chắc là đã được chính phủ TQ trả tiền công viết bài để đả phá các ưu thế về nhân công rẻ ở VN. Tác giả chê công nhân VN không có kỹ thuật cao, thiếu kỷ luật lao động và thiếu khả năng để hoàn thành nhanh chóng các kế hoạch. Bằng cách xen lẫn các sự kiện có thật với các lời chê bai, dụng ý của tác giả là làm cho các chủ hãng ngoại quốc lo ngại,  hoang mang, không dám đầu tư vào VN mà hãy đầu tư vào TQ.

Tác giả dùng lối so sánh đề cập tới các ưu thế của Trung Quốc như:   quản lý tốt, công nhân TQ có tay nghề cao, hoàn thành các sứ mạng nhanh. Ngược lại, công nhân VN lao động chậm chạp, kéo dài các dự án, không  hoàn thành công việc, yếu kém về quản lý (đơn cử thí dụ về đường cao tốc từ phi trường chạy về trung tâm thành phố làm bấy nhiêu năm mà vẫn chưa xong). Tác giả cũng cập nhật về luật môi trường và lao động ở TQ  và cho biết hiện nay chính phủ đã thoải mái và dễ chịu hơn, không còn nghiêm ngặt như trước nữa. Mục đích sau cùng cũng chỉ là kêu gọi các hãng xưởng ngoại quốc quay trở lại đầu tư vào Trung Quốc thay vì đầu tư vào VN.

Nhưng thực tế mà bài báo không để cặp đến là TQ hiện nay đang đầu tư vào Việt Nam ồ ạt trên toàn cả nước.

Ở các tỉnh thành lớn khác ở miền Bắc, và miền Nam,  báo Vietnamnet, Tuổi trẻ, Lao Động, Sài Gòn Tiếp Thị,  cho biết là nhờ sự trợ giúp của các lãnh đạo VN ở trung ương, nên Trung Quốc đã thắng được hầu hết các cuộc đấu thầu các hãng hóa chất, phân bón, điện lực, nhà máy điện, cầu đường… một số nhà máy đã xây dựng xong rồi và đã bắt tay vào sản xuất, một số hãng xưởng  khác thì  đang được xây dựng chờ ngày khai trương. Đặc biệt sự kiện nổi bật và kéo dài 3, 4 tháng qua trên báo chí VN mà  tác giả hiện đang có mặt ở Sài Gòn thì lại không hề nhắc nhở gì đến đó là sự kiện TQ đang khai thác Bô Xít hay Alumin ở tây Nguyên và Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

Sau khi đem nhân công TQ vào làm việc ở mỏ bô xít alumin ở Tây Nguyên và vùng Bảo Lộc  Tỉnh Lâm Đồng, Đà lạt từ năm 2005,  hiện nay các hãng Trung Quốc đang đem công nhân qua làm việc ở các tỉnh miền Tây thuộc đồng bằng sông Cửu Long.

Vào tháng 3/2009,dân chúng ở Tỉnh Tiền Giang và Cà Mau cho biết đã có nhiều công ty Trung Quốc xây dựng xong xí nghiệp và đưa hàng ngàn công nhân Trung Quốc đến làm việc tại 2 tỉnh nầy.

Những công nhân Trung Quốc chỉ làm các công việc lao động thông thường mà dân địa phương ở đấy có thể làm được, nhưng hãng TQ không thuê mướn người  VN mà chỉ đem chính người dân TQ qua làm việc.

Chuyện nầy đang gây ồn ào ở 2 tỉnh miền Tây vì chính quyền tỉnh Tiền Giang và Cà Mau thu hồi và chiếm đất đai đang canh tác của nông dân (đã làm hơn 30 năm qua) để giao đất cho các hãng Trung Quốc xây dựng hãng xưởng. Ngoài ra, chính quyền VN mua đất đai của nông dân giá rẻ như bèo, và chuyền tay nhau bán lại với giá hơn 1000-3000 lần giá mà họ mua của nông dân vì đó là các loại đất chuyên canh rất tốt.

Trung Quốc cũng đầu tư vào các nước láng giềng của VN. Năm 2008, TQ  đầu tư 500 triệu đô la vào hải cảng Sihanouk. Ngoài ra, trong 4 năm qua, mỗi năm TQ cấp viện trợ 1 tỉ đô la cho toàn bộ ngân sách mà chính phủ Hun Sen dùng trả tiền lương cho  quân đội, công an, và công chức Kamuchea. Thêm vào đó,  TQ còn xây dựng cầu, cống, đường sá cho Kampuchea mà không lấy tiền hoặc chỉ cho vay với lãi suất rất thấp. TQ cũng đang làm các đập thủy điện cho Kampuchea và các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than.

Cùng thời gian ấy, Trung Quốc đầu tư vào Lào nhiều hơn là đầu tư ở Kampuchea. Trong 10 năm qua, TQ đã mua gần hết tất cả các đồn điền cao su ở Lào và di dân khoảng hơn 300.000 người vào Lào. Trong gần 18 năm qua, TQ đã chiếm xong vùng biên giới phía bắc của  Lào và Trung Quốc và đồng hóa xong dân Lào ở miền biên giới. Năm 2008 họ đã xây dựng cho Lào 1 sân vận động để chuẩn bị cho Sea Game được tổ chức vào năm 2009. Đổi lại, vị Phó thủ tường Lào gốc người Trung Quốc đã cho TQ xây dựng China Town trên 1 khu đất có kích thước 3,2 km x 5 km (16 km vuông). Thành phố Hoa kiều sẽ dự định dành  cho 120.000 người TQ qua làm việc sát bên thủ đô Vạn Tượng.

(Vì chính sách 1 con, nên Trung Quốc đang bị nạn trai thừa, gái thiếu. Nam giới TQ hầu như khó lấy vợ,vì vậy TQ đem công nhân qua VN, qua Châu Phi, qua Lào, Kampuchea…để làm giảm bớt nạn trai thừa gái thiếu, giải quyết lao động thất nghiệp, và có kế hoạch lâu dài nằm yên chờ thời cơ 10-20 năm (ở VN).)

Người ta sẽ tự hỏi tại sao chính phủ TQ không lo cho dân chúng của họ đang sống với lợi tức 25 xu đến nửa đô la mỗi ngày, mà lại đem tiền cho Lào, và Kampuchea? Nếu TQ có môi trường đầu tư tốt, có công nhân lao động kỹ thuật cao, có tài điều hành và làm việc có hiệu quả, có 600 tỉ đô la dự trữ trong nước và 1400 tỉ đô la mua công trái của Hoa kỳ, thì tại sao chính phủ của họ không đầu tư xây dựng hãng xưởng hoặc cho các công ty tư nhân mượn tiền để xây dựng hãng xưởng, thuê mướn công nhân TQ, để giúp 5/6 dân số ở các tỉnh của TQ vẫn còn đang sống ở mức 25 cents đến nửa đô la 1 ngày và đang cần việc làm?

Tại sao TQ tài giỏi như tác giả bài nầy viết nhưng họ lại không mở hảng xưởng ở các tỉnh phía tây, vùng trung bộ, miền Bắc của Trung Quốc…Vì trong 30 năm qua, thực tế là TQ chỉ phát triển ở các vùng nào có tư bản Âu Châu, Á châu, và Mỹ đầu tư vào mà thôi. Các vùng ấy là 3 tỉnh lớn của Trung Quốc và nằm dọc theo miền duyên hải phía đông, nơi tập trung khoảng 250-280 triệu người. Các vùng nào ngoài vùng duyên hải phía Đông (trừ Bắc kinh và Thượng hải) chỉ có một chút thay đổi còn đa số đều còn ở trong tình trạng dưới thời Mao Trạch Đông. 1949-1976. Nhiều nông dân nói rằng ngày nay khá hơn thời trước 1980 vì họ còn có cháo để ăn một số tháng nào đó trong năm.

————————————————————

Thật sự người TQ không hay và tài giỏi như tác giả bài báo nầy nói. Nếu họ có kế hoạch và tài giỏi thì họ đã dùng tiền để tự phát triển đất nước của họ, chứ không phải là dành dụm được bao nhiêu tiền trong quốc 30 năm qua thì họ đều mua công trái của  Mỹ với tiền lời rẻ như bèo. Thực chất của mua công trái là đưa tiền cho tư bản của Mỹ tới TQ đầu tư mở hãng xưởng thu nhận công nhân TQ vào làm việc. Mua công trái có cái lợi là là chắc chắn không bị mất. Chỉ lo 1 điểm là khi cần tiền bán Công khố phiếu ra và nếu bán quá nhiều thì giá công trái sẽ hạ xuống. Vì vậy nếu bán nhiều là bị lỗ nặng 15-20% là thường.

Nếu TQ không mua công trái của Mỹ thì TQ cũng chẳng biết xoay xưở và dùng số tiền ấy vào việc gì, và nếu các doanh nghiệp Mỹ không mượn được tiền của ngân hàng thì họ cũng không đầu tư vào TQ. Nếu Mỹ không đầu tư vào TQ thì sức tăng trưởng kinh tế của TQ bị sụt giảm, và nếu thế thì xã hội TQ sẽ náo loạn lên như năm 2008 và hiện nay bởi vì mỗi năm đà gia tăng dân số của TQ là 1.5%, nghĩa là sẽ có tối thiểu 15 triệu người hàng năm cần có việc làm.

Hàng năm chính quyền TQ ước ao có nước nào đến TQ mở xí nghiệp để thuê 15 triệu người đi làm việc. Hàng năm nước ngoài cũng đầu tư vào TQ  khoảng 90 tỉ y như nước ngoài đầu tư vào VN vây. Nếu chính phủ TQ không giải quyết được công ăn việc làm cho người  TQ thì  xã hội TQ náo loạn. Vì thế muốn giữ cho xã hội không bị náo loạn, TQ phải giữ cho mức tăng trưởng kinh tế 8-11%. Dưới con số ấy là xã hội TQ bị náo động không yên và dân chúng biểu tình đòi việc làm.

Cái thế kẹt của TQ hiện nay là phải mua công trái của Mỹ hàng mỗi năm, tức là mấy chục năm qua, TQ  có bao nhiêu tiền dư thì mua công trái của Mỹ; số tiền mua công trái tính đến cuối năm 2008 là 1400 tỉ đô la.  Điều trớ trêu là nếu TQ cần tiền và muốn bán công trái ra để thu tiền  về thì TQ cũng không thể làm được và cũng không dám làm  vì lý do nói trên. Vì thế,  TQ cứ tiếp tục để số tiền 1400 tỉ ấy ở Mỹ mua công trái dài dài. Khi công trái đáo hạn, rút tiền được, TQ cũng không rút tiền ra mà dùng số tiền ấy mua công trái khác. TQ muốn bán ra hàng trăm tỉ công trái ấy thì công trái tràn ngập thị trường và bị lỗ tối thiểu 20%; nhưng điều mà  TQ lo lắng nhiều nhất là nếu không mua công trái của Mỹ, thì Mỹ không có tiền, và các công ty của Mỹ không  thể đầu tư vào  TQ. Nếu Mỹ giảm bớt đầu tư vào TQ thì kết quả là dân TQ không có việc làm và gây cho xã hội TQ bất ổn và làm hàng ra thì bán hàng cho nước nào mua đây?

Năm 2008, Mỹ mới giảm mua hàng của TQ có 6-9 % mà xã hội TQ gần như thất nghiệp khắp nơi, dân chúng đánh nhau với chính quyền và không còn sợ hải nữa. Nếu Mỹ giảm mua hàng hóa, hay số lượng hàng hóa của TQ xuất cảng qua Mỹ giảm chừng 20-25%, thì xã hội TQ sẽ náo loạn tới đâu thì chưa ai có thể đo lường. Chưa kể TQ không đưa tiền cho Mỹ (bằng cách mua công trái), thì Mỹ  không có tiền đầu tư vào TQ mở hãng xưởng sản suất hàng hóa thì dân TQ bị thất nghiệp.

Để cứu nguy tài chánh đang bị khủng hoảng và thúc đẩy nên kinh tế đang bị suy thoái, Mỹ đang in tiền ra ngày càng nhiều, khoảng 1800 tỉ. Tiền in ra nhiều chừng nào thì sẽ đồng tiền sẽ mất giá, lạm phát gia tăng, giá vàng tăng cao, chừng đó tất cả vật giá sẽ phải tăng;  đồng đô la sẽ càng mất giá,  thì công khố phiếu 1400 tỉ đô la của  TQ sẽ bị lỗ nhiều hơn nữa.

Tháng trước, chủ tịch Hồ cẩm Đào và cả bộ trưởng tài chánh TQ nhận ra chuyện ấy và rất lo lắng và khuyên Mỹ đừng nên vung tay quá trán, đừng nên chi tiêu quá nhiều và đặt vấn đề dùng một loại tiền tệ an toàn nào khác để TQ thoát khỏi cái bẩy hiện nay do chính TQ đặt ra, muốn lùi lại thì lùi cũng không được.

Các nhà tài chánh và kinh tế nước ngoài biết rất rõ Chính quyền TQ sở dĩ có nhiều ngoại tệ dự trử vì họ in tiền nhân dân tệ ra và mua đồng đô la vào trong suốt 25 năm qua. Hàng năm, khi tư bản đem tiền đô vào đầu tư, giá đô la hạ thấp, TQ mua vào. Khi gom góp tiền đô ngoài thị trường nhiều đến một mức nào đó thì đồng đô la Mỹ tức khắc khan hiếm và gia tăng giá trị. Khi giá trị tiền đô tăng cao, TQ khoái chí và xuất cảng càng nhiều hàng hóa 3 xu của  TQ  qua Mỹ. Mỹ bị thâm thủng mậu dịch la lên 1 tiếng, thế là TQ lụi hụi bán tiền đô ra làm cho giá đô la giảm xuống và giữ cho  nhân dân tệ ở mức họ mong muốn là 1 đô là = 0,832 nhân dân tệ.

Hàng năm, khi đồng đô la đầu tư vào TQ quá nhiều và bị mất giá, chính phủ TQ (thông qua ngân hàng trung ương) mua đô la vào và làm cho đông đô la tăng giá trở lại.  Họ cứ làm đi làm lại thế trong suốt hơn 20 năm qua. TQ luôn luôn để giá của đồng nhân dân tệ ở mức 0.832 nhân dân tệ = 1 đô Mỹ trong suốt mười năm 1993-2003.

Với tỉ giá ấy, thì đồng đô la có giá trị quá cao và đồng nhân dân tệ có giá trị quá thấp. Kết quả là Hàng Trung Quốc bán qua Mỹ rất nhiều, trong khi ấy hàng Mỹ ở TQ trở nên đắt giá không bán được. Mỹ không chịu sự thiệt thòi ấy được nên trong suốt 2 nhiệm kỳ của TT Bush, 2 bộ trưởng tài chánh Hoa Kỳ trong đó có Henry Paulson (nhậm chức 2006)  tìm cách thương thuyết và làm gia tăng đồng tiền nhân dân tệ lên trong 10 dịp, và hiện nay giữ nguyên giá ở 0.68347 China Yuan = 1 đô la Mỹ.

Mỹ rất thích và khuyến khích TQ thả lỏng nhân dân tệ cho thị trường tự quyết định giá cả, làm thế thì Mỹ đỡ thâm hụt mậu dịch (nhập khảu hàng hóa nhiều hơn xuất khảu hàng). Ngược lại, TQ thích đồng nhân dân tệ bị mất giá, nghĩa là thích tiền đô giá trị cao hơn tiền TQ để dễ bề xuất khẩu. Hai bên quyết dành quyền lợi cho nước của họ nên hục hặc nhau trong suốt 10 mấy năm qua cũng chỉ vì vấn đề tỉ giá trao đổi tiền tệ. Mỹ ép Trung Quốc thay đổi tỉ giá ngoại tệ từ 0,832 xuống còn 0,68347 China Zuan = 1 đô la và họ đã thành công trong suốt 6,7 năm qua.

Tóm tắt lại, TQ sẽ không bao giờ dám gây chiến tranh với Mỹ chừng nào mà số tiền 1400 tỉ đô la (tiền mua công trái của TQ vẫn còn đó) và quan trọng hơn là chừng nào mà chính quyền TQ không muốn xã hội TQ bị náo loạn. Đó là tại sao TQ sẽ có hành động gây hấn, nhưng TQ sẽ không bao giờ dám gây chiến với Mỹ. Thực tế là TQ  buộc lòng bấm bụng bỏ tiền ra mua công trái của Mỹ từ đây cho đến 20-30 năm nữa, và sẽ tiếp tục hòa thuận với Mỹ trong chừng ấy năm. Mỹ chỉ mới giảm mua hàng hóa chừng 10% mà TQ đã hoảng hốt và nền kinh tế TQ sụt giảm từ 11,9% năm 2007 xuống còn 6% vào năm 2008 và xuống thấp nữa vào cuối năm nay.

Chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc là chiến tranh tiền tệ. Sự mâu thuẫn giữa 2 bên là ngấm ngầm và rất lớn, và sự gắn bó nền kinh tế giữa 2 nước cũng rất chặt chẻ. Đó là điều người ta có thể ghi nhận. Mỹ có thể làm bất cứ điều gì mà TQ cũng không dám gây hấn. Nếu Mỹ muốn có quan hệ ngoại giao mật thiết với VN ư? TQ cũng chẳng dám làm gì trừ phi TQ muốn: (1) đất nước của họ rơi vào tình trạng rối ren của người biểu tình muốn có việc làm, và của những người ở nông thôn đang chống đối chính quyền vì tịch thu đất đai của họ chia chác nhau (2) sự chống đối lớn mạnh của phong trào dân chủ, (3) của Pháp luân công, (4) của người Hồi giáo gốc TQ, (5) của nhóm người đang sống ở vùng nội Mông (cổ), và (6) của người Tây Tạng…Đó là những món “dim sum” rất đắng, khó nuốt, mà chính phủ TQ không muốn nếm một chút nào.

 

Los Angeles Times

Multinationals take a longer view of Vietnam

Companies scale back as they confront limitations in Vietnam’s workforce and other issues.

By Don Lee

April 11, 2009

Reporting from Ho Chi Minh City — Just a couple of years ago, this city was among the hottest investment zones in Asia.

Multinationals as large as chip maker Intel Corp. and smaller firms such as Ampac Packaging, a Cincinnati-based maker of shopping bags for Gap and Target, flocked here and to other parts of Vietnam. They set up plants to complement or, in some cases, replace facilities in China that were becoming increasingly expensive to operate. “China plus one,” they called it.

Now, with the global downturn and China reasserting itself as the low-cost producer, Vietnam is feeling the effects of a different trend: “China minus one.”

In central Ho Chi Minh City, also known as Saigon, an apartment tower that would have been one of the city’s tallest buildings has been draped in green for months. Pinched for cash, its owner, Daewon Group of South Korea, stopped work on the development even after reaching the top floor. It’s one of many foreign projects in the region that have been halted or put off indefinitely.

Taiwan’s Wistron Corp. had planned to plow millions into building a laptop factory in Vietnam last winter, to supplement its main plant in the Shanghai area.

“Right now it’s just more or less on hold,” spokesman John Collins said.

Taiwanese investment in Vietnam in the first two months of this year was just one-fifth of what it was a year ago, said Catherine Chi, a senior director at Taiwan’s Chamber of Commerce, one of the largest foreign groups here. The government in Hanoi is expecting foreign capital inflows to fall by more than half this year.

Japanese companies such as Sony Corp. and Canon Inc. have closed or reduced operations in Vietnam. Chinese automaker Lifan Group suspended plans to make cars here.

By other measures, Vietnam’s economy is faring better than most in the region. Thanks to a rise in trade of consumer goods, government spending on infrastructure and numerous plant openings in the past, the country’s gross domestic product, or total economic output, is likely to grow by 5.5% this year. That would be the second highest in East Asia after China, according to the World Bank.

Vietnam’s comparative advantages include its motivated workforce, political stability and young population.

But the last couple of years also have been sobering to foreign managers. They’ve learned that Vietnam, with a population of about 87 million, isn’t a smaller version of China.

Though it shares East Asia’s Confucian values of education and family, Vietnam doesn’t have China’s command-and-control way of getting things done quickly. Businesses complain that, even after several years, workers still haven’t finished the highway from Ho Chi Minh City’s airport to downtown. Unlike China, relocation of families is painstakingly slow.

Nor does Vietnam have the depth of skilled labor that some thought. While young Vietnamese show a penchant for learning, universities tend to be heavily theoretical. Many of their graduates lack the practical and technical training needed for careers at multinational companies.

Intel found that out recently when it screened new hires for a $1-billion chip assembly and testing facility that it’s building here. The Santa Clara-based company managed to recruit enough engineering and skilled labor for its first wave of staffing, but realized it would need to build a talent pipeline if it wanted to grow in Vietnam, said people familiar with the situation. Intel is now trying to help local universities develop curriculum and programs.

Intel didn’t respond to a request for comment, but other Western companies also have begun to take a longer-term view of Vietnam.

“There’s been some rethinking,” said Sesto Vecchi, an attorney and consultant in Ho Chi Minh City for the last two decades. Although most foreign investors remain bullish on Vietnam over the long haul, he said, “there’s probably a more realistic sense now of how many people are available to support a fast high-tech industry.”

In some ways, Vietnam’s recent troubles have as much to do with China’s improved business climate than with any particular failing of its own.

Over the last decade, Vietnam had looked more appealing as the U.S. imposed anti-dumping duties on Chinese-made products such as furniture and plastic bags. At the same time, Chinese wages soared, as did raw material costs. Labor laws stiffened. The Chinese yuan surged in value. And authorities thumbed their noses at labor-intensive businesses, eliminating export tax rebates and cracking down on environmental and safety laws.

“The era of China as a low-cost, manufacturing-for-export market has come to an end,” the Shanghai American Chamber of Commerce declared in March 2008, noting that nearly one out of five companies surveyed had concrete plans to relocate some of their China operations to other countries, notably Vietnam.

But the global credit crisis and ensuing recession changed all that. The Chinese government revived export tax rebates and has beefed up infrastructure. China’s commodity prices fell, the yuan stabilized and officials backed away from pressing employers too hard, lest more plants close and jobs disappear.

The same chamber survey a year later found that the percentage of companies planning to relocate out of China had dropped by half, as had the number of respondents expressing concern about China losing its competitive edge.

“The larger companies that have had the experience of looking elsewhere have returned to China,” said Dean Ho, the Shanghai-based vice president of Unison International, an investment and consulting firm. Some of them couldn’t find enough good workers, he said. Others found rival countries had their own challenges.

Liu Guizhong, deputy director of foreign trade for China’s Galanz Group, the world’s largest microwave oven producer, remembers visiting Vietnam last April. He and his colleagues liked what they saw.

They got visas easily upon arrival. Ho Chi Minh City boasted several port facilities. Liu said production wages in Vietnam would be around $60 a month per worker, about half that of rural China and about one-third what Galanz pays workers in China’s coastal cities.

Galanz was considering three sites in Vietnam to build a $25-million plant, including the sprawling suburbs around Ho Chi Minh City near the Saigon River. Then Vietnam’s economy went into a tailspin. Inflation soared to 28% last summer, fueled by soaring commodity prices and rampant speculation in real estate and stocks. Vietnam’s currency sank. A series of labor strikes at garment and footwear plants added to the turmoil.

Galanz retreated. Like others, it now wants to wait until the global financial storm passes. Vietnamese authorities have rolled out new tax relief and other incentives to lure back investors, but Galanz remains noncommittal.

“Many companies are evacuating, so we decided to hold our plans,” Liu said. At the moment, “there are too many negative aspects.”

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Kinh tế Việt Nam, Quan hệ Việt-Trung, Trung Quốc | Leave a Comment »

Hai ý kiến trái ngược về việc Trung Quốc mua mỏ bô xít ở Úc

Posted by adminbasam trên 09/04/2009

Ha Ha. Ý kiến của một Thượng nghị sĩ rất trẻ, mới 42 tuổi, so ra còn khôn ngoan và có tầm nhìn xa hơn ông già Bộ trưởng 61 tuổi, vừa là luật sư  vừa là nhà kinh tế; ông già nầy sao mà giống với các ông già ở Việt Nam wá.

 

theage.com.au

Hai ý kiến trái ngược về việc Trung Quốc mua mỏ bô xít ở Úc

Ngày 9-4-2009

Cấm các công ty nhà nước Trung Quốc mua lại những công ty khai thác khoáng sản trong nước sẽ gây nguy hiểm cho đầu tư nước ngoài ở Úc, Bộ trưởng Thương mại Simon Crean nhận định.

Thủ lãnh đảng Dân Tộc, Thượng nghị sĩ Barnaby Joyce muốn chuyện đấu thầu của Chinalco * trong việc mua cổ phần tại Rio Tinto phải bị chặn lại dựa vào những lý lẽ rằng việc cho phép một hãng nhà nước [Trung Quốc] đầu tư vào trong nước Úc sẽ tạo nên một xung đột trong tương lai với một siêu cường quốc đang nổi lên.

Ông Crean (bộ trưởng thương mại Úc) đã bác bỏ ý kiến của Thượng nghị sĩ Joyce, với biện minh rằng lệnh cấm một hãng được cấp ngân quỹ dồi dào thuộc chủ quyền  nhà nước Trung Quốc mua lại một công ty khoáng sản của Úc sẽ làm nản lòng các quốc gia khác trong việc đầu tư vào Úc.

“Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta bị các nước khác cấm đoán,” ông Crean nói với kênh thông tin Sky News.

“Nếu như chúng ta đủ khả năng để cấm đoán một quốc gia, thì tại sao không có một quốc gia khác cũng bảo với chúng ta rằng ‘hãy xem chúng tôi đang cân nhắc việc đầu vào nước các ông, nhưng nhìn đây, các ông đã đưa ra lệnh cấm này rồi.’ **

“Tôi hiểu những mối quan ngại của dân chúng. Chúng ta đã cố gắng và nói lên  những điều quan ngại ấy, nhưng chúng ta không nên co rúm lại sợ hải trước những quan ngại ấy.”

Trong khi đó Thượng nghị sĩ Joyce nói ông không phản đối việc đầu tư của Trung Quốc vào Úc, nhưng ông có những mối quan ngại với một hãng quốc doanh được điều hành bởi nhà nước Trung Quốc lại làm chủ một phần mỏ alumin (bô xít) ở Rio Tinto.

“Nếu như họ đồng thời vừa là chủ của các mỏ khoáng sản dưới lòng đất của Úc mà lại vừa là người mua các khoáng sản tại Trung Quốc, rồi thì họ sẽ làm những gì mà bất cứ người kế toán nào cũng sẽ khuyên nên làm và đó là hãy mua (bô xít nhôm của Úc) với cái giá rẻ nhất,” Thượng nghị sĩ Joyce phân tích.

“Và nếu như chúng ta cố không đồng ý về chuyện (bán sản phẩm với cái giá rẻ nhất) đó, thì chúng ta đã chuyển từ một đề tài kinh doanh trở thành một vấn đề ngoại giao với một siêu cường (TQ) đang nổi lên.”[Chẳng khác gì tạo một cái cớ cho TQ gây hấn vào các việc khác]

Thượng nghị sĩ Joyce đã xuất hiện trong một cuộc vận động trên đài truyền hình quốc gia chống lại việc đấu thầu của Chinalco  (của Trung Quốc) để mua một cổ phần trị giá 27,69 tỉ đô la trong tập đoàn khoáng sản khổng lồ Rio Tinto.

Bộ trưởng Tài Chánh Úc Wayne Swan đã loan báo vào tháng trước rằng chính phủ Úc sẽ không tán thành những ý kiến về việc đấu thầu 2,6 tỉ đô la của hãng Minmetals của Trung Quốc  mua lại hãng OZ Minerals của Úc nếu như một mỏ đồng và vàng nằm gần khu vực thử vũ khí lại được bao gồm trong bản thỏa thuận nầy.

Thế nhưng chính phủ của Thủ tướng Kevin Rudd đã bày tỏ rằng việc từ chối (không cho TQ mua)  hãng OZ Minerals sẽ không ảnh hưởng gì tới công ty Chinalco đang đề nghị mua  mỏ bô xít ở Rio Tinto.

Hiệu đính: Trần Hoàng

* Hãng Chinalco của Trung Quốc cũng đang tham gia dự án bô xít ở Tây Nguyên và đang thua lỗ nặng. Mời xem các bài liên quan trong mục “bô xít Tây Nguyên”

** Mỹ cũng không cho Trung Quốc mua lại những công ty lớn của Mỹ. Vào khoảng năm 2005 hay 2006, khi Trung Quốc muốn mua lại/ thuê lại một hải cảng của Mỹ để xử dụng, quốc hội Mỹ đã họp lại, biểu quyết và từ chối chấp thuận hành động ấy, viện dẫn lý do là đụng chạm tới an ninh quốc phòng.

Sau đó, Trung Quốc muốn mua một công ty năng lượng của Mỹ, quốc hội cũng không cho phép, nại lý do là các kỹ thuật cao trong công tác khai thác mỏ và rất nhạy cảm của Hoa Kỳ sẽ có thể bị một quốc gia nước ngoài chiếm dụng và lấy đi các bí mật ấy. Cả hai lần Trung Quốc đều bị từ chối.

Hiện tại, Mỹ vẫn ra lệnh cấm vận đối với TQ về các mặt hàng kỹ thuật cao, các kỹ thuật quốc phòng. Không có một công ty nào của Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ dám mua bán, nhượng quyền các sản phẩm kỹ thuật cao ấy cho Trung Quốc. Tất cả các nước Âu Châu, Nhật, Nam Hàn, đều phải tuân thủ lệnh cậm vấn áp đặt lên TQ của Mỹ.

 

theage.com.au

Don’t ban Chinese investment: Crean

April 9, 2009 – 5:21PM

Banning state-owned Chinese firms from buying local resources companies would jeopardise foreign investment in Australia, Trade Minister Simon Crean says.

Nationals senator leader Barnaby Joyce wants Chinalco’s bid to buy a stake in Rio Tinto blocked on the grounds that allowing a state-owned firm to invest locally would create a future dispute with an emerging superpower.

Mr Crean dismissed Senator Joyce’s argument, arguing that a ban on a Chinese sovereign wealth fund buying into an Australian resources company would discourage other countries from investing locally.

“What happens when we get banned in other countries,” Mr Crean told Sky News.

“If it’s good enough for us to ban one country, why won’t another country say to us `look we were thinking of investing in your country but look, you’ve put this ban on’.

“I understand the concerns that people have. We’ve got to try and address those concerns but we shouldn’t be cowered by them.”

Senator Joyce said while he wasn’t opposed to Chinese investment in Australia, he had concerns with a Chinese government-run enterprise owning a stake in Rio Tinto.

“If they are both the owner of the minerals in the ground in Australia and the purchaser of the minerals in China, then they’ll do what any accountant will tell them to do and that is to get the cheapest price possible,” Senator Joyce said.

“And if you try to dispute that, you’ve turned a corporate issue into a diplomatic one with an emerging superpower.”

Senator Joyce has appeared in a national television campaign against Chinalco’s bid to buy a $27.69 billion stake in resources giant Rio Tinto.

Treasurer Wayne Swan announced last month the government would not endorse aspects of China’s Minmetals’ $2.6 billion bid for OZ Minerals if a South Australian copper and gold mine near a weapons-testing range was included in the deal.

But the Rudd government has indicated the rejection of the OZ Minerals take over would not affect the Chinalco offer for Rio Tinto.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Trung Quốc | 2 Comments »

Một thời Chiến tranh

Posted by adminbasam trên 08/04/2009

THE WALL STREET JOURNAL

Một thời Chiến tranh

Có phải cuộc chiến tranh Việt Nam là ‘không thể chiến thắng’ hay không?

ARTHUR HERMAN

Ngày 7-4-2009

Cuộc chiến gây nhiều tranh cãi nhất đã kết thúc cách đây 34 năm vào tháng nầy. Có hai trường phái đưa ra ý kiến về những gì đã xảy ra ở Việt Nam.

Trường phái thứ nhất được dạy trong các trường đại học và trong những cuốn giáo khoa cho  rằng chiến tranh VN là cuộc chiến sai lầm, hiện diện không đúng chỗ và không đúng lúc. Vì sự hoang tưởng về Chiến tranh Lạnh, trường phái nầy tiếp tục câu chuyện, rằng Hoa Kỳ đã bị vướng vào giữa một cuộc nội chiến mà Bắc Việt Nam và nhà lãnh đạo của họ, ông Hồ Chí Minh, chắc chắn sẽ thắng và rằng Mỹ và đồng minh của họ, miền Nam Việt Nam, chắc chắn sẽ thua.

Trường phái thứ hai, mới xuất hiện gần đây hơn, liên quan tới sự tái xem xét các bằng chứng trên chiến trường và tại Ngũ Giác Đài — và rút ra chứng cớ từ chính những người miền Bắc Việt Nam — đang kết luận rằng quân đội Hoa Kỳ đã thành công hơn nhiều tại Việt Nam so với những gì mà người ta vẫn tưởng. Quan điểm của những người xét lại nầy cho rằng cuộc xung đột không phải chỉ có thể chiến thắng mà còn thắng lớn vào tháng Một năm 1973, khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết thuyết phục Bắc Việt Nam công nhận Nam Việt Nam và chấp nhận đường ranh giới giữa hai quốc gia nầy (một bản thỏa thuận mà miền Bắc ngay tức khắc đã vi phạm). Tuy nhiên, vào lúc đó, Quốc hội Hoa Kỳ đã từ chối không chịu hỗ trợ miền Nam Việt Nam nữa. Bởi vậy, nước Mỹ đã đứng qua một bên khi mà một tấn thảm kịch đã xảy ra sau đó và chắc có lẽ hai triệu thường dân vô tội đã bỏ mạng — và chủ nghĩa cộng sản đã giành được một chiến thắng không xứng đáng trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

Cuốn sách của John Prados “Việt Nam: Lịch sử của một cuộc Chiến tranh không thể thắng, 1945-1975″, như tựa đề của nó đã gợi lên, là một toan tính cố níu kéo những chướng ngại chống lại trường phái thứ hai (trường phái nhận thức mới) và làm hồi sinh trường phái thứ nhất (trường phái xưa cũ).

Ông Prados, một thành viên kỳ cựu của Cục Lưu trữ An ninh Quốc gia thuộc trường đại học George Washington University và, theo như ông nói với chúng tôi, đã là một người chống cuộc Chiến tranh Việt Nam, ông đưa ra một bức tranh chi tiết về một chính phủ Hoa Kỳ không có ước muốn để đương đầu với những sai lầm của họ và một quân đội Mỹ đã bị thất bại bởi một sự nổi dậy của lực lượng du kích quân. Ông thêu dệt câu chuyện về hoạt động phản chiến vào trong bản miêu tả về chính cuộc chiến tranh đó trong một nỗ lực phô bày cho thấy làm cách nào mà ông ta cùng những người phản chiến khác đã hiểu thấu sự không ích lợi gì của cuộc chiến (VN) sớm hơn rất nhiều những chính trị gia ở Washington.

Trên tất cả, ông Prados biện minh rằng nước Mỹ đã thất bại tại Việt Nam là bởi Mỹ “đã không hiểu cuộc cách mạng Việt Nam,” một cuộc cách mạng, theo quan điểm của ông, về căn bản là một cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thuộc địa.

Nhưng tấn bi kịch phơi bày ra sau khi người Mỹ rời khỏi Việt Nam đã gợi lên rằng các nhà lãnh đạo Mỹ, khởi đầu là Harry Truman, đã hiểu “cuộc cách mạng” Việt Nam quá rõ, ông coi Hồ Chí Minh không phải là một nhà dân tộc chủ nghĩa mà là một người ưa chuộng lý thuyết (CS) và có ước muốn làm công cụ  (tự nguyện) cho  cả Joseph Stanlin lẫn Mao Trạch Đông — nghĩa là, như một người đã sẵn sàng đưa chủ nghĩa cộng sản vươn xa mà không cần biết cái giá (chiến tranh) phải trả.

Trong điều này, ông Hồ tương tự nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên, Kim Nhật Thành. Trên thực tế, những nét tương đồng giữa Triều Tiên và Việt Nam đang trở nên ngày càng đáng chú ý hơn qua thời gian. Trong cả hai trường hợp, một chế độ theo chủ nghĩa Stalin ở miền Bắc đã cố gắng chiếm lấy nước láng giềng (Nam Hàn và Nam Việt Nam) ở phương nam của họ; trong cả hai trường hợp, quân đội Hoa Kỳ đã được triển khai để đẩy lui sự gây hấn. Ông Prados đã che đậy phần (sai lầm) này của câu chuyện, bằng cách không nói gì về việc làm thế nào mà chế độ (cộng sản) đã giành được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954 đã tàn sát một cách có hệ thống những đối thủ chính trị của họ và khủng bố  tầng lớp nông dân bằng nhiều cách thức đã chứng tỏ là tương tự một cách đáng sợ với những trò khủng bố kinh hoàng của Khmer Đỏ ở Cambodia 20 năm sau đó (1975-1978).

Ông Prados đặc biệt không muốn  thừa nhận rằng chính sự can thiệp của các đơn vị bộ binh Mỹ đã chận đứng trước tiên — và sau đó, trong cuộc Tổng tấn công Tết (Mậu Thân) tháng Một năm 1968 — đã bẻ gãy cuộc nổi loạn của Việt Cộng được Hà Nội hậu thuẫn tại miền Nam, đẩy quân đội Bắc Việt Nam phải rút lui vào nơi trú ẩn của họ tại Lào và Cambodia. Nỗ lực của chính quyền Nixon phá tan những nơi ẩn náu này và tăng cường cuộc chiến tranh trên không (cuộc ném bom) tại miền Bắc Việt Nam là thành quả cuối cùng bắt buộc Hà Nội phải ngồi vào bàn hội nghị thương lượng.

Thay vì đó, ông Prados đã đem tới cho chúng ta một cuộc chiến mà trong đó những người Mỹ chưa bao giờ làm bất cứ điều gì đúng và những người cộng sản chưa bao giờ làm bất cứ điều gì sai, cho tới khi cuối cùng hàng ngàn người biểu tình phản chiến, trong đó có John Kerry và các cựu bình Việt Nam Chống lại cuộc Chiến tranh, cùng xuống đường để buộc Washington và công luận Mỹ phải đối mặt với thực tế và rút ra khỏi Việt Nam.

Tuy nhiên, thực tế thì rõ ràng và khác xa với những gì được nhìn thấy, phái tả phản chiến đã dựng nên một phiên bản được tiểu thuyết hóa về những gì đang xảy ra tại Việt Nam. Ông Hồ độc tài đã được miêu tả sinh động như là một (tổng thống) George Washington Á châu; một chiến thắng có tính quyết định như dịp Tết (Mậu Thân 1968) thì được tô vẽ lên như là một sự thất bại của người Mỹ [1]. Người lính Mỹ bình thường đã được miêu tả như là một kẻ vũ phu sát nhân. Tương tự, cuộc ném bom vào Cambodia để ngăn chận cho đất nước đó khỏi bị Hà Nội tấn công chiếm giữ — một hành động mà các nhà lãnh đạo Cambodia và các nghị sĩ và dân biểu của Quốc hội đã biết rõ và đã chấp thuận — thì lại bị quy cho như là hành động bí mật và bất hợp pháp; và cuộc tấn công của Mỹ vào Cambodia năm 1970 phá tan các căn cứ trú ẩn của Bắc Việt Nam và giảm cường độ cuộc chiến đã được trình bày như là một hành động mở rộng chiến tranh.

Rồi sau đó, vào năm 1975, khi quân đội Bắc Việt với số lượng lớn lao đã tấn công miền Nam Việt Nam vi phạm hiệp định Paris không thể nào chối cải được và các bạn đồng minh của miền Bắc Việt Nam, như Khmer Đỏ, đã chiếm lấy Cambodia, một số các thành viên của phe cánh tả đã tổ chức kỷ niệm chiến thắng nầy của cộng sản cứ như là chiến thắng của chính họ — theo những ngôn ngữ chính trị đó là cuộc chiến thắng. Khi Sài Gòn sụp đổ, hàng tít lớn từ bài tường thuật trên tờ New York Times của Sydney Schanberg viết là: “Đông Dương Không còn Người Mỹ nữa: Đối với Đa số Mọi Người, một Cuộc sống sẽ Tốt đẹp hơn.”

Giờ đây chúng ta biết rõ hơn. Chúng ta biết về 65.000 người Nam Việt Nam đã bị tàn sát khi Hà Nội tiếp quản và về hàng ngàn thuyền nhân đã chết trong khi trốn chạy khỏi chính thể cộng sản và về con số có lẽ chắc chắn tới 250.000 người đã chết trong các trại cải tạo.

Thế nhưng ông Prados  kết thúc cuốn sách của mình bằng cách đơn giản kéo một tấm mạng che lên những gì đã xảy ra sau đó khi nước Mỹ đã rời bỏ Việt Nam và những người cộng sản đã tiếp quản.

Đó là một thực tế mà cánh tả (cộng sản) vẫn thường chống lại, khi đó cũng như bây giờ: những người Mỹ đã chiến đấu và hy sinh ở Việt Nam cho tự do, cũng giống  như công việc mà họ đang làm ở Iraq và Afghanistan hôm nay. Bất luận những sai lầm nào mà các vị tướng và các nhà hoạch định chính sách đã thi hành trong cuộc chiến ấy thì cũng không thể tách khỏi cái sự thật quan trọng nói trên—sự thật ấy phải là một phần của bất cứ thứ lịch sử đáng tin cậy nào.

Cuốn sách “Gandhi and Churchill: Sự tranh giành những thành tựu to lớn đã đánh bại một đế chế thuộc địa và nặn ra thời đại của chúng ta” của ông Herman sẽ được phát hành vào cuối tháng này.

Hiệu đính: Trần Hoàng

[1] theo tài liệu của miền Bắc, miền Nam và của Mỹ, cuộc tổng kết chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 cho thấy đã có 70.000 ngàn bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng đã chết, so với 4000 lính của miền Nam Việt Nam175 lính Mỹ đã chết, và khoảng hơn 10.000 thường dân vô tội  miền Nam đã bị thiệt mạng; trong ấy gần 6000 – 7000 người miền Nam bị cộng sản trói tay, bắn, đập đầu chôn sống tại thành phố Huế.

 
 

THE WALL STREET JOURNAL

A Time of War

Was the Vietnam War ‘unwinnable’?

APRIL 7, 2009

By ARTHUR HERMAN

America’s most controversial war ended 34 years ago this month. There are two school s of thought about what happened in Vietnam. The version taught in colleges and textbooks is that it was the wrong war in the wrong place at the wrong time. Thanks to Cold War paranoia, the story goes, the U.S. wound up caught in the middle of a civil war that North Vietnam and its leader, Ho Chi Minh, were bound to win and that America and its ally, South Vietnam, were bound to lose.

The second, more recent, version, involving a re- examination of the evidence on the battlefield and at the Pentagon — and drawing on testimony from the North Vietnamese themselves — concludes that the U.S. military succeeded far better in Vietnam than was once supposed. The revisionist view suggests that the conflict was not only winnable but largely won by January 1973, when the Paris Peace Accords were signed compelling North Vietnam to recognize South Vietnam and to honor the border between the two countries (an agreement the North immediately violated). By then, however, the U.S. Congress refused to support South Vietnam any further. So America stood on the sidelines while a tragedy ensued and perhaps as many as two million innocent people lost their lives — and communism won an unearned Cold War victory.

John Prados’s “Vietnam: The History of an Unwinnable War, 1945-1975″ is, as its title suggests, an attempt to hold the barricades against the new version and resuscitate the old. Mr. Prados, a senior fellow of the National Security Archive at George Washington University and, as he tells us, once a Vietnam War protester, offers a detailed picture of a U.S. government unwilling to confront its mistakes and an American military baffled by a guerrilla insurgency. He weaves the story of the antiwar movement into his account of the war itself in an effort to show how he and other protesters grasped the futility of the war far earlier than the politicians in Washington.

Mr. Prados argues, above all, that America failed in Vietnam because it “failed to understand the Vietnamese revolution,” which, in his view, was essentially a long anticolonial struggle. But the tragedy that unfolded after America left Vietnam would suggest that America’s leaders, starting with Harry Truman, understood the Vietnamese “revolution” only too well, seeing Ho Chi Minh not as a nationalist but as an ideological soul mate and willing tool of both Josef Stalin and Mao Zedong — that is, as a man prepared to extend communism’s reach regardless of the cost.

In this, Ho resembled North Korea’s leader, Kim Il Sung. In fact, the parallels between Korea and Vietnam become more striking over time. In both cases a Stalinist regime in the north tried to overrun its neighbor to the south; in both cases U.S. military force was deployed to fend off the aggression. Mr. Prados glosses over this part of the story, saying nothing about how the regime that took power in North Vietnam in 1954 systematically butchered its political opponents and terrorized the peasantry in ways that would prove to be frighteningly similar to those of the Khmer Rouge in Cambodia 20 years later.

Mr. Prados is particularly unwilling to concede that it was the intervention of American ground troops that first halted — and then, during the Tet Offensive of January 1968 — finally broke the Hanoi-backed Viet Cong insurgency in the South, compelling the North Vietnamese army to pull back to its sanctuaries in Laos and Cambodia. The Nixon administration’s effort to smash those sanctuaries and to intensify the air war over North Vietnam was what finally forced Hanoi to the negotiating table.

Mr. Prados gives us instead a war in which the Americans can never do anything right and the communists never do anything wrong, until finally thousands of antiwar protesters, including John Kerry and the Vietnam Veterans Against the War, take to the streets to force Washington and the American public to face reality and get out of Vietnam.

Far from seeing reality more clearly, however, the antiwar left constructed a fictionalized version of what was happening in Vietnam. The totalitarian Ho was portrayed as an Asian George Washington; a decisive victory like Tet was painted as an American defeat. The average American soldier was depicted as a murderous brute. Likewise, the bombing of Cambodia to prevent that country from being overrun by Hanoi — a move that Cambodia’s leaders and members of Congress knew about and approved — was branded as secret and illegal; and the American incursion into Cambodia in 1970 to break up North Vietnamese sanctuaries and wind down the war was presented as a move that widened it.

Then, in 1975, when a massive North Vietnamese army overran the South in blatant violation of the Paris treaty and the North’s former allies, the Khmer Rouge, took over Cambodia, certain members of the left celebrated the communist victory as if it were their own — which, in political terms, it was. When Saigon fell, the headline to Sydney Schanberg’s New York Times story read: “Indochina Without Americans: For Most, a Better Life.”

Now we know better. We know of the 65,000 South Vietnamese murdered when Hanoi took over and of the thousands of boat people who died fleeing the communist regime and of the perhaps 250,000 who died in re-education camps. But Mr. Prados ends his book by simply pulling a veil over what ensued when America left Vietnam and the communists took over.

It is a fact that the left routinely resists, then as now: Americans fought and died in Vietnam for freedom, just as they are doing in Iraq and Afghanistan today. Whatever mistakes generals and policymakers have made along the way cannot detract from that essential truth — which should be a part of any reliable history.

Mr. Herman’s “Gandhi and Churchill: The Epic Rivalry That Destroyed an Empire and Forged Our Age” appears in paperback later this month.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Chiến tranh VN, Lịch sử, Quân sự | Leave a Comment »

Một Ủy ban Sự thật và Hòa giải cho Trung Quốc

Posted by adminbasam trên 07/04/2009

Asia Sentinel

Một Ủy ban Sự thật và Hòa giải cho Trung Quốc

Mark O’Neill

Thứ Hai, ngày 6-4-2009

Một ý kiến thú vị, nhưng địa ngục trước tiên sẽ đông cứng lại.

Một nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng tại Bắc Kinh đã đề nghị Trung Quốc thành lập một Ủy ban Sự Thật và Hòa giải kiểu như của Nam Phi (TRC), để hàn gắn những vết sẹo đã để lại bởi cuộc đàn áp của quân đội Trung Quốc vào tháng Sáu năm 1989 *.

Đó là một ý kiến tốt nhất về cách làm sao để đương đầu với ngày kỷ niệm nhạy cảm nhất trong năm nay về một biến cố đã dẫn tới cái chết của 3.000 con người, đẩy hàng ngàn người vào vòng tù tội, nhục nhã và lưu đày và đã làm thay đổi tiến trình lịch sử của đất nước Trung Hoa, theo lời ông Dai Qing, một nhà hoạt động lâu năm người Trung Quốc, 68 tuổi.  Ông đã từng trả giá cho hoạt động của mình với một phần thời gian ở trong lao tù sau cuộc Thảm sát Thiên An Môn giết hại hàng trăm người, và ông cũng là người đã tham gia vào cuộc vận động chống lại việc xây Đập Tam Hiệp (ở thượng nguồn sông Dương Tử).

“Hai mươi năm đã trôi qua và chúng ta luôn nghe thấy hai giọng điệu mâu thuẫn nhau, ông Dai nói. “Đó là màu đen và màu trắng. Chúng ta không nghe giọng điệu nào khác. Trong khi hầu hết thông tin cơ bản đã không được tiết lộ, hai phe vẫn còn xung đột nhau.”

Ủy ban Sự thật và Hòa Giải (theo lời đề nghị của ông Dai) sẽ xuất trình bằng chứng chi tiết về những gì đã xảy ra, giải thích cho công chúng Trung Quốc những gì đã xảy ra và vì sao xảy ra, và giúp hàn gắn những vết thương vẫn rỉ máu sau 20 năm và hướng tới “xã hội hài hòa” là điều mà Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vẫn thường nói.

Đó là một ý kiến tốt đẹp đối với một đất nước đầy những xung đột và cay đắng, nhưng ý kiến ấy sẽ không bao giờ được thực hiện ở Trung Quốc. Ý kiến Hòa giải đã có thể được thực hiện ở Nam Phi bởi vì cả hai bên (người da trắng và da đen) đều đồng ý về những gì đã từng xảy ra (mấy chục năm) trước đó và chịu lắng nghe những câu chuyện được thuật lại từ phía bên kia.

Một sự đồng tâm nhất trí như thế tại Trung Quốc phải cần đến nhiều năm, có lẽ là nhiều chục năm, hay hơn nữa.

Chính quyền TQ sẽ không xem xét để phủ định phán quyết của họ vào ngày 4 tháng Sáu năm 1989 trong khi những người đã từng chấp thuận và hưởng lợi từ cuộc đàn áp tàn khốc đó, bao gồm Lý Bằng, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, đang còn sống.

Vì vậy, ngày kỷ niệm năm nay sẽ được đánh dấu y như những năm trước, bằng những biến cố tưởng niệm trên khắp thế giới và giữ im lặng như điếc ở Trung Quốc. Lễ kỷ niệm lớn nhất sẽ là ở Hong Kong, nơi duy nhất thuộc Trung Quốc được phép tiến hành.

Các nhà tổ chức hy vọng sẽ có tới 100.000 người tại một cuộc cầu nguyện thắp nến suốt đêm ở Công viên Victoria Park, nhưng một con số có có vẻ hợp ý hơn là 20.000 người, khi mà sự kiện này đã lùi xa vào quá khứ và một ý thức về lòng yêu nước đang tăng lên trong dân chúng Hong Kong.

Sự vắng mặt trong buổi lễ cầu nguyện nầy sẽ là những nhà lãnh tụ sinh viên ở Bắc Kinh năm 1989. Wang Dan, một trong những người nổi tiếng nhất, đang theo học tại đại học Oxford University, đã và đang xin chiếu khán nhập cảnh để tới Hong Kong. Đơn xin chiếu khán của anh chắc chắn là bị từ chối. Giống như hơn 500 người đã sống lưu vong vì sự tham dự của họ vào các cuộc phản kháng 1989, Wang không thể trở về Trung Quốc.

“Phải sống lưu vong là một sự đày ải, đặc biệt đối với gia đình tôi,” anh nói. “Trong khi cha mẹ tôi có thể đến và nhìn thấy tôi lúc này tại Hoa Kỳ, thì chuyến đi đó lại sẽ trở nên rất khó khăn cho họ do tuổi tác. Mẹ tôi lớn tuổi rồi và bà bị đau tim.”

Hộ chiếu Trung Quốc của anh đã hết hạn năm 2003. Anh đã xin hộ chiếu mới tại tòa lãnh sự Trung Quốc ở Hoa Kỳ. Tòa lãnh sự đã từ chối cấp cho anh và anh đã từ chối xin vào quốc tịch Hoa Kỳ, anh nói rằng anh là một người yêu nước muốn đóng góp cho quê mẹ.

Một vị giáo sĩ Cơ đốc ở Hong Kong, ông Chu Yiu-ming, đang lãnh đạo một cuộc vận động có tên là “Tôi Muốn Về Nước” nhằm cố gắng thuyết phục Bắc Kinh hãy để cho những người lưu vong quay trở về và trả lại hộ chiếu Trung Quốc cho họ.

Chính phủ vẫn không có hành động gì. Đường lối của chính quyền cho rằng các sinh viên nầy là những thủ lãnh của phong trào chính trị của một hoạt động “phản cách mạng” mà, nếu như thành công, thì đã ném đất nước này vào những cảnh hỗn loạn và (vì vậy) việc đàn áp thẳng tay là cần thiết để đảm bảo sự ổn định xã hội, nền tảng cho sự (phát triển) thần kỳ về kinh tế trong 20 năm qua.

Ông Hồ Cẩm Đào thường nói rằng sự ổn định này là thứ tuyệt đối cần thiết cho công cuộc phát triển của Trung Quốc; không có nó, đất nước này không thể đạt được điều gì và sẽ mất đi những lợi ích quý giá của mình trong các tiêu chuẩn sống, tiến bộ kỹ thuật và hòa bình trong khu vực.

Trong suốt 20 năm qua, các học giả vẫn đều đặn xem xét lại những biến cố của năm 1989 và đặt câu hỏi rằng liệu kết cục có thể khác đi hay không. Chính phủ đưa ra số người chết là khoảng từ 200 đến 300 và các sinh viên thì cho rằng (số người chết) từ 2000 đến 3000 người.

“Trách nhiệm chính cho những gì đã xảy ra là nằm ở phía chính quyền, chính quyền không nên sử dụng quân đội chống lại những thường dân không có vũ khí,” Jin Zhong, biên tập viên của tờ Kaifang (Mở cửa), một trong những tạp chí đang được đọc nhiều nhất ở Hong Kong.

“Thế nhưng cộng đồng trí thức cũng phải chịu một trách nhiệm nặng nề. Vào cuối tháng Năm năm 1989, mọi thứ đã trở nên hỗn loạn. Những sinh viên đã bị bối rối và không biết chắc chắn sẽ làm gì. Họ cần có ai đó hướng dẫn. Sau khi chính phủ tuyên bố thiết quân luật, rõ ràng rằng quân đội sẽ được sử dụng.

Giới trí thức cần phải đứng ra và lãnh đạo sinh viên rời khỏi quảng trường [Thiên An Môn]. Họ cần phải đóng vai trò đó giống như vai trò của các nhà lãnh đạo khác ở Đông Âu và Liên Xô, như Vaclav Havel và Andrei Sakharov,” ông nói.

Ông nói tiếp, những giới trí thức trước đó đã từng bị đe doạ và làm cho sợ hãi trong nhiều năm xảy ra các cuộc vận động và bị khủng bố trong thời Mao-ít và vài người đã dám bước lên trước.

Ngay trước 5 giờ sáng ngày 19 tháng Năm 1989, tổng bí thư Triệu Tử Dương lúc đó đã tới thăm các sinh viên trên Quảng trường Thiên An Môn và đề nghị họ ngưng cuộc tuyệt thực. “Chúng tôi thì già rồi và việc đó không quan trọng gì nhiều với chúng tôi. Nhưng các em còn trẻ và khỏe mạnh. Đừng tự hy sinh bản thân quá dễ dàng như vậy,” ông nói, nét mặt đầy u sầu và báo hiệu điềm gở.

Ông đã nói chuyện với sinh viên một cách minh bạch và thẳng thắng và nói rằng chính quyền sẽ sử dụng quân đội và rằng họ cần phải rời khỏi quảng trường.

Các sinh viên đã bỏ qua những lời cảnh báo của người đàn ông mà họ kính trọng như là một Gorbachev của Trung Quốc và họ đã trả một cái giá khủng khiếp.

“Nếu họ rời khỏi quảng trường, thì ông Triệu Tử Dương có lẽ đã thắng và lịch sử sẽ khác đi,” ông Jin nhận định. “Trung Quốc ngày nay sẽ là một đất nước khác rồi. Thay vào đó, những kẻ theo đường lối cứng rắn đã thắng. Bài học mà những người theo đường lối cứng rắn đã học được là quí vị nên siết chặt giới truyền thông hay xã hội dân sự. Trên 20 năm qua, những cải cách chính trị đã quay trở về thời kỳ xa xưa.

Hiệu đính: Trần Hoàng

* Mời xem thêm các bài trên BBC liên quan tới sự kiện này: “Lời kể của nhân chứng Thiên An Môn“; “Triệu Tử Dương và Thiên An Môn“; “Đặng Tiểu Bình và Thiên An Môn“; “Thiên An Môn: Khoảnh khắc không quên“.

 
 

Asia Sentinel

A Truth and Reconciliation Commission for China

Written by Mark O’Neill

Monday, 06 April 2009

A nice idea, but hell will freeze over first

A prominent human rights activist in Beijing has proposed that China set up a South Africa-style Truth and Reconciliation Commission (TRC), to seal the scars left by the military crackdown in June 1989.

It is the best idea of how to deal with the most sensitive anniversary this year of an event that left up to 3,000 people dead, sent thousands to prison, disgrace and exile and changed the course of China’s history, says Dai Qing, a 68, longtime Chinese activist who has paid for his activism with a stint in prison after the Tiananmen Massacre, which left hundreds dead, and who has campaigned against the Three Gorges Dam.

“Twenty years have passed and we always hear two conflicting voices, Dai said. “It is black or white. We do not hear other voices. While the most basic information has not been revealed, the two sides remain in conflict.”

The commission would present detailed evidence of what happened, explain to the Chinese public what happened and why and help to heal the wounds still raw after 20 years and work toward the ‘harmonious society’ of which President Hu Jintao speaks often.

It is a fine idea for a country full of conflict and bitterness but one that will never be implemented. It was possible in South Africa because both sides agreed on what had happened and to hear from the other their version of the story. Such a consensus in China is years, perhaps decades, away. The government will not consider reversing its verdict on June 4 while those who approved and benefited from the crackdown, including Li Peng, Jiang Zemin and Hu Jintao, are alive.

So the anniversary will be marked this year, as in previous ones, by commemorative events around the world and deafening silence at home. The largest will be in Hong Kong, the only place in China where one is allowed. The organizers hope for up to 100,000 at a candelight vigil in Victoria Park but a more likely figure is 20,000, as the event recedes into the distance and a sense of patriotism grows among Hong Kong people.

Absent from it will be the student leaders in Beijing in 1989. Wang Dan, one of the most prominent, who is studying at Oxford University, has applied for a visa to come to Hong Kong. His application is likely to be refused. Like more than 500 people exiled because of their participation in the protests, Wang cannot return to China.

“To live in exile is a torment, especially for my family,” he said. “While my parents can come and see me now in the United States, such a journey will become more and more intolerable for them in their old age. My mother is old and her heart is weak.”

Wang’s Chinese passport expired in 2003. He applied for a new one at a Chinese consulate in the U.S. It refused to give him one and he has declined to take U.S. citizenship, saying he is a patriot who wants to make a contribution to his motherland.

A Hong Kong Baptist minister, Chu Yiu-ming, is leading a campaign named ‘I Want to Go Home’ to try to persuade Beijing to let the exiles return and give back their Chinese passports.

The government is unmoved. Its line is that the students were the vanguard of a ‘counter-revolutionary’ movement that, if successful, would have thrown the country into chaos and that the crackdown was necessary to ensure social stability, the basis for the economic miracle of the last 20 years.

Hu Jintao says often that this stability is the sine qua non of China’s development; without it, the country can achieve nothing and would lose its precious gains in living standards, technological progress and regional peace.

During these 20 years, scholars have constantly reviewed the events of 1989 and asked if the outcome could have been different. The government put the number of dead at 200-300 and the students the number at 2,000-3,000.

“The primary responsibility for what happened rests with the government, which should not have used the military against unarmed civilians,” said Jin Zhong, editor of Kaifang (Open), one of the best China-watching magazines in Hong Kong.

“But the intellectual community also bears a heavy responsibility. By the end of May 1989, things were chaotic. The students were confused and not sure what to do. They needed someone to guide them. After the declaration of martial law, it was clear that the army would be used. The intellectuals should have come forward and led the students out of the square. They should have played the role of those in Eastern Europe and the Soviet Union, like Vaclav Havel and Andrei Sakharov,” he said.

He said the intellectuals had been cowed and intimidated by years of campaigns and persecution in the Maoist era and few dared to come forward.

Just before 0500 on May 19, then party chief Zhao Ziyang visited the students on Tiananmen Square and told them to end their hunger strike. “We are already old and it does not matter to us any more. You are young and healthy. Do not sacrifice yourself so easily,” he said, his face full of sadness and foreboding.

He was telling the students as plainly as he could that the government would use the army and that they should leave the square. They ignored the warnings of the man they revered as the nearest to China’s Mikhail Gorbachev and paid a terrible price.

“If they had left the square, Zhao Ziyang may have won and history would have been different,” said Jin. “China today would be a different country. Instead, the hardliners won. The lesson they learnt was that you should leave no space to the media or civil society. Over the last 20 years, political reforms have gone back.”

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Chính trị, Dân chủ/Nhân Quyền, Lịch sử, Trung Quốc | Leave a Comment »

Con đường dơ dáy dẫn tới Hà Nội – quang cảnh cũ và mới ở Việt Nam

Posted by adminbasam trên 06/04/2009

examiner.com

Con đường dơ dáy dẫn tới Hà Nội – quang cảnh cũ và mới ở Việt Nam

Doug Kelly

Ngày 2-4-2009

Khi chiếc xe buýt của chúng tôi lăn bánh dọc theo tuyến quốc lộ loang lổ chắp vá tới Hà Nội, tôi ngắm nhìn với niềm say mê trước những cánh đồng lúa trải dài bất tận.

Không có bất cứ thiết bị cơ giới hóa nào được thấy ở đây, thay vào đó là việc sử dụng những con trâu nước có từ bao thế hệ xa xưa để kéo những chiếc cày và lao động chân tay thường chiếm ưu thế *.

Những dáng người cúi lom khom có thể được trông thấy ở đây đó, họ đội những chiếc mũ được đan thành hình nón rất đáng chú ý, và tôi đã phải lấy làm ngạc nhiên về sự chăm sóc riêng lẻ mà họ có vẻ như dành cho từng cây lúa bé nhỏ.

Một cách trùng hợp, vào lúc đó người hướng dẫn viên du lịch của chúng tôi loan báo qua micro của anh ta rằng những người dân lao động này thường ra đồng trước khi mặt trời mọc và ở lại đó cho tới khi trời tối, và anh nói thêm rằng những nông dân trông nom ruộng “… với lối chăm sóc của một con mèo mẹ quá quan tâm tới lũ mèo con của nó.”

Trong những nơi đông dân cư hơn, một người công an nào đó trong một bộ đồng phục xanh ô-liu có thể được dễ dàng nhận ra trên hầu hết mọi khu vực.

“Tội phạm tràn lan ở đây, hay nó thực sự là một vấn đề để đảm bảo rằng dân chúng phải ở trong những giới hạn theo danh nghĩa an ninh?” một người nào đó đã hỏi với vẻ chú ý. Chàng hướng dẫn viên ngập ngừng trước khi trả lời, cách dùng chữ của anh ta được xem là cân nhắc thận trọng.

“Công an không mang súng,” anh đáp, và không nói gì thêm cả. Rõ ràng là anh ta đã không muốn thảo luận thêm về đề tài này và điều đó đem lại cảm giác rằng, quả vậy, là các giới chức Cộng sản muốn giám sát và nghe ngóng ở mọi cộng đồng dân chúng.

Một trong những khía cạnh đáng chú ý trên cuộc hành trình dài là: nhiều ngôi nhà dọc theo tuyến quốc lộ chính có mặt tiền bé nhỏ đang bán các loại thức ăn, đồ uống và các đồ cần dùng khác.

Những căn nhà nầy thường nằm kề nhau trông như những sạp hàng ở một cái chợ trời, và bất cứ ai cũng có thể tự hỏi là làm thế nào mà họ đã xoay xở để kiếm được tiền khi túm tụm lại với nhau và cùng bán những thứ hàng hóa giống hệt nhau như vậy.

Người hướng dẫn viên của chúng tôi giảng giải rằng những căn nhà mặt tiền đang có nhu cầu cao vì sau buổi làm việc người ta có thể bán hàng cho những người đi xe máy ngang qua.

Buồn thay, rác rưởi vương vải khắp mọi nơi, và có vẻ đáng ngờ rằng không có hình thức nhặt rác nào hay lòng hãnh diện về thành phố của thị dân đang tồn tại.

Tình cảnh giống y như vậy với những đống sỏi đá và những đống vật liệu xây dựng bị vứt bỏ.

Tại một đoạn đường người ta trông thấy một người đàn ông bên vệ đường đang nhét những thứ gì đó vào trong một cái túi dựng rác, nhưng chàng hướng dẫn viên của chúng tôi giải thích là anh ta chỉ đang nhặt những đầu thuốc lá mà thôi.

Giữa những ngôi nhà tồi tàn và bằng chứng của tình cảnh nghèo túng thảm hại chẳng còn hy vọng gì nữa là những căn nhà đẹp đẽ và các tòa nhà chung cư mới được xây dựng gần đây – mặc dù có nhiều quần áo được phơi cho khô – đưa ra bằng chứng rằng sự tiến bộ không phải là không nằm trong tầm tay đối với mọi người trong một đất nước đang thay đổi nhanh chóng và gây nhiều tranh cãi này.

Hiệu đính: Trần Hoàng

Ha ha đường lối được nhà nước đề ra năm 1976: “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, trên cơ sở phát triển nông và công nghiệp nhẹ..”, nào là điện khí hóa, là cơ giới hóa nông nghiệp… ở đâu “rùi”? mà ở trên đường vào thủ đô của xã hội chủ nghĩa vào năm 2009 khách ngoại quốc vẫn còn nhìn thấy tồn tại cảnh con trâu đi trước cái cày theo sau, vẫn còn người nông dân vẫn phải chăm sóc từng cây lúa và ở trên cánh đồng từ bình minh đến lúc trời sẩm tối…như thời thuộc địa trước năm 1945.

- Công an ở khắp nơi mỗi góc đường vì các giới chức cộng sản muốn giám sát và nghe ngóng mọi cộng đồng dân chúng, vì phố xá không an ninh... Rác rưởi vương vải khắp nơi.

– Áo quần phơi trước nhà

– Rác rến vương vãi khắp nơi

*Chỉ còn mười năm nữa là “hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, theo như kế hoạch đề ra … Ngộ quá ta?!

 

The (filthy) road to Hanoi — Vietnam’s view of the old and new

As our bus rolled along the patchy highway to Hanoi, I looked with fascination at the endless expanses of rice fields. No mechanized equipment was ever viewed, and instead the generations-old method of water buffalo pulling tillers and hand labor prevailed.

Stooped figures could be seen here and there wearing the distinctive conical weaved hats, and I marveled at the individual care they seemed to dedicate to each little plant. Coincidentally, at that moment our guide announced on his microphone that workers usually arrive in the fields before sunup and stay well past dark, adding that they tend the fields “… with the care of a cat fussing over her kittens.”

In more populated areas, a police officer in an olive green uniform could be conspicuously viewed on nearly every block. “Is crime that rampant here, or is it really a matter of ensuring that the populace stays in line in the name of security?” someone asked pointedly. The guide paused before answering, his words measured.

“The police carry no guns,” he replied, and said no more. He obviously didn’t wish to discuss the topic further and it left the impression that, indeed, the Communist authorities want eyes and ears in every community.

One of the more interesting aspects of the long drive: Many of the homes along the main highway contain small storefronts selling food, drinks and other convenience store items. They’re often side-by-side like booths at a flea market, and one could only wonder how they managed to make any money clustered together and selling the same merchandise. Our guide advised that road-front houses are high in demand because after work people can sell to passing motorists.

Sadly, trash is scattered everywhere, and it seems doubtful that any type of garbage pickup or sense of civic pride exists. The same goes for piles of rubble and discarded building materials. At one point a man on the side of the road was observed putting objects into a trash bag, but our guide advised ht was only collecting cigarette butts. Among the rundown dwellings and evidence of abject poverty appear nice homes and recently built apartment buildings – albeit it many with clothes hung out to dry – giving evidence that progress isn’t out of reach for everyone in this rapidly changing, controversial country.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Môi trường, Văn hóa | Leave a Comment »

Công Nhân Việt Nam Hiện Nay Ra Sao

Posted by adminbasam trên 05/04/2009

Những Người Công Nhân Việt Nam đang sa cơ lỡ vận ở các Thành phố lớn

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho những người công nhân Việt Nam gục ngã

Matt Steinglass – Tạp chí GlobalPost

Ngày 3-4-2009

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH — Hai năm về trước chị Lê Thị Cúc, 35 tuổi, rời bỏ làng quê thuần nông của mình ở Tỉnh Quảng Bình thuộc miền trung và đến thành phố lớn để kiếm một việc làm tại một nhà máy may quần áo. 10 giờ một ngày, 6 ngày một tuần, chị may những chiếc áo thun (T- shirt) cho các thương hiệu của các nước phương Tây như Old Navy và The Gap, lương khoảng 60 đô la một tháng.

Khoản tiền đó không phải là nhiều, chỉ đủ cho chị tiêu xài cho bản thân và gửi về nhà 10 đô la cho cha mẹ già và năm người anh em, nhưng cũng còn tốt hơn cái tình cảnh nghèo túng tuyệt vọng ở Quảng Bình, và chị đã có đủ lý do để nghĩ rằng mọi chuyện sẽ được cải thiện.

Việt Nam vừa mới tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO], nền kinh tế đã từng tăng trưởng 7% mỗi năm kể từ năm 2000, đầu tư nước ngoài đang được rót vào, và mọi người đang nói rằng trong vòng một hoặc hai chục năm nữa đất nước có thể sẽ giàu lên bằng Thái Lan.

Ngồi trên một chiếc chiếu cói trải giữa sàn căn phòng rộng hơn 9 mét vuông thuê chung cùng 4 công nhân may mặc khác, chị Cúc cho biết tinh thần lạc quan bao nhiêu mà hai năm trước chị đã từng có, thì bây giờ đã biến mất hết rồi.

Chị đã và đang bị thất nghiệp kể từ tháng Mười hai năm 2008. Công ty may Collan Inc. mà chị từng làm đã cắt giảm 1000 trong tổng số 3000 công nhân mà họ có vào năm ngoái. Với nhu cầu tiêu dùng tại Hoa Kỳ, Âu châu và Nhật Bản sút giảm đột ngột vào mùa thu năm 2008, xuất khẩu của Việt Nam, cỗ máy cái trong nền kinh tế nước này, đã rơi xuống vực thẳm.

Dù vậy, chị Cúc vẫn đang cố bám lấy thành phố, gửi đi những lá đơn xin việc. Cho tới lúc này, chị vẫn không nhận được bất cứ hồi âm nào.

“Tôi quá mệt mỏi cho số phận của mình rồi,” chị Cúc than thở.

Ngày nay có hàng nhiều chục ngàn người như chị Cúc ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vào tháng Mười hai, tài liệu của tổ chức công đoàn do nhà nước quản lý ở địa phương cho biết thành phố đã có 30.000 người mất việc làm trong tháng Mười một. Trong khi với phần còn lại của Việt Nam, theo bà Nguyễn Thị Hải Vân, vụ phó Vụ Lao động và Việc làm của chính phủ [Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội], đã ước lượng vào đầu tháng ba rằng tổng cộng số việc làm bị mất trong nửa năm đầu có thể lên tới 300.000.

Những số liệu đó chỉ áp dụng cho thiểu số những công ăn việc làm của Việt Nam trong khu vực chính thức — ví dụ như ở các công ty sở hữu của nước ngoài, những nơi phải báo cáo mức tiền lương với cục thuế. Trong những doanh nghiệp nhỏ sở hữu gia đình theo lối không chính thức tạo ra giá trị chủ yếu của nền kinh tế, thì không có cách gì để nói được có bao nhiêu công ăn việc làm đang bị biến mất.

Trong khi đó, dân số Việt Nam thuộc loại trẻ: theo cơ quan Phát triển của Liên hiệp quốc UNDP, lực lượng lao động đang tăng lên mỗi năm một triệu công nhân. Cũng theo báo cáo này của UNDP ước tính rằng để tìm công ăn việc làm cho họ, và cho mỗi năm 200.000 người rời bỏ nghề nông để kiếm việc làm trong các nhà máy như chị Cúc, nền kinh tế sẽ phải tăng trưởng trên 8,5%. Thay vào đó, mức tăng trưởng năm nay ước đạt từ khoảng từ 5,5% theo Ngân hành Phát triển châu Á, cho tới 0,3% theo tổ chức Economist Intelligence Unit.

Theo truyền thống, các công nhân Việt nam khi mất việc làm có thể quay lại làng quê của họ để tìm kiếm sự hổ trợ. Họ trở về với thân nhân, những người phải chia sẻ thêm vài ba bát cơm từ vụ mùa màng hàng năm. Thế nhưng vào lúc này, điều đó có thể sẽ khó khăn hơn. Nền nông nghiệp của Việt Nam đã và đang dần dần hợp nhất lại về tay một người chủ (nào đó) cho có hiệu quả hơn, và nhiều gia đình nghèo không có ruộng đất riêng của họ.

“Tôi không thể trở về làng quê, ở đó chẳng có việc gì mà làm cả,” theo lời của người từng cùng làm việc với chị Cúc tại Collan, cô Đinh Thị Hạ. Hạ cũng như Cúc tới từ vùng quê Quảng Bình nghèo túng, cũng đã bị mất việc hôm 20 tháng Một năm 2009, và cô đã trở về làng trong dịp đón năm mới, Tết âm lịch. Không thể tìm được việc làm, cô đã trở lại Thành phố Hồ Chí Minh, và kể từ đó cô đang cố gắng tìm lấy một việc làm.

“Hai năm trước tôi đã từng hy vọng là mình có thể tiết kiệm được một ít tiền,” Hạ kể. “Thế nhưng điều đó giờ đã bay biến lên trời rồi.”

Những công nhân không thể trở về nhà buộc phải làm việc bán thời gian, những công việc không chính thức để kiếm sống. Lê Xuân Thông, 38 tuổi, đang kiếm được một khoản lương ổn định 200 đô la một tháng như là một người bán hàng cho một siêu thị bán máy truyền hình Sanyo cho tới khi bị mất việc vào tháng Mười một. Giờ thì anh lái một chiếc “xe ôm,” hay còn gọi là xe taxi hai bánh, chạy trên những con đường của Thành phố Hồ Chí Minh.

“Vào một ngày thuận lợi, tôi có thể kiếm được 100.000 đồng (6 đô la Mỹ). Gặp ngày không may …” Thông nhún vai. “Tôi phải làm việc. Tôi có một đứa con gái sáu tuổi.”

Với những người khác, sự sụp đổ của nền kinh tế như hiện nay là điều khó khăn hơn nhiều. Thuyên, 23 tuổi, lớn lên trong một làng quê miền núi vùng biên giới với Trung Quốc, và đã di chuyển tới Hà Nội năm 2005 để làm việc tại một nhà máy dây cáp điện của Nhật. Cô bị mất việc tháng Mười hai năm 2008, nhưng vẫn chưa cho cha mẹ biết nơi giờ đây cô đang làm ở chỗ nào: một phòng đấm bóp.

“Khi em tốt nghiệp phổ thông, em chỉ muốn trở thành một công nhân thôi,” Thuyên tâm sự. “giờ thì em lo là ai đó quen biết sẽ nhìn thấy em đang làm trong quán đấm bóp này. Nhưng em không có lựa chọn nào khác cả.”

Hiệu đính: Trần Hoàng

 

 

Ngày 03.04.2009 Giờ 14:33

Thâm hụt ngân sách và gánh nặng tăng trưởng

Dù tăng thu trong mấy năm gần đây, nhưng ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu

Các nhà hoạch định chính sách vĩ mô đang chuẩn bị phương án bội chi ngân sách tăng lên 8% GDP để trình ra kỳ họp quốc hội vào tháng 5 tới, thay vì mức gần 5% được chấp nhận trước đây.

“Việt Nam khó có lựa chọn khác với các quốc gia trên thế giới, khi các chính phủ buộc phải tăng bội chi ngân sách nhằm chống suy thoái,” giám đốc quốc gia ADB Ayumi Konishi bình luận.

Mức bội chi này, nếu được Quốc hội thông qua, sẽ lần đầu tiên vượt qua số chi cho đầu tư phát triển ở mức 112,8 ngàn tỉ đồng trong năm nay.

Tuy vậy, mức bội chi lên đến 8% GDP đang mang lại những quan ngại sâu sắc về ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn.

Mức bội chi này sẽ tương đương với 144,8 ngàn tỉ đồng (khoảng 8,5 tỉ USD, với tỷ giá là 17.000 VND/USD), căn cứ trên mức bội chi đã được Quốc hội thông qua là 87,3 ngàn tỉ đồng (khoảng 5,1 tỉ USD) tương ứng với 4,82% GDP.

Như vậy, mức thâm hụt này là trầm trọng nhất trong vòng nhiều năm qua, so với các mức thâm hụt 66,2 ngàn tỉ đồng (năm 2008), 56,5 ngàn tỉ đồng (năm 2007), 48,5 ngàn tỉ đồng (năm 2006) và 40,7 ngàn tỉ đồng (năm 2005), theo các bộ Tài chính và Kế hoạch và đầu tư (xem biểu đồ).

Những thống kê trên cho thấy, thâm hụt ngân sách của năm 2009 sẽ vượt quá mức thâm hụt trung bình 5% GDP hàng năm, từ đầu thời kỳ kế hoạch 5 năm đến nay. “Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro lớn về khả năng trả nợ trong tương lai”, một quan chức của bộ Kế hoạch và đầu tư thừa nhận.

Câu hỏi đặt ra là, vì sao phải đưa mức bội chi lên đến 8% GDP cho năm nay, và liệu nó có quá đi so với khả năng chịu đựng của nền kinh tế? “Chúng tôi thấy rằng, nếu trường hợp ta giảm chi, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động của Nhà nước, đặc biệt là chính sách an sinh xã hội”, thứ trưởng bộ Tài chính Nguyễn Công Nghiệp nói trên Thời báo Kinh tế Việt Nam.

Giải thích này xuất phát từ quan ngại nguồn thu ngân sách sẽ co lại do suy giảm từ các nguồn dầu thô (vốn chiếm tới 25% thu ngân sách), giãn thu thuế thu nhập cá nhân, giãn và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 50% thuế VAT… Mức suy giảm của các nguồn này, theo bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh tại phiên họp giao ban của Chính phủ, sẽ vào khoảng 12.000 tỉ đồng (706 triệu đô la).

[năm ngoái 2008, VN bán dầu ra nước ngoài thu về được 10,2 tỉ đô la (báo Vietnamnet đăng), khi ấy giá dầu tính trung bình  suốt cả năm 2008 là  100 đô / 1 thùng. Năm nay, giá dầu từ đầu năm tới nay dao động 40-50 đô / 1 thùng và tình hình nầy, thì giá dầu sẽ giữ nguyên như vậy cho đến hết năm 2009. Như vậy,  chỉ tính riêng dầu hỏa, năm 2009, VN sẽ bị thất thu tối thiểu 5 tỉ đô la so với năm 2008. Nhưng, ở phía trên, ông V. V. Ninh tính là 706 triệu đô la. Thật đáng nghi ngờ

Báo Saigon Giao dịch Chứng khoán ngày 2-1-2009 cũng đưa ra con số 6 tỉ đô la thất thu vì giá dầu xuống : ” Các công ty sản xuất, kinh doanh đơn thuần sẽ phải vật lộn để tồn tại. Nếu tình trạng giá dầu thô dưới 40 đô la Mỹ/thùng kéo dài, PetroVietnam cho biết kim ngạch xuất khẩu dầu giảm ít nhất 6 tỉ đô la Mỹ. Khi đó liệu doanh thu, lợi nhuận của những công ty liên quan đến dầu khí như PVS (dịch vụ tổng hợp dầu khí), PVC (dung dịch khoan và hóa phẩm dầu khí), PVI (bảo hiểm dầu khí), PVD (khoan và dịch vụ khoan dầu khí), PVT (vận tải dầu khí)… có giữ được mức của năm nay, năm mà có lúc giá dầu lên tới 147 đô la Mỹ/thùng và dù có giảm vào cuối năm, giá dầu bình quân cả năm vẫn khá cao?  http://www.sgdck.com/NewsDetail.aspx?cid=14&id=8407 ]

Điều này có nghĩa là, tổng thu cân đối ngân sách năm nay dự kiến sẽ còn 377,9 ngàn tỉ đồng, thay vì 389,9 ngàn tỉ đồng như cam kết với Quốc hội trước đây; và sẽ thấp hơn nhiều so với dự toán chi 491,3 ngàn tỉ đồng cho năm 2009.

Lý giải việc thâm hụt ngân sách luôn tăng cao, một quan chức của bộ Kế hoạch và đầu tư nói, “dù tăng thu trong mấy năm gần đây, nhưng ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu”.

Thông thường, thâm hụt ngân sách được tài trợ bởi các nguồn vay trong và ngoài nước dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ. Trong động thái ủng hộ đề xuất tăng bội chi ngân sách của Chính phủ, Quốc hội dự kiến cho phép phát hành trái phiếu Chính phủ năm nay lên đến 64 ngàn tỉ đồng (3,8 tỉ đô la) trong kỳ họp tháng 5 tới, tăng gần gấp đôi so với kế hoạch 36 ngàn tỉ đồng (2,5 tỉ đô la) thông qua cuối năm ngoái.

Những bước đi này khiến các nhà tài trợ chính của Việt Nam e ngại. “Bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn vốn trong nước sẽ làm tăng lượng cung tiền, hoặc hạn chế đầu tư tư nhân, hoặc cả hai điều này; và trong trung hạn, có thể làm tăng lạm phát và gây cản trở đối với tăng trưởng”, ông Konishi, giám đốc ADB tại Việt Nam nói.

ADB cho rằng, thâm hụt ngân sách của Việt Nam, thậm chí lên tới 9,8% GDP (gần 9,3 tỉ USD) trong năm 2009. Ông Konishi cảnh báo, chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng, và nợ công tăng thêm (dự kiến 45,8% GDP năm 2009),… có thể lại khiến tình hình kinh tế vĩ mô bất ổn trở lại.

Trong khi đó, ngân hàng Thế giới tỏ ra hoài nghi về chính sách tài khoá, vốn sẽ vẫn là công cụ chính sách vĩ mô quan trọng của Việt Nam. “Chính sách tài khoá hiệu quả đòi hỏi phải có nguồn thông tin đáng tin cậy về thu và chi của Chính phủ và kiểm soát tốt các dự án đầu tư công. Việt Nam còn nhiều thiếu sót về cả ba mặt này. Tính toán cân đối ngân sách của Việt Nam còn khác xa so với các chuẩn mực quốc tế”, chuyên gia kinh tế trưởng của ngân hàng Thế giới Martin Rama nhận xét trong báo cáo phát triển Việt Nam năm 2009.

Ông viết tiếp: “Việc trả nợ, duy trì tài khoản ngoại bảng và xử lý các khoản thu kết chuyển làm sai lệch tình hình ngân sách của Chính phủ. Thông tin đặc biệt yếu về các dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách… Chính phủ cần chấm dứt, hoặc tạm dừng một cách có hệ thống các dự án mục tiêu không rõ ràng, thiếu vốn, hay có kết quả hoạt động kém”.

Tư Giang

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Kinh tế Việt Nam, Người Việt: cư trú/LĐ ở nước ngoài | Leave a Comment »

Việc đấu thầu của Trung Quốc ở Rio Tinto đang gây tranh cãi

Posted by adminbasam trên 04/04/2009

Trung Quốc mua mỏ Nhôm ở Việt Nam, Úc, Phi Châu…thua lỗ cũng mua. Người Úc đang phản đối và đang xem xét lại quyết định của ban quản lý mỏ.

Ngược lại, chính phủ Việt  Nam cũng giống như Phi Châu, họ đang ủng hộ tối đa việc bán mỏ nhôm. Họ không quan tâm đến thiệt hại môi trường và sự phản đối quyết liệt của dân chúng. Học tập đạo đức cách mạng là: Đầy tớ nói, chủ phải nghe lời. Nhớ chưa!

 

Asia Sentinel

Việc đấu thầu của Trung Quốc ở Rio Tinto đang gây tranh cãi

Thông tín viên của bản báo

Thứ Sáu, ngày 3-4-2009

Có phải những công ty quốc doanh được trợ cấp tiền bạc bởi nhà nước Trung Quốc đang giúp vào việc giành được mỏ nhôm ở nước Úc hay không?

Việc đấu thầu của Trung Quốc để giành lấy một cổ phần chính ở mỏ Rio Tinto khổng lồ của Anh-Úc đang dẫm lên chân nhiều người hơn là chỉ có (dẫm chân lên) những nhà dân tộc chủ nghĩa muốn bảo vệ tài nguyên ở nước Úc.

Lời đề nghị bỏ tiền vốn của hãng sản xuất nhôm Chinalco* quốc doanh để đầu tư 19,5 tỉ đô la vào mỏ nhôm Rio (ở Úc) giờ đây cũng được xem xét tỉ mỉ bởi vì các nhà phân tích (người Úc) đang nhìn thấy bằng chứng của một khoản tiền trợ cấp rất lớn của  chính phủ TQ hổ trợ cho việc đưa ra đề nghị nầy.

Điều này có những ngụ ý rộng lớn khắp toàn cầu hơn là chính bản thân việc đấu giá, việc đấu thầu nầy chỉ có thể bị đình chỉ bởi chính phủ Úc dựa trên những nền tảng lợi ích quốc gia, hoặc bởi các cổ đông hiện nay dựa trên những lý do rằng giá cả đấu thầu của TQ không thỏa đáng phản ảnh cho thấy giới quản lý đã bị tác động nên trong vụ đấu thấu nầy họ đã dâng hiến cho Chinalco.

Theo lời đề nghị nầy, Chinalco sẽ giành được những cổ phần vốn trực tiếp vào vài khu mỏ đồng, quặng sắt và bauxite của Rio cộng thêm với những trái phiếu mà khi chúng được chuyển đổi thành cổ phiếu hay giá trị tiền bạc thì sẽ nâng số cổ phần đóng góp vốn của nó vào công ty-nắm-giữ-quyền- điều-hành của hãng Rio lên tới 18%.

Thêm vào lời đề nghị đó, Chinalco sẽ giành được hai ghế trong hội đồng quản trị và một quyền ăn nói trong các chính sách hay đường lối sản xuất và tiếp thị của các công ty đang hoạt động.

Đối với một số nhà dân tộc chủ nghĩa Úc, bất cứ những sự chiếm đoạt nào của người Trung Quốc về các tài sản mỏ của họ là một hành động bán rẻ – mặc dù các khu mỏ ở Rio liên quan tới Chile, Indonesia, Hoa Kỳ và những nơi khác cũng như Úc.

Hành động chống đối ít bị cảm xúc chi phối và nhiều sức thuyết phục hơn đã đến từ những người này – bao gồm một số cổ đông không phải người Úc – tất cả bọn họ lo ngại rằng việc cho phép một doanh nghiệp quốc doanh của nhà nước Trung Quốc làm chủ một phần của hãng, (mà TQ lại là người-mua có cổ phần chính yếu trong hãng quặng Rio) có một quyền quyết định, thông qua hãng Chinalco, theo như chính sách hãng Rio sẽ là hết sức có hại cho người-bán.

Hiện tại, Chinalco có thể chỉ là một công ty nhôm, song nó đã được chọn lựa ra, cùng với công-ty-con-Chalco ở Hong Kong của họ, để lãnh đạo phong trào đầu tư khai mỏ ở nước ngoài của Trung Quốc.

Các công ty lớn của nhà nước  [Trung Quốc] không phải là những công ty hoạt động độc lập. Chúng tồn tại để phục vụ nhà nước cũng như, hy vọng là vậy, để làm ra tiền.

Cuối cùng thì Chinalco đại diện cho những nhu cầu của nước mua hàng, là Trung Quốc, và các công ty nhà nước cầm quyền kiểm soát việc sản xuất các kim loại với giá rẻ và nguồn cung cấp quặng đều đặn.

Việc ung cấp tài chính cho kế hoạch này cũng dường như vậy nữa. Bốn ngân hàng lớn của nhà nước TQ đã cùng nhau thỏa thuận cho Chinalco vay 21 tỉ đô la trong 15 năm với một cái giá chỉ có 90 điểm chuẩn so với tiền lời cho vay của ngân hàng ở Luân Đôn (Libor).

Trong những hoàn cảnh hiện tại, điều này có vẻ là một kiểu tài trợ rẻ rúng hết sức kỳ lạ. Thậm chí các công ty thuộc lĩnh vực tư nhân đa quốc gia có vốn lớn nhất và hoạt động hiệu quả nhất toàn cầu đang phải trả tiền-lãi-suất  nhiều gấp bốn lần như vậy trong những món tiền họ vay mượn trong thời gian 10 năm.

Bản thân công ty Chinalco hiện nay hầu như chắc chắn đang bị lỗ vì  hậu quả của việc đầu tư quá độ vào việc sản xuất nhôm* và công ty nầy đang chứng kiến những khoản đầu tư ban đầu của nó là 14 tỉ đô la ở Rio vào lúc cao điểm bùng nổ khai mỏ năm ngoái đã bị sụt giảm 60% giá trị. (Năm 2008 Chinalco đầu tư 14 tỉ, nay giá trị chỉ còn 5,6 tỉ)

Việc đấu thầu của Chinalco và việc tài trợ của công ty không thể được xem như bất cứ chuyện gì khác ngoài chính sách của nhà nước TQ khi cho rằng vị cựu chủ tịch của nó gần đây đã được cất nhắc lên làm phó tổng thư ký Hội đồng Nhà nước, một chức vụ chính trị then chốt và là sự tưởng thưởng hiển nhiên cho việc từng làm cho cái công ty Chinalco nhỏ bé và không quan trọng trở thành một nhà vô địch trong lãnh vực các công ty quốc doanh của nhà nước.

Ở một mức độ nào đó thật là hợp lý đối với Trung Quốc để sử dụng một số tiền bạc ngoại tệ dự trữ của họ để mua bất động sản và mua ảnh hưởng (của các nước khác) hơn là mua những công khố phiếu của Bộ Tài Chánh Hoa Kỳ. Sự suy giảm toàn cầu về giá trị tài sản về mặt nguyên lý làm cho hiện nay là một thời điểm thuận lợi để mua (công khố phiếu).

Thế nhưng việc cung cấp một sự trợ  cấp tài chính lớn của nhà nước lại có bốn hệ quả tiêu cực.

Trước hết, nó sẽ thúc đẩy sự chống đối với việc tranh đoạt những tài sản ở nước ngoài của TQ nói chung và gia tăng thêm những mối tình nghi rằng TQ sẽ không chơi theo những nguyên tắc được lèo lái theo lối thị trường giống như những công ty lớn đang tham dự trong nền kinh tế thế giới.

Thứ hai, những khoản trợ cấp làm giảm bớt sức ép lên các công ty nhà nước để điều hành làm ăn một cách có hiệu quả thay vì là cứ nhờ cậy vào những mối quan hệ chính trị.

Thứ ba, những khoản vay mượn có thế chấp ít và lãi suất thấp chắc chắn sẽ làm cho những món nợ xấu không trả lại được cho nhà nước chẳng bao lâu sẽ gia tăng lên lần nữa và đòi hỏi những cứu trợ tài chính của nhà nước nhiều hơn bằng cách bỏ tiền vào thêm (cho các công ty thua lỗ) thay vì dùng tiền ấy vào những mục đích tốt đẹp hơn.

Thứ tư, và có lẻ là quan trọng nhất, nó khuyến khích sự đầu tư quá mức của Trung Quốc vào những ngành công nghiệp nặng và cần nhiều vốn ngay khi nền kinh tế TQ đang rất cần kích thích sự tiêu thụ và đầu tư vào cơ sở hạ tầng xã hội.

Hiệu đính: Trần Hoàng

* Chinalco: Hãng nhôm của Trung Quốc đang đầu từ vào khai mỏ bauxite Tây Nguyên, bị dư luận chung và từ nhiều nhà khoa học, văn hóa, các nhân vật danh tiếng … của Việt Nam, trong và ngoài nước, lên tiếng phản đối. Mời xem thêm các bài số 96, 97, 101.


Một mặt đang mượn tiền của Nhật để chuẩn bị xây đường sắt, xây hải cảng  cho Trung Quốc chở nhôm khai thác ở Tây Nguyên về nước mẹ, mặt khác, đã chuẩn bị xong rồi nguồn điện để nấu nhôm.

Thác tuyệt đẹp và hùng vĩ Đray Sáp ở Tây Nguyên nay chỉ còn là cái lạch nước nhỏ vì đã  bị dẹp bỏ theo “chủ trương lớn của đảng ta” để cung cúc tận tụy phục vụ làm nhà máy thủy điện dùng để NẤU nhôm cho Trung Quốc.

Ôi nghĩa cả tình thâm của tớ đối với chủ cảm động wá.

Một sự đánh đổi đau đớn

Lao Động số 72 Ngày 02/04/2009 Cập nhật: 8:38 AM, 02/04/2009

Trong đó, Đray Sáp là ngọn thác đẹp nhất, từng được mệnh danh là đệ nhất thác. Mùa mưa, ngọn thác này hết sức dữ dội, hùng vĩ, bởi cả khối nước khổng lồ đổ ập từ trên cao xuống, khiến bọt nước nhỏ li ti bay trắng cả một vùng.(LĐ) – Ai đã đến Đắc Lắc, Đắc Nông – vùng đất phát nguyên của sông Sê Rê Pôk – đều có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các ngọn thác Gia Long, Đray Nu, Trinh Nữ, Đray Sáp…

Vì thế, người Ê Đê bản địa gọi nó là thác Khói (tức Đray Sáp). Nhưng mùa khô, ngọn thác lại trở nên dịu dàng, như cái rèm nước của trời buông từ trên mây xanh xuống mặt đất. Chính vì vẻ đẹp của ngọn thác này, nên ngày 28.4.1993, nó đã được Bộ trưởng Bộ VHTT bấy giờ là nhạc  sĩ Trần Hoàn ký Quyết định số 1371, công nhận là di tích văn hóa – danh thắng quốc gia.

Thế nhưng, từ ngày 9.3.2009 đến nay, khi Nhà máy thủy điện Buôn Kuốp (xã Hòa Phú, TP.Buôn Ma Thuột, công suất 280MW, đầu tư 5.000 tỉ đồng) bắt đầu tích nước để vận hành không tải tổ máy số 1, thì các ngọn thác kể trên bắt đầu kiệt nước. Vì phía trên các ngọn thác này là đập chắn của công trình thủy điện, nước sông Sê Rê Pôk buộc phải rẽ dòng, chảy vào đường hầm dẫn nước để làm quay tuốcbin và xả ra ở một điểm khác, nằm ở hạ lưu các ngọn thác nói trên. Vậy là các ngọn thác trên trở thành… “thác treo”.

Sáng 24.3, chúng tôi có mặt tại thác Đray Sáp. Cả mặt thác rộng khoảng 80m, giờ chỉ còn lạch nước nhỏ chảy ở giữa, lưu lượng nước chỉ bằng một con suối tí hon. Một nhóm khách tây đứng nhìn thác vài ba phút rồi bỏ đi… Chúng tôi đến thác Gia Long, thác Đray Nu cũng thấy tình cảnh tương tự. Một nhân viên khu du lịch Đray Sáp tên là Lĩnh than thở với chúng tôi: Rồi đây vận hành cả tổ máy số 2 nữa, chắc những ngọn thác này sẽ… chết luôn.

Như vậy là được điện, được kinh tế, nhưng mất thắng cảnh và môi trường. Đây quả là một sự đánh đổi đau đớn!

Đặng Bá Tiến

http://www.laodong.com.vn/Home/Mot-su-danh-doi-dau-don/20094/132670.laodong

 

Asia Sentinel

China’s Controversial Rio Tinto Bid

Written by Our Correspondent

Friday, 03 April 2009

Do state subsidies support a hugeOz acquisition?

China’s bid for a major stake in Anglo-Australian mining giant Rio Tinto is treading on more toes than just those of resource nationalists in Australia. The financing of state aluminum producer Chinalco’s offer to invest US$19.5 billion in Rio is now also under scrutiny as analysts see evidence of a large state subsidy facilitating the offer.

This has wider global implications than the bid itself, which can only be stopped by the Australian government on national interest grounds, or by the existing shareholders on grounds that the price inadequately reflects the management influence that the deal would give to Chinalco.

Under the proposal, Chinalco would acquire direct stakes in several Rio copper, iron ore and bauxite mines plus bonds which when converted into equity which would raise its stake in Rio’s holding company to 18 percent. In addition it would acquire two board seats and a say in the production and marketing policies of the operating companies.

For some Australian nationalists, any more Chinese acquisitions of their mining assets is a sell-out – even though the Rio mines involved are in Chile, Indonesia, the US and elsewhere as well as Australia. Less emotional and more persuasive opposition comes from those – including some non-Australian shareholders – who fear that allowing Chinese state entities which are major buyers of Rio’s ores a say, via Chinalco, in its policies would be highly detrimental to the seller.

Chinalco at present may just be an aluminum company but has been marked out, together with its Hong Kong-listed subsidiary Chalco, to lead China’s overseas mining investment push. Major state companies are not totally autonomous units. They exist to serve the state as well as, hopefully, make money. Ultimately Chinalco represents the needs of the buying nation, China, and the state companies which dominate metals production for low cost and reliable supply ore sources.

And so it seems too with the financing of the proposal. Four large state banks have together agreed to lend Chinalco US$21 billion for 15 years at a cost of just 90 basis points over the London Interbank Offered Rate (Libor). Under present circumstances, this would appear to be quite extraordinarily cheap financing. Even the biggest and best capitalized global private sector companies are having to pay four times as much for 10-year money. Chinalco itself is currently almost certainly losing money as a result of massive overinvestment in aluminum production and having seen its original US$14 billion investments in Rio at the height of the mining boom last year fall by 60 percent in value.

Nor can Chinalco’s bid and its financing be seen as anything other than high state policy given that its former chief executive was recently elevated to deputy secretary-general of the State Council, a key political position and apparent reward for making once insignificant Chinalco into a champion of the state sector.

At one level it makes a lot of sense for China to use some of its reserves to buy real assets and influence rather than more US Treasury bonds. The global fall in asset prices in principle makes this a good time to buy.

But providing a big state financial subsidy has four negative results. Firstly, it will foment opposition to China’s acquisitions of foreign assets generally and increase suspicions that it will not play by the same market-driven rules as other major participants in the world economy. Secondly, subsidies reduce pressure on state companies to operate efficiently rather than rely on political connections. Thirdly, cheap and poorly secured loans make it more likely that state bank non-performing loans will soon soar again and require more government bailouts using money which should have had better uses. Fourthly, and perhaps most important, it encourages further over-investment by China in heavy and capital intensive industries just when the economy desperately needs to stimulate consumption and invest in the social infrastructure.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Bô-xít Tây Nguyên, Quan hệ quốc tế, Quan hệ Việt-Trung | 1 Comment »

Những trò chơi nguy hiểm trên đồng vốn của Hà Nội

Posted by adminbasam trên 03/04/2009

Trong 15 tháng qua, Việt Nam hạ giá tiền Đồng 10%– Vật giá lại sắp lên CAO

THE WALL STREET JOURNAL

Những trò chơi nguy hiểm trên đồng vốn của Hà Nội

Hạ thấp giá đồng bạc VN hiện nay không bao giờ là một ý kiến tốt, thậm chí nếu – đặc biệt nếu – Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế bảo quí vị làm như thế.

2-4-2009

Lời phàn nàn về tiền tệ thường xảy ra trong những ngày này là việc đồng đô la Mỹ không cung cấp một cái neo đủ chắc chắn trong những vùng biển đang bị bão tố.

Điều tồi tệ nhất mà một nền kinh tế đang phát triển có thể làm là tạo ra một tình trạng không chắc chắn về tiền tệ nhiều hơn nữa. Vậy mà hiện nay đó chính là những gì mà Việt Nam đang chọn lựa.

Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã loan báo vào tuần trước rằng cơ quan này sẽ cho phép tiền đồng trao đổi bên trong phạm vi biên độ cộng hay trừ 5% của tỉ giá trao đổi ngoại tệ dựa vào đồng đô la, biên độ nầy rộng hơn so với trước đó là cộng hay trừ 3%.

Mục đích này là “giúp cho tỉ giá trao đổi tiền tệ để bán hay mua linh hoạt hơn và phản ánh đúng nguồn cung cấp và nhu cầu trao đổi ngoại tệ,” ngân hàng này đã cho biết như vậy trong một bản tuyên bố.

Thế nhưng đầu tư ở Việt Nam đang trên đà xuống dốc, do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và mọi người đều trông đợi rằng thậm chí (tiền đồng) sẽ còn sụt giảm hơn nữa.

Với những lực nói trên đang đẩy tiền đồng xuống thấp tới mức mà các thương gia có thể bỏ đi, vì mọi sự mở rộng biên độ đều tương đương với một sự hạ giá trị tiền đồng.

Kể từ tháng 12-2007, Hà Nội đã năm lần mở rộng biên độ giao dịch (hạ giá tiền đồng 5 lần). Mỗi lần như vậy tiền đồng lại nhanh chóng đứng ở mức thấp hơn.

Lần này lên đến đỉnh điểm của một sự hạ giá tiền đồng tổng cộng 5% trong tỉ lệ chính thức ở mức trung điểm mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra.

Mọi người đều nói rằng tiền đồng đã rớt giá 10% so với đồng đô la kể từ tháng Một năm 2008.

Có thể điều này dường như không được ưa thích nhiều lắm, căn cứ vào những sự kiện đang xảy ra tại những nơi khác của châu Á. Đồng won của Hàn Quốc đã rớt giá 30% so với đô la trong cùng thời kỳ. Sau một sự phục hồi vào giữa năm 2008, đồng đô la của Đài Loan đã giảm giá 11% so với thời điểm cao giá nhất của nó.

Thế nhưng việc hạ giá đồng tiền có những hiệu ứng phụ nghiêm trọng và thường thường là không lường trước được, những điều nầy đang được cảm nhận nghiêm trọng nhất trong một nước đang phát triển, tương đối nghèo, và nhỏ.

Một điều lo ngại hiện nay là nạn làm phát. Việt Nam mới đang bắt đầu tự lấy lại thăng bằng sau khi mức lạm phát vọt lên tới 28% vào năm 2008. Chỉ số giá tiêu dùng [CPI] đã chạm mức 11,25% vào tháng Ba năm 2009, chưa tệ như năm ngoái nhưng cũng không phải là tốt nữa.

Trong khi mức lạm phát chút ít có thể là có lợi cho một nền kinh tế đang phát triển (có nhiều việc làm hơn), thì việc “giả” gia tăng giá hàng hóa tính bằng tiền đồng qua việc hạ giá đồng bạc là phương cách sai lầm để làm chuyện ấy.

Hạ giá tiền tệ cũng gây nguy hiểm là làm suy yếu khu vực tài chính mới bắt đầu phát triển của Việt Nam.

Khoảng một phần năm tới một phần tư các khoản vay ngân hàng tại Việt Nam được tính bằng đô la; chính ngân hàng trung ương vừa mới phát hành 230 triệu đô la trái phiếu tính bằng đô la có thời hạn một, hai và ba năm. Tình trạng hạ giá đồng bạc tiếp tục sẽ làm cho những khoản vay đó càng khó trả hơn đối với các công ty đang kinh doanh bằng tiền đồng, hoặc cho một chính phủ đang thu những khoản thuế bằng tiền đồng.

Những nguyên lý kinh tế tương tự đã châm ngòi cho cuộc khủng khoảng tài chính ở châu Á những năm 1997-1998 lại một lần nữa đi vào hoạt động.

Trong một bản báo cáo tháng Một năm 2009, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright được Đại học Harvard hỗ trợ đóng tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra lý lẽ chống lại việc tiền đồng “quá mạnh so với những đồng tiền khác của các bạn hàng thương mại của Việt Nam.”

Bởi vì đồng tiền mạnh này sẽ làm cho các hàng nhập khẩu rẻ hơn và hàng xuất khẩu ít có lợi hơn, “Việt Nam không thể chấp nhận giá trị thực của tiền đồng được nâng lên quá cao.”

Như đối với Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, vị đại diện tại nước này là Benedict Bingham đã nói với chúng tôi trong một bức thư điện tử vào tuần trước, rằng “chúng tôi đã ủng hộ động thái [của Việt Nam] trong 12 đến 15 tháng trước … theo hướng có tỉ giá hối đoái linh hoạt hơn.”

Ông nói thêm rằng điều này cần phải diễn ra “một cách thận trọng” và “trong bối cảnh của một khuôn khổ chính sách khinh tế vĩ mô lành mạnh.”

Thế nhưng việc này bỏ qua vai trò quan trọng mà một tỉ giá trao đổi tiền tệ ổn định thể hiện trong việc khuyến khích đầu tư, không tính đến việc cho phép các doanh nghiệp lên kế hoạch và rốt cục là để đẩy mạnh sự phát triển và tiêu dùng.

Sự ổn định tiền tệ cũng sẽ làm cho người Việt Nam có thể gia tăng mức tiêu dùng của riêng họ theo thời gian, một mục tiêu chính sách nhằm cắt giảm lạm phát đang có nguy cơ thất bại.

Nếu như Hà Nội muốn làm những việc có lợi cho nền kinh tế của họ, tốt hơn hết các nhà hoạch định chính sách hãy nhắm vào những cải cách thực sự chẳng hạn như mở rộng tự do hóa quy chế quản lý và tư nhân hóa hơn nữa các doanh nghiệp do nhà nước làm chủ.

Hạ giá đồng tiền, dân dần từng bước một hay bằng cách nào khác, không phải là phương thuốc làm lành lại những gì đang gây ra khó khăn cho Việt Nam.

Hiệu đính: Trần Hoàng

by Dylan Martinez/Reuters
 

Những người biểu tình chạy xuyên qua các đường phố Luân Đôn ngay đàng trước tòa nhà nơi có cuộc hội đàm của lãnh đạo 20 nước. Họ phản đối hệ thống tài chánh toàn cầu  và nói rằng hệ thống tài chánh đã cướp tiền  của người nghèo làm lợi cho kẻ giàu,

Sự Thật ở Luân Đôn

By Michael Goldfarb – GlobalPost

2 tháng 4, 2009

20 quốc gia kỹ nghệ giàu có nhất họp ở Anh vào mấy ngày qua. Thủ tướng Anh Gordon Brown nói: Sự sửa sai tài chánh không phải là nhanh. Lãnh đạo của 20 nước đồng ý bỏ vào Ũy Tiền Tệ Quốc tế IMF 1100 tỉ đô la để kích thích nền kinh tế và hy vọng số tiền nầy sẽ rút ngắn thời gian của cuộc khủng hoảng. Số tiền nầy sẽ được bắt đầu chi ra trong 18 tháng tới, tức là cuối năm 2010.

Đức và Pháp nói: Nếu không có cải tổ các ngân hàng, thi không đóng góp tiền vào.

Anh và Mỹ đang bị khủng hoảng tài chánh trầm trọng nhất và dân chúng chỉ có hy vọng mùa Hè năm 2010 may ra dễ thở hơn một chút.

Nhật hứa sẽ góp 100 tỉ đô la. Trung Quốc hứa sẽ đóng góp vào IMF 40 tỉ đô la.

Có sáng kiến đề nghị IMF bán vàng (IMF có 3000 tấn vàng) để cho vay tiền đến các quốc gia nghèo nhất. Các nước nầy nghèo quá đến đổi dù được mượn tiền với bất cứ lãi suất nào, họ cũng không có đủ tiền trả tiền lời.

Về sự khủng hoảng tài chánh hiện nay đã từng được một ít nhà kinh tế học tiên đoán, nổi tiếng nhất ở Mỹ là giáo sư Nouriel Roubini của trường Đại Học New York NYU (tiên đoán vào năm 2005 trong cuộc họp của quỹ Tiền  Tệ Quốc  Tế; nhưng đã không có ai tin, mà còn ông cười nhạo và hỏi ông có bị say rượu không)

Ở Anh có Vince Cable phó thủ lãnh của đảng Dân Chủ Tự Do, và là người phát ngôn của đảng nầy về vấn đề tài chánh. Khi được bác Ba Sàm phỏng vấn là:

Chuyện gì sẽ xảy ra một khi các lãnh tụ các nước trở về nước của họ? Nếu các bạn còn nước mắt để đổ,  thì hãy chuẩn bị để cho nước mắt tuôn ra thêm nữa nhé:

“Trong vòng 12 tháng tới nền kinh tế sẽ đi xuống dốc và rất đáng sợ. Chúng ta vẫn chưa bước ra khỏi giai đoạn đầu tiên của cuộc khủng hoảng. Sẽ còn có nhiều ngân hàng và tổ chức tài chánh đi xuống (phá sản). Hiện có một câu hỏi là liệu các biện pháp cứu chữa  được tung vào cuộc khủng hoảng có hiệu quả gì không.”

(Trần  Hoàng lược dịch)

http://www.globalpost.com/dispatch/united-kingdom/090402/g20-ground-truth-london

******************************************************


Việt Nam ngoan ngoãn hơn.

Xây đường sắt phục vụ Trung Quốc đem bô xít về nước

Sau khi dâng mỏ khoáng sản ở Tây Nguyên, hiện nay Việt Nam lên kế hoạch mượn tiền xây đường sắt phục vụ Trung Quốc đem bô xít về nước. Cung cúc và tận tụy như thế thì còn gì bằng.

Chỉ có 1 tờ báo đăng tin dưới đây

**********************************

Xây đường sắt phục vụ Trung Quốc đem bô xít về nước

Thứ Năm, 2/4/2009, 17:02 (GMT+7)

(TBKTSG Online) – Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và Công ty cổ phần An Viên sẽ ký thỏa thuận hợp tác đầu tư xây dựng, khai thác hệ thống đường sắt Bình Phước, với tổng chiều dài dự kiến khoảng 160 đến 180 km, nằm trong khuôn khổ vận hành dự án chế biến bauxite-alumin (ôxit nhôm) tại mỏ bauxite Bình Phước.

Ông Nguyễn Đạt Tường, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam nói trong thông cáo báo chí gửi đi ngày 2-4 rằng, khi dự án được triển khai, Tổng công ty và An Viên mỗi bên góp 50% vốn để xây dựng.

Khi tuyến đường sắt này được đưa vào khai thác, ngoài việc phục vụ chính cho dự án khai thác mỏ bauxite tại Bình Phước, còn chạy qua Bình Dương, đến Vũng Tàu hoặc TPHCM (độ dài tùy theo kết quả nghiên cứu, khảo sát) góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa thông thương ra cảng biển.

Như vậy, bên cạnh việc triển khai dự án làm đường sắt từ Đắc Nông (Tây Nguyên) về Kê Gà (Bình Thuận) với chiều dài khoảng 280 km của Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV), đây là tuyến đường sắt thứ hai phục vụ cho các dự án khai thác bauxite tại Đắc Nông và Bình Phước.

Theo dự tính của ngành đường sắt và An Viên, sau một đến hai năm khảo sát sẽ lập xong báo cáo khả thi để trình phê duyệt, xây dựng.

NGỌC LAN

http://www.thesaigontimes.vn/Home/dothi/hatang/17139/

 

Hanoi’s Capital Games

Currency devaluation is never a good idea, even if – especially if – the IMF tells you to do it.

From today’s Wall Street Journal Asia.

APRIL 2, 2009, 12:27 P.M. ET

The usual currency complaint these days is that the U.S. dollar isn’t offering a sure enough anchor in stormy seas. The worst thing a developing economy can do is create even greater currency uncertainty. Yet that’s just what Vietnam is opting for now.

The State Bank of Vietnam announced last week that it will allow the dong to trade within a band of plus or minus 5% of the target dollar exchange rate, broader than the previous plus or minus 3%. The aim is to “facilitate the exchange rate to move more flexibly and fairly reflect the foreign exchange supply and demand,” the bank said in a statement.

But investment in Vietnam is declining, courtesy of the global financial crisis, and everyone expects even more depreciation. With those forces pushing the dong as low as traders can get away with, every widening of the band amounts to a depreciation. Since December 2007, Hanoi has widened the trading band five times. Each time the dong has quickly settled lower. This comes on top of a total 5% devaluation in the official mid-point rate the State Bank sets. All told, the dong has dropped 10% versus the dollar since January last year.

That may not seem like much, given events elsewhere in Asia. The Korean won has fallen 30% against the dollar in the same period. After a mid-year rally, the Taiwan dollar has fallen 11% from its peak. But depreciation has serious and often unintended side effects, which are felt most severely in small, relatively poor, developing economies. One immediate concern is inflation. Vietnam is just starting to right itself after inflation peaked at 28% last year. The latest CPI hit 11.25% for March, not as bad as last year but not good either. While some inflation can be healthy for a developing economy, artificially pumping up the dong price of goods via devaluation is the wrong way to do it.

Devaluation also risks undermining Vietnam’s nascent financial sector. Between one-fifth and one-quarter of bank loans in Vietnam are denominated in dollars; the central bank itself just issued $230 million in one-, two- and three-year dollar-denominated bonds. Continued devaluation makes those loans harder to repay for companies doing business in dong, or for a government that receives dong tax payments.

The same economic theories that sparked the Asian financial crisis of 1997-98 are once again in play. In a January report, the Harvard-backed Fulbright Economics Teaching Program based in Ho Chi Minh City argued the dong “is too strong relative to the currencies of Vietnam’s trading partners.” Because this strength makes imports cheaper and exports less profitable, “Vietnam cannot allow the real value of the [dong] to rise too high.” As for the International Monetary Fund, country representative Benedict Bingham told us in an email last week, “We have supported [Vietnam’s] move over the past 12-15 months . . . towards greater exchange rate flexibility.” He adds that this should happen “carefully” and “in the context of a sound macroeconomic policy framework.”

But this ignores the crucial role a stable exchange rate plays in encouraging investment, not to mention allowing businesses to plan and ultimately boosting growth and consumption. Currency stability will also make it possible for Vietnamese to increase their own consumption over time, a policy goal an inflationary depreciation risks thwarting.

If Hanoi wants to tinker with its economy, policy makers would be better off looking at real reforms such as further regulatory liberalization and privatization of state-owned companies. Devaluation, gradual or otherwise, isn’t the cure to what ails Vietnam.

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Bô-xít Tây Nguyên, Kinh tế Việt Nam, Quan hệ Việt-Trung | Leave a Comment »

Gián Điệp người Trung Quốc đào thoát nói: Sứ mạng của tình báo là Kiểm soát dân chúng và bảo vệ đảng

Posted by adminbasam trên 02/04/2009

Washington Times

Gián Điệp người Trung Quốc đào thoát nói:  Sứ mạng của tình báo là Kiểm soát dân chúng và bảo vệ đảng

Bill Gertz

Thursday, March 19, 2009

Một cựu nhân viên tình báo người Trung Quốc đã đào thoát tới Hoa kỳ nói rằng sở gián điệp của Trung Quốc hiện nay đang dành phần lớn thời gian để cố gắng ăn cắp các bí mật ở nước ngoài nhưng cũng làm nhiều việc để củng cố sự cầm quyền của đảng Cộng Sản TQ bằng cách đàn áp tôn giáo và những người bất đồng chính kiến trong nước.

Li Fengzhi, đã từng làm việc trong nhiều năm như một nhân viên tình báo của Bộ An Ninh Quốc Gia ở Trung Quốc, …

PETER LOCKLEY/THE WASHINGTON TIMES Li Fengzhi, who worked for years as a Ministry of State Security intelligence officer inside China, …

“Trong một số ý nghĩa nào đó, quí vị có thể nói rằng công tác tình báo giữa hai quốc gia thì cũng giống như một cuộc chiến tranh nhưng không có bắn nhau,” Li Fengzhi đã nói với tờ The Washington Times trong một cuộc phỏng vấn có người thông dịch giúp đỡ.

Ông Li đã làm việc nhiều năm như là một nhân viên tình báo của Bộ An Ninh Quốc gia (MSS của TQ) trước khi đào thoát tới Mỹ, nơi đây ông đang chờ đợi một sự trả lời (của Sở Di Trú) về yêu cầu của ông ta để được tị nạn chính trị.

Ông ta đã dành một cuộc phỏng vấn hiếm hoi với tờ báo The Times vào ngày Chủ Nhật, liên quan tới những hoạt động của Bộ An Ninh Quốc Gia (MSS), một cơ quan gián điệp dân sự được chỉ huy bởi đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Công tác trước kia của ông ta là một gián điệp người Trung Quốc đã được xác nhận với tờ báo Times bởi một nguồn tin của một chính quyền phương Tây biết rõ về cuộc đào thoát của ông ta.

Người đưa ra nguồn tin nầy phát biểu với điều kiện ẩn danh bởi tính nhạy cảm của trường hợp đào thoát của ông Li.

Ông Li đã nói với tờ báo The Times rằng Bộ An Ninh Quốc gia (TQ) đang tập trung vào cả hai sự việc, công tác phản tình báo [phản gián] – công tác chống lại các cơ quan tình báo ngoại quốc – và thu thập các tin bí mật và kỹ thuật công nghệ.

Tuy vậy, Bộ An Ninh Quốc gia MSS không giống như các cơ quan tình báo của các quốc gia khác, theo đó sở nầy được rập khuôn mẫu giống như cơ quan tình báo KGB của Xô Viết.

Sứ mạng quan trọng nhất của Bộ An Ninh là “kiểm soát người dân Trung Quốc để duy trì quyền lực của đảng Cộng Sản,” ông Li nói thêm.

Wang Baodong, một phát ngôn viên của tòa đại sứ Trung Quốc ở Washington, đã không nói gì về các bình luận của ông Li một cách trực tiếp nhưng đã lập lại những lời công bố từ trước của chính quyền TQ liên quan tới các hoạt đông tình báo.

“Các cáo buộc về Trung Quốc đang điều hành các hoạt động gián điệp chống lại nước Mỹ là không có căn cứ và không có gì bảo đảm chắc chắn,” ông ta phát biểu vào hôm thứ Tư. “Trung Quốc không bao giờ tham dự vào trong các hoạt động nhằm làm nguy hại tới các quyền lợi của các quốc gia khác.”

Ông Wang cho biết sự cầm quyền của đảng cộng sản ở TQ đã sản sinh ra các tiến bộ xã hội và kinh tế có tính cách lịch sử và rằng Trung Quốc đã và đang đóng góp cho một thế giới an ninh hơn. “Đó là một sự kiện mà không ai có thể chối cãi được,” ông Wang nói.

Về những người đang rời bỏ đảng cộng sản TQ, ông Wang nói “cũng có một nhóm nhỏ những người họ phản bội niềm tin của họ và rời bỏ đảng, hành động của họ cũng như một số lời nói láo chính trị của những người nầy sẽ không bao giờ che dấu được thành tựu vĩ đại của đảng nầy.”

Ông Li nói rằng ông đã rời khỏi sở tình báo để phản đối vai trò của cơ quan nầy trong việc đàn áp các nhà bất đồng chính kiến và các nhóm tôn giáo nằm ngoài hệ thống chỉ đạo của đảng cộng sản.

Ông Li nói: Bộ An Ninh quốc gia MSS, chủ yếu là một sở tình báo quốc ngoại, lại liên quan một cách sâu đậm trong việc đàn áp  quốc nội, họ đàn áp các nhà thờ công giáo không thuộc chính quyền và đàn áp nhóm tôn giáo Pháp Luân Công bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Ông cho biết: “Thật sự, Bộ An Ninh Quốc Gia chẳng làm được gì cho an ninh của Trung Quốc, thay vì đó Bộ sử dụng nhiều nổ lực để kiểm soát nhân dân, kiểm soát những người bất đồng chính kiến, những người TQ thuộc tầng lớp hạ lưu, và làm cho những người nầy đau khổ, lo sợ và cũng làm cho đời sống của họ trở thành đáng thương.”

Trong cuộc phỏng vấn nầy, ông Li cho biết:

*Cơ quan gián điệp của Trung Quốc đang tập trung để xâm nhập vào cộng đồng tình báo nước Mỹ, và cũng đang thu thập các bí mật (dân sự, kinh tế, doanh nghiệp) và kỹ thuật công nghệ từ nước Mỹ. Ông Li nói: “Trung Quốc đang sử dụng những nỗ lực rất lớn để gởi những điệp viên tới các quốc gia như Hoa Kỳ để thu lượm tin tức.”

*Trung Quốc đang kiểm duyệt internet để ngăn chận dân chúng không biết về những gì hiện đang xảy ra ở bên ngoài Trung Quốc.

*Một cẩm nang lưu hành nội bộ của Bô An Ninh Quốc gia (được giữ một cách bí mật không cho hầu hết các nhân viên biết) phác thảo vai trò chính yếu của Sở An Ninh là để hỗ trợ các quyền lợi của đảng Cộng Sản TQ.

* Sự hợp tác đang diễn ra giữa CIA và Cục Điều tra Liên Bang của Mỹ và Bộ An Ninh Quốc gia (MSS) trong việc chiến đầu chống khủng bố quốc tế có thể có tính chất xây dựng, nhưng các cơ quan của Mỹ cần cảnh giác bởi vì Bộ An Ninh Quốc Gia MSS chủ yếu là một cơ quan  của Đảng Cộng Sản TQ, và không trực tiếp phục vụ các quyền lợi của nước Trung Quốc hay quyền lợi của người dân, ông Li nói.

Ông Li cho biết rằng ông ta đã từng làm việc trong Bộ An Ninh có nhiệm vụ thu thập các tin tức kinh tế, chính trị và công nghệ ở Đông Âu và vùng Trung Á. Một số công việc bao gồm: nhắm mục tiêu vào các người nước ngoài và tuyển mộ những người nước ngoài đi du lịch tới Trung Quốc.

Ông Li sinh năm 1968 ở miền bắc Trung Quốc và được tuyển mộ đầu tiên vào sở tình báo tỉnh trước khi được đề bạt lên Bộ An Ninh Quốc gia ở Bắc Kinh vài năm sau đó.

Ông nói rằng hai nhóm người  ở Trung Quốc hiện đang là mục tiêu chính của Bô An Ninh, đó là các nhà thờ Thiên chúa giáo không trực thuộc chính quyền và nhóm tôn giáo Pháp Luân Công bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Ông cũng cho biết rằng Bộ An Ninh Quốc gia cũng nhắm mục tiêu vào các nhà hoạt động cổ v õ dân chủ, giống như những ai đã từng liên quan vào các cuộc biểu tình tuần hành to lớn ở Thiên An Môn, Bắc kinh, vào năm 1989.

Bộ An Ninh Quốc Gia là sở gián điệp dân sự, sở nầy đang được các nhân viên tình báo Mỹ xem như là một trong những sở gián điệp năng động nhất trong việc đánh cắp các bí mật và điều hành các gián điệp hoạt động ở quốc ngoại.

Sở tình báo quân đội của Trung Quốc, Tổng Cục 2của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân, hay 2 PLA, thì tập trung vào chuyện đánh cắp các công nghệ của nước ngoài, phần lớn các công nghệ nầy là dành cho các hệ thống có tính chất quân sự và hệ thống vũ khí.

Cùng hoạt động với nhau, hai sở tình báo của Trung Quốc nầy đang được ước tính là có nhiều ngàn nhân viên đã được huấn luyện làm việc khắp thế giới, hầu hết họ cải trang như các nhà ngoại giao, các ký giả, các đại diện doanh nghiệp và các nhà giáo dục. Hàng ngàn công dân Trung Quốc khác cũng làm nhiệm vụ như những người thu thập tin tức bán chuyên nghiệp.

Cựu nhân viên tình báo đặc biệt của Cục Điều tra Liên bang FBI (Mỹ), một nhà chuyên môn về phản-tình-báo-Trung- Quốc, đã xác nhận rằng Bộ An Ninh Quốc Gia (MSS của TQ) tập trung hoạt động của họ vào việc thâm nhập vào các cơ quan chính phủ và cơ quan tình báo Hoa Kỳ.

Mục đích của mỗi cơ quan tình báo là cấy một người nào đó vào trong cơ quan, và trong trường hợp của Trung Quốc, họ dùng không chỉ những nhà tình báo mà còn các nhà giáo dục và bất cứ ai khác,” ông Smith đã cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Ông Li nói rằng quyền hành của ông ta được phép coi những tin tức mà người dân thường bị cấm đã giúp cho ông ta quay trở lại chống hệ thống nầy; các tin tức bị cấm bao gồm các báo cáo về lý tưởng của đảng Cộng Sản TQ, và tin tức về các giá trị về tự do và dân chủ của người Mỹ.

Ông Li nói rằng bởi vì ông ta là một ứng viên lấy bằng tiến sĩ, Bộ An Ninh đã gởi ông ta đi học tại một viện đại học Mỹ, một kinh nghiệm đã ảnh hưởng đến quyết định của ông ta để đào thoát.

Năm 2004, sau khi đào thoát, ông được thông báo công khai là một kẻ thù của quốc gia bởi Bộ An Ninh Quốc gia MSS; ít nhất là có hai thông báo đã được gởi tới các văn phòng an ninh ở Trung Quốc.

Theo các nhân viên phản tình báo của Mỹ, không giống như Liên Sô, nước Trung Quốc chỉ có một số nhỏ các cuộc đào thoát của các nhân viên tình báo giống như ông Li trên 30 năm qua.

Một gián điệp Trung Quốc khác đã đào thoát và nhân viên tình báo nầy được công luận biết dưới tên mật mã là “Plansman,” ông ta đã đưa cho FBI các dữ kiện đã dẫn tới cuộc bắt giữ vào năm 1985 một thông dịch viên của CIA, ông Larry Wu Tai Chin.

Một nhà tính báo đào thoát khác là ngài Đại tá Yu Jungping, một sĩ quan tình báo quân đội đã từng làm việc tại tòa Đại sứ Trung Quốc ở Washington, ông ta đã từng đến làm việc vào những năm 1990.

Ông Li hiện đang ở Washington để tham dự vào một cuộc hội nghị được bảo trợ bởi Pháp Luân Công, một nhóm có khuynh hướng Phật Giáo, ủng hộ sự thay thế chính quyền cộng sản Trung Quốc.

Ông Li nói rằng ông đã thông báo công khai từ bỏ đảng Cộng Sản Trung Quốc tại cuộc hội nghị nầy (tháng 3-2009), cùng lúc với người cha của ông cũng từ bỏ đảng, cha của ông Li cũng đang ở Mỹ.

Ông Li nói rằng ông ta không phải là một con chiên của Thiên Chúa Giáo cũng không phải là một thành viên của Pháp Luân Công, nhưng rằng sự quan tâm của ông ta về tôn giáo và nổi sợ của việc bị đàn áp bởi Bộ An Ninh Trung Quốc đã đóng góp tới quyết định đào thoát.

Ông Li nói ông ta nghĩ rằng có một số lượng đáng kể của các nhân viên của Bộ An Ninh Quốc Gia MSS thiên về dân chủ đang làm việc trong cơ quan nầy, bao gồm những người ở các cấp bậc cao, những người nầy không ủng hộ đảng Cộng Sản Trung Quốc và  họ “thậm chí chống lại đảng cộng sản”, nhưng sợ ra tay hành động (chống lại đảng).

“Nhưng tôi thành thật hy vọng rằng những người nầy có thể giữ một vai trò đặc biệt trong việc vứt bỏ Đảng Cộng Sản”

Người cựu tình báo nầy, gia đình của ông ta cũng rời bỏ Trung Quốc cùng với ông ta, đã nói rằng ông đã mất vài ba năm để thay đổi quan điểm của ông ta.

“Sau một vài ba năm theo kinh nghiệm của riêng tôi ở bên trong hệ thống nầy, tôi đã thật sự biết được Đảng Cộng Sản Trung Quốc quá xấu xa,” ông phát biểu.

“Lý tưởng thật sự của tôi trong sở an ninh Trung Quốc nầy là làm một điều gi cho nhân dân và đất nước Trung Quốc. Nhưng tôi đã thật sự ghét làm những gì chỉ dành cho quyền lợi của Đảng Cộng Sản, và có rất nhiều lần những điều ấy thì có lợi cho đảng cộng sản TQ nhưng chúng lại đang làm hại tới nhân dân Trung Quốc.”

(Ủa sao giống vụ Bô Xít ở Tây Nguyên wá vậy nè trời!!!)

Người dịch: Trần  Hoàng

 

Chinese spy who defected tells all –Says mission is to ‘control’

Bill Gertz

Thursday, March 19, 2009

A veteran Chinese intelligence officer who defected to the United States says that his country’s civilian spy service spends most of its time trying to steal secrets overseas but also works to bolster Beijing’s Communist Party rule by repressing religious and political dissent internally.

“In some sense you can say that intelligence work between two countries is just like war but without the fire,” Li Fengzhi told The Washington Times in an interview aided by an interpreter.

Mr. Li worked for years as an Ministry of State Security intelligence officer inside China before defecting to the United States, where is he awaiting a response to his request for political asylum. He gave a rare, detailed interview to The Times on Sunday regarding the activities of the MSS, China’s Communist-controlled civilian spy agency.

His prior work as a Chinese spy was confirmed to The Times by a Western government source familiar with his defection. The source spoke on the condition of anonymity because of the sensitivity of Mr. Li’s case.

Mr. Li told The Times that the MSS focuses on both counterintelligence – working against foreign intelligence agencies – and the collection of secrets and technology.

The MSS, however, is unique from other nations’ intelligence services in that it is patterned after the former Soviet Union’s KGB political police. Its most important mission is “to control the Chinese people to maintain the rule of the Communist Party,” he added.

Wang Baodong, a spokesman for the Chinese Embassy in Washington, did not address Mr. Li’s comments directly but repeated past Chinese government statements regarding its intelligence activities.

“Allegations of China conducting spying activities against the United States are groundless and unwarranted,” he said Wednesday. “China never engages itself in activities that will harm other countries’ national interests.”

Mr. Wang said communist rule in China produced historic economic and social progress and that China has contributed to a more secure world. “This is a fact no one can deny,” Mr. Wang said.

On those who leave the party, Mr. Wang said “there are also a handful of people who betray their faith and leave the party, whose acts as well as some people’s political lies will never shadow the great feats of the party.”

Mr. Li said he left China’s intelligence services to protest the agency’s role in government repression of political dissidents and religious groups that are outside of the ruling communist system.

The MSS, mainly a foreign intelligence service, is “deeply” involved in domestic repression of nonofficial Christian churches and the outlawed Falun Gong religious group, Mr. Li said.

“The Ministry of State Security is actually not doing things for the security of the country, but rather they spend a lot of effort to control the people, the dissidents, the lower-class Chinese people, and make these people suffer and also make their life miserable,” he said.

In the interview, he also said:

• China’s spy agency is focused on sending spies to infiltrate the U.S.United States. “China spends a tremendous effort to send out spies to important countries like the U.S. to collect information,” Mr. Li said. intelligence community, and also on collecting secrets and technology from the

• China is censoring the Internet to prevent the population from knowing about what occurs outside the country.

• An internal MSS manual that is kept secret from most officers outlines the primary role of the service as the promotion of Communist Party’s interests.

• Ongoing cooperation between the CIA and FBI and the MSS in countering international terrorism can be constructive, but U.S.MSS is mainly an organ of the Chinese Communist Party, and does not directly serve the interests of the Chinese nation or people, he said. agencies need to be cautious because the

Mr. Li said he worked in the MSS department in charge of gathering economic, political and technical information in Eastern Europe and Central Asia. Some of the work involved targeting and recruiting foreign nationals who visit China.

He was born in 1968 in northern China and was first recruited into a provincial Chinese intelligence service before being promoted to the MSS in Beijing after several years.

Two groups in China that are a main focus of the MSS are unofficial Christian churches and the outlawed Falun Gong religious group, he said.

The MSS also has targeted pro-democracy activists, like those who were involved in the mass demonstrations in Beijing’s Tiananmen Square in 1989, he said.

The MSS is China’s main civilian spy service that is viewed by U.S.PLA, is focused on stealing foreign technology, much of it for weapons and military systems. intelligence officials as one of the world’s most active in stealing secrets and running foreign spies. The military counterpart, the Second Department of the People’s Liberation Army, or 2

Together, the Chinese services are estimated to have several thousand trained operatives working around the world, most posing as diplomats, journalists, business representatives and academics. Thousands of other Chinese nationals also function as semiprofessional information gatherers.

Former FBI Special Agent I.C. Smith, a specialist in Chinese counterintelligence, confirmed that the MSS focuses its activities on penetrating U.S. intelligence and government agencies.

“The goal of every intelligence agency is to get someone inside, and in the case of Chinese, they use not just intelligence people but academics and everybody else,” Mr. Smith said in an interview.

Mr. Li said his access to information that was banned for the general public helped him to turn against the system, including internal reports on party ideology and information on American values of freedom and democracy.

Mr. Li said that as a doctoral candidate, the MSS sent him to study at an American university, an experience that influenced in his decision to defect. In 2004, after he defected, he was declared an enemy of the state by the MSS in at least two notices sent to security offices in China.

According to U.S. counterintelligence officials, China, unlike the Soviet Union, has had only a small number of defections of intelligence officers like Mr. Li over the past 30 years.

Another spy who defected was a Chinese intelligence officer known publicly by the code-name “Planesman,” who gave the FBI data that led to 1985 arrest of CIA interpreter Larry Wu-Tai Chin.

Another intelligence defector was Sr. Col. Yu Jungping, a military intelligence officer once posted to the Chinese Embassy in Washington who came over in the 1990s.

Mr. Li was in Washington to participate in a conference sponsored by the Falun Gong, a Buddhist-oriented group that advocates the replacement of the Chinese communist government. Mr. Li said he announced his formal withdrawal from the Communist Party at the conference, along with that of his father, who is also in the United States.

Mr. Li said he is neither a Christian nor Falun Gong member, but that his interest in religion and fear of being persecuted by the MSS contributed to his decision to defect.

Mr. Li said he thinks there are significant numbers of pro-democracy MSS officers inside the service, including those at high levels, who do not support the party and are “even anti-Communsit Party” but fear taking any action.

“But I sincerely hope these people can play a special role in getting rid of the Communist Party,” Mr. Li said.

The former intelligence officer, whose family left China with him, said it took him several years to change his views. “After a few years of my personal experience inside the system, I really knew that the Communist Party is very bad,” he said.

“My true ideal, actually, in this Chinese security department is really to do something for the Chinese people and the nation. But I really hated doing things just for the interest of the Communist Party and a lot of times those things that are in the interest of the Communist Party are doing harm to the Chinese people.”

 

Bài đã đăng trên trang Ba Sàm, nhưng bị tin tặc xâm nhập, xóa mất, nay đăng lại, nên không còn các phản hồi ban đầu của độc giả.

Posted in Chính trị, Trung Quốc | Leave a Comment »

Mức lợi nhuận của hãng nhôm Chalco của TQ giảm gần như 100% trong năm 2008

Posted by adminbasam trên 01/04/2009

THE WALL STREET JOURNAL

Mức lợi nhuận của hãng nhôm Chalco của TQ giảm gần như 100% trong năm 2008

DENIS MCMAHON và YVONNE LEE

Ngày 29-3-2009

 

HONG KONG — Liên hiệp các Xí nghiệp Nhôm Trung Quốc [Aluminum Corp. of China Ltd.], hay còn gọi là Chalco * hôm Chủ nhật đã tuyên bố mức lợi nhuận của hãng đã rớt xuống 100% so với một năm trước và hãng đang dự đoán rơi vào một tình trạng thua lỗ vào quý 1, năm 2009.

Hãng sản xuất alumina và nhôm nầy đã công bố tiền lời sau khi trừ đi tất cả chi phí là 1,3 triệu đô la trong 12 tháng kết thúc vào ngày 31 tháng 12, 2008, giảm từ mức 1,57 tỉ đô la một năm trước đó 2007, bởi vì

(1) giá năng lượng (điện, dầu, xăng) tăng cao hơn,

(2) một mức sút giảm nhu cầu sử dụng nhôm, và

(3) hãng đã có những tiên liệu sai lầm và làm sẵn hàng dự trữ; bởi vì (ngay sau đó là) một sự giảm sút rất nhanh về các giá cả kim loại.

Tổng thu nhập giảm 9,9% từ mức 12,5 tỉ đô la xuống còn 11,2 tỉ đô la.

Những kết quả này là rất thấp (1,3 triệu đô la trong 12 tháng ), dưới mức dự đoán trung bình về lợi nhuận thực 227 triệu đô la, theo lời của 13 nhà phân tích tài chánh mà hãng tin Thomson Reuters đã dò hỏi.

“Năm 2008, những tai hoạ bao gồm một trận bão tuyết và động đất tại (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) đã gây nên những tổn thất lớn cho tập đoàn nầy,” Chalco đã cho biết trong một bản báo cáo thường niên của họ. “Cơn khủng hoảng tài chính quốc tế, giá nguyên liệu thô tăng đột ngột và giá các món hàng chủ yếu (gạo, xăng, dầu) sụt giảm đột ngột nhiều hơn nữa đã đặt ra những khó khăn chưa từng có từ trước đó và những thách thức cho sản xuất và hoạt động của tập đoàn.”

Chalco đã đưa ra một cảnh báo về mức lợi nhuận cho quý 1, hãng nầy cho biết “công ty vẫn đang phải đối mặt với một khung cảnh thương mại đầy thách thức.”

Mức giảm sút về giá trị của công ty (về mặt đạo đức của công nhân, thương hiệu và thanh danh của công ty) trong năm 2008 là giảm 134 triệu đô la, tăng từ mức chỉ có 3,7 triệu đô la vào năm trước đó.

Công ty đã không đưa ra một mức tiền-lãi-mỗi- cổ-phiếu tổng cộng nào cho năm nay, so với mức chưa tới 1 cent (hay 1/100 đô la) vào năm 2007.

Chalco cũng cho biết là chủ tịch hội đồng quản trị Xiao Yaqing của hãng đã từ chức, có hiệu lực ngay lập tức, và ông cũng sẽ rời khỏi chức vụ tổng giám đốc điều hành và giám đốc điều hành sau cuộc họp chung thường niên của hãng nầy vào ngày 26 tháng 5, 2009. Công ty đã không đưa ra một lý do nào cho sự ra đi của ông.

Tuy nhiên, vào tháng Hai, ông Lu Youqunq — phó tổng giám đốc công ty mẹ của Chalco, hãng Chinalco — đã cho biết rằng ông Xiao đang trông đợi được bổ nhiệm vào một chức vụ mới như là phó tổng thư ký Hội đồng nhà nước, thuộc chính phủ Trung Quốc **.

Ông Xiao, người cũng từng là chủ tịch hãng Chinalco, đã được thay vào vị trí đó bởi ông Xiong Weiping vào tháng Hai, 2009. Ông Xiong đã được đề nghị bổ nhiệm là ứng viên cho chức giám đốc điều hành đang bị bỏ trống của ông Xiao, công ty Chalco cho biết.

 

Hiệu đính: Trần Hoàng

 

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009

 

* Mời xem bài số 96: Kế hoạch bauxite của Việt Nam mở ra một bể quan ngại.

** Mời xem thêm trích đoạn bài: Chủ tịch tập đoàn Chalco có khả năng nắm giữ vị trí trong chính phủ (THE WALL STREET JOURNAL – ngày 18-2-2009): “Chủ tịch Xiao Yaqing của tập đoàn Aluminum Corp. of China, người đã giành được danh tiếng nổi bật như là một nhân vật kiến tạo nên thỏa thuận lớn nhất của Trung Quốc với cú đầu từ khổng lồ của hãng vào tập đoàn khai mỏ Rio Tinto PLC, có khả năng sẽ ra đi để lãnh một vị trí cao trong chính phủ Trung Quốc, một thành viên hội đồng quản trị công ty đã cho biết. Ông Xiao được cho rằng sẽ vào vị trí như là một phó tổng thư ký Hội đồng Nhà nước, tương tự như nội các của chính phủ Trung Quốc, theo lời ông Lu Youqing, phó tổng giám đốc Aluminum Corp., tập đoàn được biết đến với cái tên Chnalco. Ông Lu đã không cho biết khi nào ông Xiao có thể nhận nhiệm vụ mới song ông nói rằng một bảo thông báo chính thức có thể sớm được đưa ra. Người phát ngôn của Hội đồng Nhà nước đã từ chối đưa ra lời bình luận. Nếu quyết định này được thông qua, thì sự chỉ định ông Xiao sẽ làm nổi bật lên những mối gắn kết giữa hoạt động kinh doanh và chính phủ ở Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo của những doanh nghiệp lớn của nhà nước như Chinalco được bổ nhiệm bởi Đảng Cộng sản cầm quyền ở Trung Quốc, và sự thành công trong vị trí tại tập đoàn kinh doanh hàng đầu thường là một con đường thăng tiến tới một vai trò cao trong chính phủ…”

 

THE WALL STREET JOURNAL

Chalco’s 2008 Net Plunges

MARCH 29, 2009, 9:25 A.M. ET

By DENIS MCMAHON and YVONNE LEE

HONG KONG — Aluminum Corp. of China Ltd., or Chalco, said Sunday its 2008 net profit plunged nearly 100% from a year earlier and that it expects to swing to a net loss in the first quarter of 2009.

The alumina and aluminum producer posted net profit of 9.2 million yuan ($1.3 million) for the 12 months ended Dec. 31, down from 10.75 billion yuan ($1.57 billion) a year earlier, because of higher energy prices, a drop in demand for aluminum and inventory impairment provisions due to a

sharp drop in metals prices. Revenue fell 9.9% to 76.73 billion yuan from 85.20 billion yuan.

The results were sharply below the average forecast for a net profit of 1.55 billion yuan, by 13 analysts surveyed by Thomson Reuters.

“In 2008, the disasters including a snow storm and earthquake in the (People’s Republic of China) caused substantial losses to the group,” Chalco said in its annual report. “[The] international financial crisis, raw material price hikes and sharply decreasing commodity prices further posed unprecedented difficulties and challenges to the group’s production and operation.”

Chalco issued a profit warning for the first quarter, saying that “the company is still facing an exceptionally challenging business landscape.”

The 2008 impairment charge came to 916 million yuan, up from only 25 million yuan a year earlier. The company didn’t recommend a final dividend this year, compared with a 0.053 yuan in 2007.

Chalco also said its Chairman Xiao Yaqing has resigned from that post, effective immediately, and that he will also step down as chief executive officer and executive director after the firm’s annual general meeting on May 26. The company didn’t give a reason for his departure.

However, in February Lu Youqing — deputy general manager of Chalco’s parent, Chinalco — said that Mr. Xiao was expected to be appointed to a new post as deputy secretary-general of the State Council, China’s cabinet.

Mr. Xiao, who was also president of Chinalco, was replaced in that role by Xiong Weiping in February. Mr. Xiong has been nominated as candidate for the executive director position being vacated by Mr. Xiao, Chalco said.

Write to Denis McMahon at denis.mcmahon@dowjones.com and Yvonne Lee at yvonne.lee@wsj.com 

Posted in Bô-xít Tây Nguyên, Trung Quốc | Leave a Comment »

 
%d người thích bài này: