BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

1524. Sống với Trung Quốc

Posted by adminbasam trên 03/01/2013

Đôi lời: Một bài viết công phu, toàn diện, sâu sắc hiếm thấy liên quan chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Tuy nhiên, có một vài điều không ổn, khiếm khuyết “chết người”. Không biết có phải do để khỏi khiếm khuyết thì cũng dễ “chết mình”, nên phải né tránh chăng? Những không ổn này nếu không được chỉnh sửa một cách nghiêm túc thì nó sẽ xổ toẹt toàn bộ công phu của tác giả, thậm chí trở thành một thứ bả độc. 

PHẦN I

1. Đánh giá chung về một bên là chính quyền, một bên là giới trí thức và người dân trước họa TQ có cái vẻ ngoài khá công minh, thẳng thắn. Thế nhưng, khi thiếu sự gắn kết, về mối quan hệ nhân quả, trong thái độ ứng xử từ hai phía đã làm nội dung thiếu khách quan, không công bằng. Cụ thể, trong môi trường thông tin bị che giấu, hành động yêu nước bị bôi nhọ, trấn áp bằng quyền lực tuyệt đối nhưng lại không chịu chấp nhận bất cứ một giải pháp đối thoại nào, thì không thể dễ dãi ám chỉ rằng những kẻ yếu ớt bị áp chế đã thiếu tỉnh táo được. Suy nghĩ kiểu đó sẽ tự mình, nếu không muốn nói là khéo léo đẩy người đọc, rơi vào cái bẫy nguy hiểm, đó là “hòa cả làng”. Lối vuốt ve bên này cũng có cái dở, bên kia cũng mắc sai lầm, khi nhận định tình hình sẽ dẫn tới cái kết tất yếu là … “Nghĩ mãi không ra”, thậm chí sa vào hang cùng không thấy lối thoát.

Tệ hơn nữa, khi đem so sánh rất khập khiễng “ta” nay với cha ông xưa, những thời trên dưới một lòng, “có những vị vua vô cùng anh minh, lại khiêm nhường”, mà quan trọng hơn cả là tuyệt đối không có thứ “đồng chí”, “4 tốt”, 16 chữ vàng” cùng kẻ thù truyền kiếp, để rồi khuyên “con dân nước Việt mà đại diện của nó là giới trí thức, phải thật tỉnh táo để không gây ra trạng thái rối trí”. Dám so sánh vậy, dù có vô tình, cũng là rất hỗn với tiền nhân! 

2. Nhận định về thời chiến tranh VN, đánh đồng Pháp, cũng giống Mỹ, “quyết chia cắt Việt Nam để ngăn làn sóng đỏ” là không chính xác.  

3.  Từ khẳng định “không thể trách những nhà chính trị miền Bắc thời ấy khi họ buộc phải dựa vào Trung Quốc” rồi đi tới so sánh họ cũng “giống như những nhà chính trị của chính thể Việt Nam Cộng hoà phải dựa vào Hoa Kỳ”, mặc dù có thòng một nhận xét “bên trong những kiện hàng viện trợ là một tính toán lâu dài về lãnh thổ và lợi ích quốc gia của người Hán”, là rất sai về bản chất. Sai nhiều lẽ, trong đó có một cái sai khủng khiếp, sẽ dẫn dắt người đọc tới cái sai cuối cùng về giải pháp đối phó. Đó là một đằng dựa vào kẻ thù truyền kiếp, từng thôn tính ta hàng ngàn năm và mãi mãi muốn xâm chiếm hoàn toàn, cộng với truyền bá một thứ chủ thuyết sẽ không còn coi chủ quyền quốc gia là cái thá gì nữa, nên nay nó tệ hại hơn xưa rất nhiều, còn một đằng dựa vào đồng minh thực sự, không bao giờ có tham vọng xâm chiếm lãnh thổ. Thêm nữa, còn có thứ quan trọng không kém, là hai chỗ dựa đó khác nhau một trời một vực về bản chất chính trị – văn hóa nội tại, mà ngày nay gần như cả thế giới dân chủ văn minh đều phải công nhận. 

4. “Chúng ta đã thất bại quá lâu cho một cuộc hoà giải dân tộc …” Ô hay! “Chúng ta” là ai đây? Có phải cái tội lớn đã không thực hiện “hòa giải dân tộc” là tội chung của cả Dân tộc? Nếu vậy chắc cố TT Võ Văn Kiệt khi sinh thời đã không phải đơn độc để lên tiếng về vần đề này. 

5. “… mọi sự hữu hảo giữa hai đảng, hai nước, hai dân tộc… chỉ là sự vờ vịt mà cả hai bên đều đọc thấy hết những gì thật sự ẩn chứa bên trong, sẽ còn kéo dài chưa biết đến bao giờ…” Lại một lối “sập xí sập ngầu” nữa! Cái “hữu hảo” giữa hai đảng hoàn toàn khác với lối “hữu hảo” của người dân, thưa tác giả. 

Thêm nữa, là với cái hình tượng “một con mãnh thú luôn đói mồi”“một con nhím chỉ muốn yên thân nhưng bất khuất, đầy kinh nghiệm thoát hiểm và có khả năng làm đối phương phải tổn thương”, tuy người đọc được xoa dịu bằng đánh giá “những chữ vàng về tình anh em” chỉ là thứ son phấn, song cũng không che dấu được một lối ẩn dụ, so sánh theo kiểu vơ vào tất thẩy, rất khập khiễng, mị dân. Bởi cái gọi là “con nhím” này thật khó hiểu, nó là hình tượng của “toàn đảng, toàn quân, toàn dân nhất trí một lòng” hay sao?

Không lạ gì lối viết này, khi nó cũng có vài điểm na ná bài diễn thuyết của Trần Đăng Thanh, với nhiều lời đánh giá nghiêm khắc, nhưng chẳng có gì mới mẻ và khó nói, về bản chất, mưu đồ của TQ, làm không ít người đọc mê mẩn, song ở những điểm mấu chốt nhất mà người đọc cần có thì nó lại … méo mó. Đó là: + Bản chất mối quan hệ hai đảng CSVN và CSTQ; + Bản chất mối quan hệ giữa người dân với ĐCS, chính quyền VN trong vấn đề quan hệ với TQ.

PHẦN II

6. Khi bàn về ngoại giao, chứ không phải chỉ quân sự, trong nhiều năm qua mà coi Philippines cũng giống VN, đều “bình chân như vại”, cùng “nhắm mắt bịt tai tự dối lòng mình” trong một thời gian dài trước những “thủ đoạn chính trị” của TQ là không chính xác, là làm lơ những gì ĐCSVN đã thỏa thuận với TQ liên quan chủ quyền mà hiện giờ người dân vẫn chưa được biết. 

7. Toàn bộ Phần II là một sai lạc khổng lồ khi tác giả sa vào bàn tới lĩnh vực mà chắc chắn không thể thông tỏ được bao nhiêu, là chiến lược, chiến thuật quân sự trên biển, liên quan tới nhiều quốc gia, trong khi theo như tiểu tựa thì nó phải là những “điều có thể xảy ra”, không phải chỉ quanh chuyện “hải chiến” để “đánh chiếm Biển Đông”. Chính vì vậy nên người đọc bị ngập trong cả một biển chữ với nhiều từ ngữ văn vẻ, biểu lộ cảm xúc, nặng tính tuyên truyền, cổ võ, thứ không cần thiết cho thể loại được tự coi là “chuyên luận” này, cùng với nhiều nhận định có phần ngây thơ. 

Thực tế trong suốt ít nhất là 1 năm qua, TQ đã chứng tỏ khá thành công trong hàng loạt động thái lấn lướt trên biển, để rồi sẽ “bất chiến tự nhiên thành”. Họ lại được hậu thuẫn quá vững chắc bằng cam kết “16 chữ vàng”, “4 tốt”. Rất nhiều khả năng trong thời gian dài tới, họ vẫn sẽ tiếp tục chiến thuật này mà không cần phải động binh, hoặc nếu có thì cũng chỉ là vài động tác cảnh cáo, không đáng gọi là “hải chiến”, để phục vụ các hoạt động ngoại giao, kinh tế, pháp lý. Vậy thử hỏi cứ sa vào chỉ bàn tới chuyện TQ có dám đánh hay không, đánh thì thua hay thắng, thiệt hại tới đâu … có phải là một sự lạc hướng hay không? 

Một cái “lạc” khác không kém phần nguy hại, đó là coi cam kết “16 chữ vàng”, “4 tốt” như là sự “đánh lừa” của TQ đối với lãnh đạo ĐCSVN, như thể các vị này không khác gì một đám con nít, thậm chí như trâu bò, đang bị “dắt mũi”. Ẩn số mà tác giả quan tâm là có hay không chuyện “các lãnh tụ hàng đầu” của VN “đều tin vào những lời đường mật” của TQ, vì còn “chưa đủ bằng chứng”, chứ không phải là có hay không cả hai phía cùng nhất trí đồng lòng, chung lưng đấu cật để sống qua ngày đoạn tháng, trước nguy cơ sụp đổ nốt những mảnh tường thành còn lại của khối XHCN; họ ngấm ngầm chấp nhận trình diễn màn cãi cọ để một kẻ chịu để rơi mất cái mặt nạ “phát triển trong hòa bình”, còn kẻ kia thì hy sinh lợi ích Dân tộc, mất nốt niềm tin còn sót lại từ dân chúng. 

PHẦN III

8. Nhưng may là, toàn bộ nửa đầu của Phần III này đã sửa chữa phần nào cho cái sai lạc của Phần I và II, đó là việc nêu ra vài hoạt động phi quân sự đã, đang xảy ra hoặc quân sự nhỏ lẻ có thể có trong tương lai của TQ để gặm nhấm dần Biển Đông. Kể cả những cảnh báo với nhà cầm quyền VN về nguy cơ từ “tự bưng bít thông tin”, “tự làm nhụt chí nhau”, “viện vào ý thức hệ”, “tự nguyện quàng thêm vào cổ cái ách ý thức hệ để tự trói tay mình” cũng bổ trợ cho cả 2 phần trên. Nếu đoạn này được đưa lên Phần I và II, có vị trí xứng đáng hơn thì những nhận định tình hình sẽ rõ hơn, bớt sai lạc và tự mâu thuẫn hơn. 

Khi bàn tiếp về chỗ dựa “ý thức hệ”, tác giả đã làm rõ hơn sự nguy hại với nhận xét rất xác đáng rằng “nó đang trói tay chúng ta trong những hành động vì lợi ích lâu dài của dân tộc và cách ly Việt Nam khỏi thế giới”, có điều không rõ dựa vào đâu mà ngay trước đó lại đánh giá như trái ngược rằng những người cộng sản VN đang “khôn ngoan kiểu con sóc”, có “tài leo dây để thoát hiểm”

9. Chính thứ “đang trói tay chúng ta” đấy đã cách ly VN trong mối quan hệ, xây dựng niềm tin với Hoa Kỳ. Thế nhưng, trong phần bàn về giải pháp “dựa vào Hoa Kỳ” để bớt bị TQ bắt nạt, tác giả đã lan man quá dài những điều không cần thiết, mà quên mất điều hệ trọng nhất này, thứ có thể dẫn đến một kết cục là người Mỹ sẽ “buông” VN một khi không còn đủ kiên nhẫn trước một kẻ lá mặt là trái không thể tin cậy nổi. Với chỗ dựa ASEAN, tác giả cũng không nêu ra được điều quan trọng này, khi mà nhiều thành viên trong đó, chỉ mấy chục năm trước, từng nằm trong khối SAETO cùng ngăn chặn họa cộng sản từ phương Bắc và VN tràn xuống. Giờ đây, liệu có thể xây dựng được niềm tin với họ khi mà đằng sau những trò đỏng đảnh với “bạn vàng” là những thỏa thuận ngấm ngầm giữa hai đảng?

10. Một sai lầm tiếp theo là khi bàn về chỗ “dựa vào sức mình” để bảo vệ chủ quyền, tác giả lại hầu như chỉ chú tâm nói tới chiến tranh với TQ, tương tự như toàn bộ Phần II của bài. Tác giả đúc kết có tất cả “6 lợi thế”“6 bất lợi”, đều liên quan tới cuộc chiến tranh giữa hai nước nếu như xảy ra. Rõ ràng như vậy là rất phiến diện; còn bao nhiêu mặt trận đấu tranh như pháp lý, ngoại giao, truyền thông, kinh tế, … đã không được bàn đến. 

11. Có lẽ do ôm đồm quá trong một phạm vi quá rộng những điều đề cập tới, nên tác giả đã bị đuối khi nói về những “lợi thế”, “bất lợi” ở trên, gồm những khẳng định to tát nhưng rất sơ sài, cho tới phần cuối “kết luận” chung chung, vô thưởng vô phạt, kiểu như “không thể đưa đẩy trốn tránh trách nhiệm nhưng cũng không được nóng vội, hấp tấp, thiếu chín chắn”, hay “bất cứ sai lầm nào cũng đều không có cơ hội sửa chữa hoặc phải trả giá đắt kéo dài suốt nhiều đời”, hoặc mơ hồ như “chỉ riêng việc phải lựa chọn giữa sống hay là chết dưới tay Trung Quốc, chúng ta đã không còn thời gian để cân nhắc”, “nhiệm vụ quan trọng nhất là đất nước phải hùng mạnh và trở thành một thành tố trong chuỗi giá trị toàn cầu, càng nhanh càng tốt”. Những góp ý thiện chí về “xây dựng một xã hội dân chủ thực sự”“thực hiện triệt để hoà giải dân tộc”  đã không được đi sâu.

Ngoài yếu tố do ôm đồm quá sức mình dẫn tới những mâu thuẫn trong lập luận, bố cục lủng củng, ý hay, dở trái ngược nhau trong cùng một chủ đề, … không biết có phải tác giả vẫn viết theo kiểu “lách”, nên đã cho ra một sản phẩm như vậy? “Lách” kiểu đó, trong một “chuyên luận” công phu, của một nhà văn có tiếng, đăng trên một trang mạng tự do uy tín nhất với giới trí thức, chứ không phải trên báo nhà nước, là không hợp lẽ chút nào và sẽ có những tác động không tốt cho lợi ích chung.

Ba Sàm

Bauxite Việt Nam

Sống với Trung Quốc

Tạ Duy Anh

Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông

(Nguyễn Trãi)

Lời tự bạch:

Cổ nhân có câu: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Người thất học còn phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của xã tắc, nữa là một kẻ ít nhiều có đọc qua vài trang sách Thánh hiền.

Tôi có ba tư cách để viết chuyên luận này: Tư cách con dân Việt, tư cách chiến binh Việt bẩm sinh và tư cách một kẻ sĩ Việt.

Tôi dựa trên nền tảng quan điểm sau:

– Mục tiêu lớn nhất của Trung Quốc trong thế kỷ 21 là thôn tính Biển Đông và đối thủ số một là Việt Nam.

– Việt Nam là nước nhỏ hơn nên luôn cần hoà bình, sống yên ổn bên cạnh Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng cần yên bờ cõi không kém, đặc biệt là cửa ngõ phía Nam, nơi Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lý trong tác chiến.

– Một cuộc chiến tổng lực giữa Việt Namvà Trung Quốc trên Biển Đông là bất phân thắng bại nhưng là thảm hoạ cho cả hai nước. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều cần hoà bình.

Tôi tin rằng:

– Thượng sách là làm sao để sống hòa bình với Trung Quốc mà vẫn giữ được chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền tinh thần (bao gồm chính trị, văn hóa, lối sống…)

– Hạ sách là phải lựa chọn chiến tranh, dù ngắn hay dài, bởi hệ lụy của nó thì chưa thể biết hết, nhưng điều biết trước là – do cùng chung biên giới – sau sự tan hoang, đổ máu sự căng thẳng luôn trở về đúng điểm xuất phát khi chưa xảy ra binh đao và nguy hiểm hơn là nó tiếp tục làm tăng thêm mối hằn thù dân tộc là thứ sẽ để lại hậu quả cho con cháu lâu dài.

– Tối hạ sách là quá sợ chiến tranh mà đành ôm mối nhục để kẻ thù xâu xé cương vực, nuốt dần lãnh thổ, giết hại dân lành.

Chuyên luận chia làm ba phần: Bản chất của mối quan hệ Việt-Trung; Biển Đông và những điều có thể xảy ra; và Dự đoán hành động của Trung Quốc và sự lựa chọn của Việt Nam.

Tôi được khích lệ, chia sẻ ý tưởng từ nhiều người, nhất là những bạn trẻ nhiệt huyết với vận mệnh đất nước, những đồng nghiệp nhiều ưu tư nhưng vì nhiều lý do mà không thể tự do phát biểu quan điểm như tôi. Tôi xin tặng lại chuyên luận này cho họ.

Có thể những gì tôi suy nghĩ và viết ra chỉ đáng là những điều vô bổ, nông cạn hoặc là những chuyện đã biết rồi, không ai cần đọc. Nhưng tôi không vì điều đó mà nản chí bởi đây là tấm lòng của tôi với đất nước, một đất nước chưa bao giờ thôi khốn khó nhưng là nơi duy nhất tôi có thể sống và chết. Tôi cũng không giấu giếm rằng, cho đến khi hạ chữ cuối cùng của chuyên luận này, tôi vẫn chưa thoát khỏi cảm giác Nghĩ mãi không ra.

PHẦN I:

BẢN CHẤT CỦA MỐI QUAN HỆ VIỆT-TRUNG

Kể từ cuộc xâm lược Đại Việt của nhà Tống cho đến năm 1979, cứ cách ngắn nhất là 200, dài nhất là gần 400 năm (trung bình khoảng 250 năm) người Hán lại chủ động gây can qua với nước ta. Tất cả đều nhằm tới mục tiêu thôn tính lãnh thổ, biến nước ta thành quận huyện của họ. Nếu khẩu độ thời gian này thành quy luật, thì chúng ta đang ở vào thời kỳ Hoà Bình với Trung Quốc. Nhưng không có bất cứ điều gì đảm bảo cho nhận định đó. Tôi luôn cảm thấy chúng ta còn rất ít thời gian để chuẩn bị cho một cuộc đối đầu mới với Trung Quốc, vượt khỏi quy luật về tần suất vừa nêu và về mức độ khốc liệt. Nói cách khác, với Trung Quốc ngày nay, mọi sự đều vô cùng khó lường. Vì thế chúng ta cần phải động não đưa ra được một đối sách để tồn tại hoà bình lâu dài bên cạnh Trung Quốc mà không mất chủ quyền lãnh thổ (trước mắt là không mất thêm vì hiện tại Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của chúng ta) và chủ quyền chính trị. Trong thời gian qua, ngoài quan điểm được nói ra mồm của chính quyền: “Tránh những hành động làm ảnh hưởng đến đại cục trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc”, nổi lên những xu hướng sau từ phía dân chúng trong và ngoài nước:

– Xu hướng chủ chiến muốn Việt Nam dàn quân ngay tức khắc, cụ thể là đưa tàu chiến, máy bay ra để đối lại với những hành động bắt nạt, cướp bóc và giết hại ngư dân Việt Nam mà phía Trung Quốc thực hiện, khi điều kiện cho phép có thể dùng vũ lực đánh chiếm lại quần đảo Hoàng Sa và những vị trí bị Trung Quốc chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa. Xu hướng này cũng lập tức kết tội chính quyền hiện tại hèn nhát, bán nước, làm tay sai cho Trung Quốc và yêu cầu họ nhường quyền lãnh đạo đất nước cho những lực lượng khác. Trong khi chưa thể chỉ ra lực lượng khác ấy là lực lượng nào, những người theo xu hướng này có lẽ cũng đã quên rằng, phần quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc năm 1974 là từ quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, đồng minh số 1 của Hoa Kỳ lúc ấy, khiến hơn 60 chiến sĩ hải quân là con dân nước Việt bị bắn chết một cách tức tưởi trong cảm hứng vô cùng dã man của kẻ thù. Với một hạm đội khổng lồ của ông bạn lớn Hoa Kỳ nằm cách đó vài chục km, với rất nhiều vũ khí hiện đại, nếu người Việt (cụ thể là chính quyền miền Nam lúc ấy) định dàn quân giành lại Hoàng Sa thì không còn cơ hội nào tốt hơn chính thời điểm đó. Thực tế này với chính sách bị coi là nhu nhược của chính quyền hiện tại như một số người quy kết, là hai vấn đề khác nhau và mỗi vấn đề đều cần phải làm rõ, rạch ròi, công bằng trước lịch sử.

– Xu hướng dân tộc chủ nghĩa cứng rắn muốn dựa vào tinh thần dân tộc, tinh thần bài Hán để thể hiện quan điểm cứng rắn với Trung Quốc. Giới hạn của xu hướng này là công khai đối đầu với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao, thậm chí nếu cần thì cắt đứt bang giao, sẵn sàng cho một cuộc đánh trả bằng quân sự. Xu hướng này gây sức ép với chính quyền để họ phải tỏ rõ thái độ chống lại Trung Quốc bằng lời lẽ và hành động ngay lập tức.

Nếu sau mọi chuyện, sáng dậy mở mắt ra chúng ta đã không còn là láng giềng của Trung Quốc thì chẳng có gì phải bàn nhiều.

Thực ra dưới thời cố Tổng bí thư Lê Duẩn, quan hệ Việt-Trung là thể hiện rõ ràng nhất của xu hướng này, với đỉnh cao của cuộc đối đầu là trận chiến biên giới năm 1979, kéo dài 30 ngày trên lý thuyết nhưng phải hơn 7 năm sau mới chấm dứt được sự đổ máu, sau khi để lại một biên giới tan hoang và một nền kinh tế kiệt quệ. Đấy là chưa kể thiệt hại lớn nhất về nhân mạng mà con số chắc chắn là nhiều vạn người vẫn còn trong vòng bí mật quốc gia!

– Xu hướng dân tộc chủ nghĩa mềm dẻo muốn Việt Nam độc lập với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao để tự chủ quan hệ đồng minh với những quốc gia có chung lợi ích chiến lược ở Biển Đông, số 1 là Hoa Kỳ, khiến Trung Quốc không dám cậy mạnh lấn lướt mà phải lựa chọn sự hữu hảo bình đẳng. Mặt khác nhà cầm quyền cần từ bỏ ý thức hệ Xã hội chủ nghĩa như một mặc định vô lý, nhanh chóng dân chủ hoá đất nước theo tấm gương của một số quốc gia phát triển trong khu vực để nâng cao sức mạnh dân tộc, tập hợp được mọi lực lượng, tiến tới đưa nước ta thành một cường quốc kinh tế, quân sự… Khi đó nền hoà bình với Trung Quốc sẽ tự nhiên được thiết lập và có cơ sở để bền chắc và có cơ hội để đòi lại những phần lãnh thổ bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép.

Hàng loạt kiến nghị, tuyên bố… của những nhân sĩ, trí thức, công, nông, binh… trong thời gian qua là theo xu hướng này. Cùng với đó là những đợt người dân hai thành phố lớn xuống đường giương biểu ngữ phản đối Trung Quốc khi có sự cố nào đó họ gây ra trên Biển Đông.

Đây là xu hướng trước sau đất nước cũng phải lựa chọn, bởi nó mang tính tất yếu về mặt phát triển, đáp ứng nhiều nhất lợi ích của dân tộc trên mọi phương diện. Tuy nhiên khi tiếp cận ở một vài vấn đề then chốt vẫn còn hấp tấp, thiếu đi độ lạnh của lý trí, sự điềm tĩnh cần thiết để duy trì sự tỉnh táo. Chính vì thế nhiều ý tưởng đầy trách nhiệm với quốc gia, xuất phát từ những tấm lòng lớn với xã tắc, lại bị lồng trong cái vỏ của thứ ngôn ngữ chỉ dùng khi chửi bới, miệt thị, chế nhạo khiến mất đi tính đối thoại, rất đáng tiếc. Ngoài ra, vì để cho sự bức xúc chi phối mà nhiều ý kiến thành tâm bị mọi người hiểu sai, dẫn đến tác giả của nó bị vùi dập không thương xót, cũng làm mất đi không khí bàn bạc, tôn trọng nhau mà đáng ra giới trí thức phải gương mẫu duy trì (*). Với cá nhân tôi, những gì xảy ra giữa một bộ phận người dân với chính quyền Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là với Nhà nước Việt Nam thời gian qua là một bi kịch dân tộc. Trong khi kẻ thù đang lăm le ăn sống nuốt tươi lãnh thổ của Tổ Quốc, thì nội bộ Dân tộc lại bị phân tán. Tôi phản đối mạnh mẽ cách thức hành xử của chính quyền khi đàn áp biểu tình, tấn công các blogger có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc. Hành xử như vậy cho thấy chính quyền thiếu tự tin về trí tuệ nhưng lại quá tự mãn, ngạo mạn với vai trò và quyền lực của mình. Chính quyền không thể cho mình cái quyền không cần đối thoại với dân chúng mà chỉ một mực đòi họ tuyệt đối tin tưởng, trước một vấn đề nước sôi lửa bỏng như vấn đề chủ quyền và sinh mệnh đồng bào. Họ là những người dân bình thường, không thể đòi hỏi họ cũng phải tư duy như những chính khách và càng không thể vì thiếu tư duy ấy mà họ bị khép tội. Họ có quyền lo lắng cho đất nước và cần biết niềm tin của họ có cơ sở hay không và đang đặt vào đâu. Ngay cả khi phải giữ bí mật, phải đóng kịch với Trung Quốc để không phá vỡ sách lược nào đó không cần phải cho người dân biết, thì vẫn có cách chuyển tải điều đó cho dân chúng. Sự vụng về thì có thể thông cảm được chứ rất khó mà chia sẻ với cái kiểu “bí thí tốt” như đã xảy ra.

Nhưng mặt khác cũng phải nói một sự thật rằng, chúng ta không thể đối phó được âm mưu của Trung Quốc muốn chiếm vĩnh viễn Hoàng Sa và Trường Sa nếu chỉ bằng những cuộc biểu tình trên đường phố hoặc những lời hô hào trên Internet. Đánh thức lòng yêu nước, sự cảnh giác của mọi tầng lớp dân chúng trước âm mưu Hán hoá mà Trung Quốc đang tiến hành với Việt Nam là cần thiết, thậm chí cấp thiết hơn bao giờ hết và chắc chắn còn có nhiều cách khác nữa. Nhưng sự tỉnh táo sau đó để giải mã hành động của Trung Quốc rồi đưa ra đối sách khôn ngoan mới là thứ cần thiết hơn. Chúng ta không sợ một cuộc chiến tranh với Trung Quốc – nếu nó xảy ra – không có nghĩa rằng chúng ta luôn sẵn sàng để tuyên chiến với Trung Quốc, đặt đất nước thường xuyên bên bờ vực chiến tranh. Những lời hô hào kích động cho một cuộc chiến tranh thấy rải rác đâu đó, là vô cùng thiếu lý trí, thậm chí là vô trách nhiệm. Nếu ai đó ở Trung Quốc cũng nuôi quan điểm như vậy với Việt Nam, cho dù họ ở thế nước lớn gấp 30 lần chúng ta, cũng đáng bị coi là thiển cận.

Một cuộc chiến tranh với Trung Quốc là điều đầu tiên chúng ta (và không chỉ chúng ta, ngay nước Mỹ, nước Nhật…) phải tìm mọi cách để tránh khi còn có thể. Bản thân Trung Quốc cũng phải làm điều tương tự với các láng giềng của họ, ngoại trừ họ ảo tưởng mù quáng về sức mạnh hoặc có kẻ nào đó trong giới chóp bu tại Bắc Kinh lại thích cá cược với lịch sử. Tìm mọi cách để tránh, khác với tránh nó bằng mọi giá. Đọc lại lịch sử chúng ta đều nhận thấy ông cha ta cực kỳ nhất quán với quan điểm đó, tức là cố gắng hoà hiếu đến phút chót và chỉ khi không còn cách nào khác mới phải dùng đến vũ khí. Trước thế giặc quá mạnh, Triều đình Nhà Trần thậm chí đã nghĩ đến chuyện buông vũ khí để mong không phải chịu cảnh binh đao khốc liệt có nguy cơ huỷ diệt cả dân tộc! Sửa chữa sai lầm chết người đó chính là nhân sĩ, trí thức, tướng lĩnh và những người dân cày Đại Việt. Rút cuộc vua tôi nhà Trần đã khiến kẻ thù phải bạc tóc hàng trăm năm sau mỗi khi nhớ lại cuộc xâm lược nhục nhã đó. Bởi vì nhà Trần có những vị vua vô cùng anh minh, lại khiêm nhường (những người còn tin có thần Phật, trời đất đều khiêm nhường), biết coi sinh mệnh của xã tắc cao hơn sĩ diện cá nhân, sĩ diện của triều đại. Nhà vua dám nói lên suy nghĩ của mình, dám thú nhận với bá tính sự kém cỏi, thiếu tự tin của mình trước một kẻ thù quá mạnh (dám thú nhận sự kém cỏi của mình chưa bao giờ là người kém cỏi!), cần đến các hiền tài dân tộc, cần tiếng nói quyết định của mọi tầng lớp nhân dân. Chính nhờ ở tinh thần “bóp nát quả cam”, ở những lời nói khẳng khái “Đầu thần còn trên cổ thì hoàng thượng chớ lo”, “Nếu định hàng giặc thì trước hết hãy chém đầu thần đi đã”… mà Triều đình nhà Trần đã kết thành một khối rắn chắc chôn vùi huyền thoại sức mạnh Nguyên-Mông và tạo nên hào khí Đông A để tiếng thơm đến muôn đời. Có những bậc minh quân như vậy, những người biết chọn đối thoại, biết lắng nghe thay vì đối đầu với dân chúng, làm sao kẻ thù có thể thắng được.

Giờ đây là lúc cả dân tộc cần đến một sự gắn kết, cần một sự đồng lòng, cần những bộ óc thông minh, trong sạch hơn bao giờ hết. Bởi vì vận mạng của dân tộc, sự tồn vong của xã tắc chưa bao giờ bị đặt vào thế chông chênh như hiện tại. Kẻ thù ngày nay không phải là những đạo quân công khai tuyên bố sẽ làm cỏ cái nước Nam nhỏ bé với những tối hậu thư ngông cuồng và lỗ mãng, ép con dân Việt phải cầm vũ khí. Kẻ thù ngày nay luôn mang bộ mặt bạn bè, thậm chí còn là những người có cùng mục tiêu lý tưởng, luôn luôn vuốt ve bằng những lời lẽ ngoại giao thuộc loại lịch sự nhất. Kẻ thù trước đây đặt chúng ta vào tình thế hoặc đánh lại hoặc bị tiêu diệt. Kẻ thù ngày nay tạo cảm giác là chỗ dựa tin cậy, cùng tồn tại và cùng phát triển, vì một mục tiêu cao cả cùng hướng tới. Nhưng trên thực tế, chưa khi nào nước ta bị xâm lược ở quy mô lớn và toàn diện như hiện nay. Chưa khi nào nguy cơ lại rơi vào vòng lệ thuộc ngoại bang của dân tộc chúng ta hiển nhiên như hiện tại. Vì vậy con dân nước Việt mà đại diện của nó là giới trí thức, phải thật tỉnh táo để không gây ra trạng thái rối trí.

Chúng ta phải xác định ngay với nhau rằng, Trung Quốc là mối bận tâm lớn nhất của người Việt, từ cổ sử cho đến muôn đời. Người Pháp, người Nhật và sau cùng là người Mỹ, chỉ là những yếu tố ngẫu nhiên làm gián đoạn mối bận tâm chính yếu đó, xét trên suốt hành trình là không đáng kể cho dù nó cũng đã làm thay đổi số phận của dân tộc. Chính các cường quốc phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ đã giúp người Việt tạm thời quên đi những đau thương do Trung Quốc gây ra. Quan hệ Việt-Trung bỗng nồng ấm tình anh em khi người Pháp và liền sau là Mỹ quyết chia cắt Việt Nam để “ngăn cơn sóng đỏ”. Không thể trách những nhà chính trị miền Bắc thời ấy khi họ buộc phải dựa vào Trung Quốc (giống như những nhà chính trị của chính thể Việt Nam Cộng hoà phải dựa vào Hoa Kỳ) cho dù không ít người nhận ra bên trong những kiện hàng viện trợ là một tính toán lâu dài về lãnh thổ và lợi ích quốc gia của người Hán. Họ (bao gồm cả hai phía) đáng trách ở chỗ đã ngạo mạn đánh đồng các mục tiêu chính trị có tính đảng phái dựa trên những chủ thuyết chính trị, với các mục tiêu dân tộc vốn cao hơn, thiêng liêng hơn mọi ý thức hệ. Vì thế, người Việt nên trách nhau một cách nghiêm khắc thì công bằng hơn. Chúng ta đã thất bại quá lâu cho một cuộc hoà giải dân tộc (**) (giờ này vẫn chưa hết thất bại!), tạo cơ hội cho các loại ngoại bang nhảy vào xâu xé, chia chác, tự tiện đưa ra những quyết định theo ý họ trên lưng người Việt. Hàng triệu con cháu của bà Âu Cơ bị chính người anh em, đồng bào của họ giết chết bởi vũ khí ngoại bang, là điều khủng khiếp nhất của lịch sử đất nước và các thế hệ tương lai phải tiếp tục suy ngẫm về cơn bĩ cực đau thương đó. Trong số những ngoại bang ấy thì Trung Quốc là ẩn số lớn nhất, chứ không phải Hoa Kỳ. Việc Trung Quốc mạnh mẽ viện trợ chiến tranh cho Bắc Việt Nam nhưng lại không muốn thấy một nước Việt Nam thống nhất, là bằng chứng rõ ràng nhất về điều đó. Họ muốn người Việt tàn sát nhau cho tới người cuối cùng để dễ bề nuốt gọn cái dải đất phía Nam mà hàng ngàn năm ông cha họ không thực hiện được, hoặc ít ra cũng biến thành cái đệm an ninh như họ đang đạt được với Bắc Triều Tiên. Trung Quốc là bậc thầy thiên hạ về khả năng giấu kín những mục tiêu chiến lược của mình. Những lời dạy của Đặng Tiểu Bình “Giấu mình chờ thời” đã nói rõ bản chất của nền chính trị Trung Hoa hiện đại. Giấu mình khi chưa đủ mạnh. Chờ thời cơ chín muồi, trong đó Trung Quốc đã là cường quốc, trong khi những cường quốc khác suy yếu, sẽ làm một cuộc trỗi dậy, đánh úp thiên hạ để rửa nhục cho những thất bại triền miên của dân tộc Trung Hoa (không phải chỉ thất bại trước người Việt). Thực ra đây là một tư tưởng nguy hiểm cho thế giới, đặc biệt với những nước láng giềng trong đó có Việt Nam. Và cũng chính thủ đoạn đầy tinh thần Đại Hán đó đã xác định bản chất của mối quan hệ không chỉ Việt-Trung mà cả giữa Trung Quốc với thế giới.

Chưa khi nào Trung Quốc ngạo mạn và tự tin vào sức mạnh của họ như hiện nay.

May mắn lớn nhất là đến giờ này chúng ta vẫn chưa bị Hán hoá! Trên thế giới hiếm có một dân tộc nào bị đô hộ tới cả ngàn năm mà lại vẫn sống sót với tư cách một dân tộc, để rồi sau đó phát triển thành một quốc gia, như Việt Nam. Đó là bi kịch khủng khiếp cho cả hai phía. Trong khi chúng ta bị dồn đuổi, bị áp bức, bị lệ thuộc, thì kẻ đô hộ cũng chẳng sung sướng gì. Sau một ngàn năm, việc người Hán đành phải nuốt hận dừng chân trên đường chinh phạt xuống phía Nam, chấp nhận có một quốc gia bé hơn họ gần ba mươi lần về diện tích, sống bên cạnh như một láng giềng, mà lại là láng giềng bướng bỉnh, là nỗi hổ thẹn không dễ gì quên đi được. Bằng chứng là từ khi nhà nước Đại Việt ra đời cho đến cuối thế kỷ 20, tức là 1000 năm sau đó, họ đã tám lần xua binh hùng tướng mạnh, lần lượt đối đầu với sáu triều đại chính của Việt Nam, quyết rửa nỗi nhục đế quốc mà vẫn không thành. Điều đó xác lập nên mối quan hệ lịch sử trớ trêu và bi thảm giữa chúng ta và Trung Quốc. Mỗi lần Trung Quốc muốn làm cỏ nước Nam, thì thêm mỗi lần họ phải nuốt xuống sâu hơn nỗi nhục thất bại. Nỗi nhục đó là nỗi nhục Quốc truyền. Ý thức rõ không thể tránh được Trung Quốc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tìm ra một triết lý sinh tồn bên cạnh người láng giềng khổng lồ và chưa bao giờ hết tham vọng lãnh thổ, đó là “thần phục giả vờ” (chữ của cố giáo sư Trần Quốc Vượng). Nghĩa là bề ngoài cha ông ta luôn tỏ vẻ thần phục Bắc triều với các hình thức dâng lễ vật hàng năm, bẩm báo một cách hình thức những việc trọng đại, chấp nhận chịu lễ phong vương (tức là chấp nhận thuộc quốc về mặt hình thức)… Thậm chí sau mỗi cuộc chiến, dù mình là người chính nghĩa và chiến thắng, nhưng – như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi và sau này là Quang Trung đã làm – vẫn giành cho kẻ thù chút sĩ diện để nó không quá nhục mà trở nên điên cuồng. Nhưng bên trong thì lúc nào cha ông ta cũng giữ độc lập, bình đẳng với Trung Quốc trong mọi việc, sẵn sàng – cả về tinh thần (đoàn kết dân tộc) lẫn vật chất (rèn luyện binh sĩ, vũ khí, chẳng hạn chính sách “ngụ binh ư nông”… hoàn toàn chỉ để đối phó với Trung Quốc) – để cho gã khổng lồ nếm tiếp nỗi nhục thất bại nếu nó lại gây can qua. Về phía các triều đại Trung Quốc, một mặt họ cay đắng chấp nhận sự thần phục mà họ biết rõ là vờ vĩnh đó, một mặt họ không nguôi tìm cách xóa xổ nước Việt ở phương Nam, khi điều kiện cho phép. Điều kiện đó là khi nước nhà ta suy yếu hay lủng củng về nội bộ. Điều kiện đó còn là khi các triều đại của Trung Hoa tiếm quyền nhau và muốn lấy lòng dân chúng, muốn chứng tỏ họ hùng mạnh, muốn mở mang cương vực (thời điểm hiện tại có vẻ như đang hội đủ những yếu tố bên trong và bên ngoài như vậy!). Họ đã thành công với hầu hết các nước nhỏ ở phía Tây, phía Bắc nhưng chưa bao giờ làm được điều tương tự khi quay xuống phương Nam. Vì thế, sự ngang nhiên tồn tại một nhà nước của một trong số những tộc Việt không thể tiêu diệt, chính là nỗi hận truyền đời của người Hán. Vì những mục tiêu lâu dài, trong một số điều kiện không thể chủ động, Trung Quốc buộc phải làm chỗ dựa cho Việt Nam trong một thời gian. Đây là một phần của sự thật lịch sử bang giao hiện đại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sự thật này có vẻ bề ngoài ngọt ngào nhưng bên trong vẫn là cái hạt đắng đót kết lại từ hàng ngàn năm quá khứ mà chính sách trắng của Bộ ngoại giao Việt Nam năm 1979 đã chỉ ra. Cuộc chiến biên giới Tây Nam năm 1978 với chế độ đồ tể Pônpốt và cuộc chiến phía Bắc năm 1979 với bậc thầy của hắn ta, tuy với hai quốc gia khác nhau nhưng đều có một điểm xuất phát từ Bắc Kinh. Nó là nút thắt định mệnh mỗi 250 năm (chính xác chỉ có 190 năm, kể từ cuộc xâm lược của nhà Thanh, là khẩu độ thời gian ngắn nhất) của lịch sử chưa bao giờ hữu hảo thật sự giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Giờ đây, cho dù được khoác bằng những chữ vàng về tình anh em, được tô son trát phấn bởi đủ thứ mỹ tự, thì quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, trên thực tế là quan hệ giữa một con mãnh thú luôn đói mồi với một con nhím chỉ muốn yên thân nhưng bất khuất, đầy kinh nghiệm thoát hiểm và có khả năng làm đối phương phải tổn thương. Người Trung Quốc có thể cũng rất muốn có sự yên ổn ở phía Nam, nhưng với điều kiện các đòi hỏi về lãnh thổ và lãnh hải – đặc biệt là lãnh hải – của họ phải được thoả mãn. Mà điều vô lý theo kiểu sô-vanh đó thì không bao giờ được chấp nhận, một khi người Việt chưa diệt vong. Vì vậy, mọi sự hữu hảo giữa hai đảng, hai nước, hai dân tộc… chỉ là sự vờ vịt mà cả hai bên đều đọc thấy hết những gì thật sự ẩn chứa bên trong, sẽ còn kéo dài chưa biết đến bao giờ, ít nhất là chừng nào chúng ta còn chưa giành lại được Hoàng Sa, hoặc chừng nào Trung Quốc chưa trở thành một cường quốc dân chủ, có trách nhiệm và do đó từ bỏ tham vọng ngông cuồng, đầy ảo tưởng thể hiện trên bản đồ lãnh hải hình lưỡi bò.

Có thể đã thừa căn cứ để nói rằng: Không ai mong muốn làm láng giềng núi liền núi, sông liền sông với Trung Quốc như những gì thế giới chứng kiến ở họ. To lớn như nước Nga hay Ấn Độ họ cũng không thích thú gì có một ông bạn thâm hiểm, tham tàn và khó lường như Trung Quốc ở bên cạnh. Trong nửa sau thế kỷ 20, Trung Quốc trực tiếp và gián tiếp gây chiến tranh với hầu hết bạn bè lân bang, đúng tinh thần của Binh pháp Tôn Tử: “Viễn giao, cận công”. Vì thế, số phận quả là khắc nghiệt đã đặt chúng ta bên cạnh Trung Quốc, lại ở phía dễ tổn thương nhất. Việc thất bại trong quá trình đồng hoá và xâm lược Việt Nam suốt hai ngàn năm, chưa phải là bài học cuối cùng cần khép lại vĩnh viễn với người Trung Quốc. Họ sẵn sàng theo đuổi tiếp hai ngàn năm nữa để thực hiện mục tiêu đó. Mấy chục năm hữu hảo, mấy trăm triệu đô la viện trợ để chúng ta có thể “đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng” chỉ là bước đi nhỏ, của một tính toán dài hạn, lạnh lùng, không thay đổi một li một lai mà người Trung Quốc vạch ra chi tiết cho việc thôn tính chúng ta. Xét về mọi khía cạnh thì đây là một thực tế bi thảm mà chúng ta phải đối mặt. Bi thảm vì chúng ta luôn ở thế lép vế so với họ; bi thảm vì chúng ta không có quyền lựa chọn không gian sống khác; bi thảm vì dân tộc chúng ta là một dân tộc quật cường, hoặc sống hoặc chết chứ không trở thành họ, càng không trở thành một bộ phận dơ dáy của họ. Bi thảm còn vì chúng ta không thể nhắm mắt lại rồi hy vọng khi mở ra đã ở bên một nước khác không phải Trung Quốc. Chúng ta, trong bất cứ khoảnh khắc nào đều không được phép sao lãng công việc để ý ông bạn láng giềng. Bỗng dưng nó mạnh lên là phải cảnh giác. Nhưng đột nhiên nó có nguy cơ tan vỡ cũng lại là mối nguy hiểm. Thấy họ cãi nhau với người hàng xóm khác (chẳng hạn như những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc với Nhật Bản hay Philippines), phải nghĩ ngay đến việc họ đang giương đông kích tây, đánh lừa dư luận khỏi chú ý đến mục tiêu chính ở Biển Đông, tức là có thể bất ngờ đánh úp mình bất cứ lúc nào.

Nhưng có lẽ bi thảm nhất là vô tình chúng ta đóng vai trò vật cản tự nhiên của tham vọng bành trướng Đại Hán Trung Quốc. Đây là thực tế phũ phàng xác định tính thực chất lâu dài cho mối quan hệ Việt-Trung.

Nói gọn lại, chừng nào Trung Quốc còn nuôi ý đồ độc chiếm Biển Đông, chừng nào Trung Quốc còn chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa, tìm cách gặm dần Trường Sa của Việt Nam, chừng nào người Việt Nam còn không chấp nhận sự chiếm đóng của Trung Quốc trên một phần lãnh thổ, không chấp nhận sự lệ thuộc tinh thần, thì chừng đó quan hệ Việt-Trung là quan hệ của hai đối thủ, mọi sự hữu hảo chỉ là tạm thời và vờ vĩnh. Thực chất của mối quan hệ đó là bên này tìm cách cô lập, làm suy yếu bên kia càng nhiều càng tốt (trên thực tế điều này chỉ đang diễn ra một chiều, từ phía Trung Quốc). Với Trung Quốc là cả một chiến lược toàn diện, dài hạn, nhất quán, được chuẩn bị kỹ với tầm nhìn hàng trăm năm từ chuẩn bị lực lượng quân sự, chèn ép về buôn bán, giao thương, xâm lược văn hoá, quấy nhiễu, gây rối an ninh, áp đặt dư luận bằng quy mô tuyên truyền lớn, thao túng hàng hoá, tiền tệ, công nghệ, làm suy thoái nòi giống Việt (***)… không thể kể hết, đến những can dự vào chính trị, chia rẽ nội bộ, kiềm toả về ngoại giao, kinh tế, nhằm làm cho Việt Nam suy yếu toàn diện, … Còn về phía Việt Nam, chúng ta chỉ có một cách duy nhất là tỉnh táo thoát khỏi những mưu mô đó của Trung Quốc, tận dụng thời cơ trong đó có cả những mâu thuẫn giữa các cường quốc để phát triển. Về phần Trung Quốc, họ nắm toàn bộ sự chủ động, có thể đề ra luật chơi theo ý mình nhưng tuyệt đối không phải vì thế mà họ có quyền định đoạt. Về phần mình, chúng ta bắt buộc phải sống bên cạnh họ – nhiều người có vẻ không nhớ thực tế đơn giản này – đành ở vào thế phải nương theo và vì vậy chúng ta chỉ có thể tồn tại và phát triển bên cạnh Trung Quốc bằng một đối sách khôn ngoan.

PHẦN II:

BIỂN ĐÔNG VÀ ĐIỀU CÓ THỂ XẢY RA

Trung Quốc luôn viện dẫn căn cứ vùng biển lịch sử để bào chữa cho lý do họ muốn chiếm trọn Biển Đông. Một trong những căn cứ mơ hồ đó là tên gọi lấy phương vị dựa theo lục địa Trung Quốc: Biển Nam Trung Hoa. Diễn nôm ra theo ý họ thì đó là vùng biển phía Nam của Trung Quốc. Đây là sự diễn dịch vô lối: từ phương diện thuận tiện cho hàng hải biến thành phương diện chủ quyền. Nó cũng là căn cứ mang màu sắc nước lớn bắt nạt thiên hạ. Trung Quốc chỉ nên lấy đó làm niềm tự hào dân tộc – trên phương diện địa lý, văn hoá, chủng tộc. Thực tế là từng có cả một đại dương mang tên nước Ấn Độ song điều đó không có nghĩa Ấn Độ có chủ quyền toàn bộ cái đại dương mênh mông đó. Mexico trong quan hệ chủ quyền với vịnh Mexico sẽ là ví dụ tiếp theo.

Nhưng mọi tranh cãi chỉ là vô ích và vô nghĩa khi chúng ta hiểu người Trung Quốc nghĩ gì và muốn gì.

Người Trung Quốc tự coi họ là trung tâm của thế giới. Đây vừa là sự phô trương văn hoá, niềm hãnh diện tinh thần của một dân tộc lớn, nhưng chính điều đó cũng bắt đầu cho một bi kịch Trung Hoa kéo dài hàng ngàn năm qua chưa tìm ra lối thoát. Các triều đại Trung Hoa, với vị thế của một nước trung tâm, là vua thiên hạ, đã cố công để cho tấm áo khoác ngoài xứng tầm với vóc dáng của họ. Nhưng chính vì sự cao ngạo dân tộc đó mà suốt hàng ngàn năm, nước Trung Quốc thấy tự đủ là một thế giới, không cần phải mở ra bên ngoài, nơi chỉ là phên dậu, man di của họ. Hoàng đế tài giỏi Càn Long trở thành gã vua gàn khi cứ khăng khăng trước sứ thần người Anh là cho dù các ngươi tài giỏi đến đâu, cũng thua xa nước trẫm! (Chỉ mấy chục năm sau, Trung Quốc phải nhục nhã nhượng Hồng Kông cho Anh Quốc và chịu sự sai bảo như một thuộc quốc). Nghe nói Mao không thèm học ngoại ngữ, bởi vì với ông ta “Thế giới phải học tiếng Trung Quốc!”. Đó là một phần lý do khiến Trung Quốc ngủ yên trên ngai vàng suốt nhiều thế kỷ, tụt lại khá xa so với thế giới phương Tây và Nhật Bản.

Bi kịch xuất phát từ sự kiêu ngạo Trung Hoa khiến nước Trung Quốc chậm phát triển, bị canh chừng trên toàn thế giới. Nhưng điều đó chưa thấm vào đâu so với bi kịch về mặt địa lý trước vị thế của một cường quốc. Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nga… đều là những cường quốc thông với thế giới, hoặc có khả năng mở ra mọi hướng. Riêng Trung Quốc thì lọt tỏm giữa các thành trì – xét theo cả hai nghĩa. Phía Bắc là nước Nga khổng lồ, phía Đông là Nhật Bản và không gian “lợi ích cốt lõi về an ninh” của Hoa Kỳ, phía Tây có Ấn Độ án ngữ, thêm vào đó là vùng đệm Hồi Giáo bị cạnh tranh ảnh hưởng mạnh mẽ giữa Hoa Kỳ và Nga. Về mặt địa lý đó đều là những vùng núi non hiểm trở, đất đai cằn cỗi do sa mạc hoá, lại luôn bất ổn về chính trị, sắc tộc, rất khó kiểm soát. Đó là lý do vì sao Trung Quốc quyết tâm gây chiến với Ấn Độ để thôn tính hoàn toàn vùng đất mà Ấn Độ gọi là Nam Tây Tạng làm ngõ ra phía Tây bằng cái giá đắt. Rủi cho họ là mục tiêu đó chưa thành. Như vậy là ba lối ra của gã khổng lồ mơ giấc mơ đại cường đều vấp phải thành luỹ khó vượt qua, thậm chí là không thể vượt qua. Cuối cùng chỉ còn duy nhất ngả phía Nam, nơi có vùng biển rộng gần bằng nửa diện tích Trung Quốc, nối với ba lục địa quan trọng là châu Âu, châu Mỹ, châu Phi (tức là phần lớn thế giới) và hai đại dương chiến lược. Vùng biển này quan trọng với Trung Quốc cả về quốc phòng, kinh tế lẫn giao thương. Nhưng có lẽ quan trọng nhất là vùng biển này xác định vị thế trung tâm chi phối của Trung Quốc với thế giới về khả năng ảnh hưởng. Nếu cần nói rõ hơn thì sẽ là: Trung Quốc coi Biển Đông của Việt Nam là khu vực Exit của họ, có giá trị bảo hiểm cho những rủi ro dân tộc Trung Hoa về lâu dài. Vì vậy có thể thấy đây là vùng biển yết hầu, có ảnh hưởng to lớn đến mục tiêu bá chủ thế giới của Trung Quốc. Khắc nghiệt nhất với họ là vùng biển ấy lại của người khác, mang sứ mệnh đảm bảo giao thương hàng hải cho cả thế giới. Đây có thể là ý Trời, không muốn quả địa cầu này đến lúc nào đó chỉ còn duy nhất giống người mang dòng máu Hán. Không dân tộc nào có lỗi với Trung Quốc trong vấn đề này. Những gì họ đang làm là hành động cưỡng lại định mệnh xuất phát từ tham vọng mang tinh thần Đại Hán. Hãy giả định Trung Quốc làm chủ phần biển nằm trong đường chữ U do họ tự vẽ. Khi đó toàn bộ nguồn tài nguyên dưới đáy biển, được dự đoán là cực kỳ lớn, thuộc về họ, là thứ của dự trữ tự nhiên, khổng lồ gấp trăm lần vài ngàn tỷ USD dự trữ hiện nay của họ. Toàn bộ nguồn hải sản, đủ nuôi sống hàng trăm triệu người, cũng thuộc về họ. Hình dung tiếp: ngày nào đó thế giới cạn dầu, trong khi Trung Quốc vẫn rủng rỉnh, họ sẽ có quyền đưa ra những quyết định khiến thế giới phải phục tùng. Khi có thể đưa ra bất cứ quyết định nào về Biển Đông, Trung Quốc cũng dễ dàng hơn trong việc bắt chẹt Nhật Bản, Hàn Quốc, đặc biệt là chiến lược thu hồi Đài Loan, hoặc chính Đài Loan, trong thế kẹt không còn sự lựa chọn, phải tự nguyện trở về với Đại Lục.

Lý do thứ tư mang tính võ đoán nhưng rất có thể lại là mục tiêu chủ chốt của Trung Quốc: Muốn thực hiện giấc mơ cai quản toàn bộ khu vực Đông Nam Á, chi phối châu Á, tiến tới thống trị ít nhất là một nửa bán cầu. Chính Mao Trạch Đông đã chả từng muốn làm chủ tịch 500 triệu bần nông Đông Nam Á đó sao? Chính ông ta chả muốn đưa người Trung Quốc xuống sinh sống ở Lào,Thái Lan,Myanmar… đó sao? Liệu đây là sự buột miệng của một hoàng đế tự coi mình ngang với trời, hay là mật chỉ cho các thế hệ con cháu? Chúng ta sẽ phải tìm lý do xác đáng cho nhận định này sau một vài sự kiện ở Indonesia, Campuchia hay gần đây là Myanmar… Nhưng nếu chỉ dừng ở những lý do trên, cũng dễ dàng nhận ra, Trung Quốc sẽ không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để có được điều họ vẫn thèm khát hàng trăm năm qua: Độc chiếm Biển Đông và trở thành đại cường số một thế giới!

Để thực hiện mục tiêu đó, nghe nói Trung Quốc đưa ra đường lối chiến lược 100 năm, lấy mốc là năm 2049, năm kỷ niệm chẵn một thế kỷ thành lập nước Trung Hoa hiện đại! Những năm đầu, do sai lầm trong đường lối kinh tế, do ảo tưởng về sức mạnh Trung Hoa và chủ yếu do mải mê củng cố quyền lực, đấu đá tiêu diệt lẫn nhau, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã khiến đất nước của họ tiều tuỵ, to xác nhưng rỗng ruột, không khiến ai vị nể. Họ đành tạm nuốt xuống mục tiêu đầy tham vọng đã nêu. Và nó được nhớ lại khi ông Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền, mở đầu thời kỳ tư bản hoá nền kinh tế, biến Trung Quốc thành một nước phát triển nhanh nhất (đồng thời cũng tàn phá kinh khủng nhất) thế giới trong ba chục năm qua. Cho dù nhiều người thích nói lấy được khi gán mọi sự tiêu cực cho sự vươn dậy của Trung Quốc, thì sức mạnh Trung Quốc vẫn không vì thế mà thiếu tính hiện thực. Giờ đây càng ngày Trung Quốc càng có trong tay nhiều công cụ để thực hiện giấc mơ cường quốc, thậm chí là cường quốc duy nhất. Nhưng họ vẫn chưa thể đủ sức đưa ra những phán quyết theo ý mình khi chưa có trong tay thứ quan trọng đang thuộc về người khác ở cửa ngõ phía Nam. Họ vẫn phải “giấu mình”. Nếu xét kỹ thì chiến lược “giấu mình chờ thời” của Trung Quốc là vì mục tiêu lớn nhất thâu tóm Biển Đông. Trung Quốc có thể gây ảnh hưởng ở châu Phi, có thể chi phối Nam Á… nhưng đó chỉ là những chi phối mang màu sắc thương mại nhất thời. Tại đó Trung Quốc thực hiện cuộc “bòn vét”, “tận thu” thuộc địa mà không phải xua quân đội chiếm đóng, cai quản. Trên thực tế Trung Quốc thực hiện thứ chủ nghĩa thực dân kiểu Hán: Không chiếm đất mà chỉ cần chiếm của cải, sau đó rũ tay phủi trách nhiệm về vô vàn hậu quả họ để lại. Sẽ đến lúc những nền chính trị ở những khu vực đó trưởng thành, họ sẽ xua đuổi Trung Quốc, y như các thuộc địa xua đuổi thực dân châu Âu đầu và giữa thế kỷ trước. Khi đó người Trung Quốc sẽ thay chân người Mỹ trở thành mục tiêu khủng bố của những kẻ dân tộc chủ nghĩa cực đoan. Biển Hoa Đông, với vài hòn đảo tranh chấp, không quá quan trọng với Trung Quốc về kinh tế cũng như mở rộng không gian sinh tồn. Vả lại họ biết rằng không thể vượt qua bức thành trì Nhật Bản có Hoa Kỳ luôn ở phía sau, một cách dễ dàng. Cuối cùng chỉ có thâu tóm Biển Đông, Trung Quốc mới tạo ra được sự chi phối mang giá trị địa chính trị, chi phối về an ninh, tạo bàn đạp để Trung Quốc vươn ảnh hưởng ra toàn cầu. Thiếu cái bàn đạp định mệnh này, giống như Trung Quốc chưa có điểm dậm chân hữu hiệu cho cú nhảy quyết định xem mình ở tầm cao nào. Điều đó giải thích vì sao Trung Quốc giành mọi ưu tiên chiến lược lãnh thổ cho Biển Đông. Để làm điều này, Trung Quốc dùng mọi thủ đoạn chính trị. Một trong những thủ đoạn thành công nhất của họ là đã khiến cho những đối thủ tiềm tàng mất cảnh giác. Đầu tiên họ tìm cách qua mặt Hoa Kỳ bằng cú lừa “trỗi dậy hoà bình”, chờ Hoa Kỳ sa lầy họ mới lộ diện. Với Việt Nam, đối thủ chính cần tiêu diệt đầu tiên nhưng lại khó nuốt nhất, họ đánh lừa bằng 16 chữ vàng, tinh thần 4 tốt, lấy lợi ích đại cục mang tính ý thức hệ làm chính. Chúng ta chưa đủ bằng chứng để kết luận các lãnh tụ hàng đầu của Việt Nam đều tin vào những lời đường mật của Trung Quốc, nhưng rõ ràng, chúng ta đã để cho Trung Quốc dắt mũi khá lâu (trong đó có cả việc khiến người Việt bịt miệng người Việt về chủ quyền lãnh hải) ít ra là cho đến khi họ vẽ đường lưỡi bò trên Biển Đông. Trong khoảng thời gian 20 năm chơi trò gian lận ngoại giao, Trung Quốc đã chủ động cầm cái cuộc chơi ấy, kịp cho họ âm thầm chuẩn bị lực lượng mọi mặt, trong khi Việt Nam và cả Philippines vẫn bình chân như vại. Hải quân, không quân Việt Nam đã thuộc loại yếu, những lực lượng này của Philippines còn yếu hơn, tạo cho Trung Quốc thế thượng phong tuyệt đối trên biển. Chỉ đến khi tàu Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, nhòm ngó bãi cạn Scarborough mà Philippines tuyên bố chủ quyền, lãnh đạo của hai nước mới không còn có thể nhắm mắt bịt tai tự dối lòng mình được nữa.

Một câu hỏi cấp thiết đặt ra là: Với ý đồ chiến lược ấy, liệu Trung Quốc có quyết tâm đánh chiếm Biển Đông bằng một cuộc hải chiến toàn diện hay không và nó xảy ra khi nào?

Trả lời câu hỏi này trước hết phải trả lời được những câu hỏi sau:

– Hải quân và không quân của Trung Quốc nói riêng và tiềm lực của Trung Quốc nói chung thực chất mạnh đến cỡ nào?

– Nếu trận hải chiến toàn diện xảy ra, liệu nó sẽ kéo quốc gia nào vào cuộc?

– Phản ứng mạnh mẽ nhất của Hoa Kỳ sẽ ở mức nào?

– Hậu quả của cuộc hải chiến mà Trung Quốc phải gánh chịu lớn tới mức nào?

Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng khía cạnh một.

Trung Quốc có nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ, có thể nhanh chóng huy động tiềm lực quốc gia nhưng với hơn 1,3 tỉ dân, trong đó già nửa số đó thuộc diện nghèo đói, áp lực an sinh là vô cùng lớn. Trung Quốc luôn phải đối diện với sự rối loạn từ bên trong. Thay vì tập trung cho việc chiến đấu, quân đội Trung Quốc phải thường trực một lực lượng lớn để đề phòng hội chứng “mùa xuân Ả Rập”.

Hải quân, không quân Trung Quốc tuy mạnh lên khá nhanh nhưng chưa đủ áp đảo trong một cuộc chiến mà tầm hoạt động quá xa như ở Biển Đông. Với diện tích mặt nước mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền rộng hơn 3 triệu km vuông, thì lực lượng hải quân của Trung Quốc hiện tại quá mỏng, lại chưa từng qua thử thách chiến trường, trong khi đó đối phương sẽ không bao giờ chịu ngồi yên. Bài học về cuộc chiến biên giới năm 1979 hẳn nhiều nhà quân sự Trung Quốc chưa quên. Lừa được Việt Nam mất cảnh giác để bất ngờ mở cuộc đánh úp khiến lực lượng “mỏng dính” của Việt Nam nhanh chóng bị chọc thủng. Nhưng chỉ sau đó vài ngày phía Trung Quốc bắt đầu ngấm đòn từ những chiến binh Việt ngày thường mặc áo nông dân. Trên bộ còn thế nữa là trên biển, nơi chưa bao giờ Trung Quốc được coi là có thế mạnh. Đó là chưa kể sau khi đánh chiếm rồi thì còn phải giữ được nó. Trung Quốc rất biết điểm yếu này. Trung Quốc chưa có tàu sân bay và về lâu dài thì tàu sân bay của Trung Quốc cũng chưa thể hoạt động có hiệu quả. Không quân Trung Quốc giương oai thanh thế với thiên hạ là chính chứ chưa thể với tầm ra toàn bộ Biển Đông, đặc biệt là khả năng khống chế đối phương có bờ biển dài như Việt Nam. Nếu Việt Nam có kế hoạch phòng thủ tốt trên các đảo ở quần đảo Trường Sa, có sự hỗ trợ của không quân Việt Nam với tầm bay ngắn chỉ bằng một nửa của đối phương, thêm vào sự hỗ trợ của tên lửa phòng thủ bờ biển có độ chính xác cao, tên lửa đặt trên các tàu khu trục, tàu ngầm… thì mặc dù mỏng manh hơn Trung Quốc nhiều lần, các lực lượng phối hợp đó vẫn là đối tượng khó vượt qua của Trung Quốc. Vì vậy, ngay cả khi Trung Quốc có thể tự do hành động (ngụ ý không bị cản trở trực tiếp bởi Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ…), Trung Quốc cũng phải tính toán cực kỳ kỹ lưỡng trước khi khai hoả. Nếu chỉ dựa vào sức mạnh thuần tuý, Trung Quốc chưa dám phiêu lưu bằng cuộc chiến tổng lực quá nhiều rủi ro như vậy.

Việc quốc gia nào bị kéo vào cuộc xung đột trực tiếp, phần lớn phụ thuộc vào tính toán của Trung Quốc. Đây là lợi thế của nước lớn. Họ sẽ chủ động điều chỉnh phạm vi chiến trường sao cho không phải phân tán lực lượng và không thách thức công khai Hoa Kỳ. Bằng vào những thực tế chính trị, địa lý hiện tại, có thể trả lời, ngoài Việt Nam, sẽ không có nước nào bị lôi kéo đối đầu trực tiếp với Trung Quốc. Những gì mà Trung Quốc chuẩn bị công phu mấy chục năm qua cho lực lượng hải quân và không quân là để đối đầu và đè bẹp Việt Nam! Những hành động cố làm cho to chuyện ở biển Hoa Đông chỉ là đòn nghi binh của Trung Quốc, để Việt Nam mất cảnh giác. Nhưng Trung Quốc biết rõ những lực lượng nào của thế giới sẽ hậu thuẫn Việt Nam, những lực lượng mà chỉ khi chiến tranh nổ ra họ mới công khai xuất hiện, vì lợi ích của họ và còn cả vì sự căm ghét Trung Quốc là thứ tình cảm có thật vẫn tồn tại trên khắp hành tinh. Điều đó có nguy cơ đẩy Trung Quốc trở thành kẻ chống lại phần lớn thế giới.

Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất hiểu sâu sắc và thực tế cái giá đắt mà họ, sau đó đến thế giới phải trả một khi Trung Quốc chiếm được Biển Đông. Nếu để chuyện đó xảy ra, Hoa Kỳ sẽ mất lợi ích và mất quyền lãnh đạo thực sự với thế giới, đặc biệt là với khu vực Thái Bình Dương cực kỳ quan trọng với họ. Ngoài ra Hoa Kỳ còn có nghĩa vụ với đồng minh là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Úc, Singapore… những quốc gia có lợi ích kinh tế và an ninh gắn chặt với Biển Đông. Vì những lý do chiến lược ấy, Hoa Kỳ sẽ quyết tâm ngăn cản bằng các biện pháp gián tiếp để cuộc chiến không xảy ra. Hoa Kỳ làm được điều này, ít nhất là trong tương quan hiện tại. Trung Quốc chưa đủ mạnh và còn rất lâu nữa vẫn chưa đủ mạnh đến mức có thể phớt lờ những cảnh báo mang tính răn đe của Hoa Kỳ!

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đến yếu tố quan trọng nhất quyết định cuộc chiến Biển Đông có xảy ra hay không, đó là hậu quả của nó mà Trung Quốc phải gánh chịu lớn tới mức nào.

Thế giới này luôn luôn hiện hữu những mối ràng buộc giữa các quốc gia, các châu lục. Trung Quốc, như đã phân tích, cho dù có tiềm lực quốc gia lớn, nhưng vẫn là nước mới thoát nghèo về thu nhập. Trung Quốc luôn luôn có vấn đề nội bộ khiến họ rất khó phình to thêm mà không sợ bị tan vỡ. Chỉ riêng vấn đề Tây Tạng, Tân Cương… có thể sẽ hút cạn vốn liếng chính trị và sự tự tin của họ trong thời gian tới đây. Trên thực tế trong mấy thập kỷ qua Trung Quốc phát triển được là nhờ ở việc chấp nhận có sự phụ thuộc lẫn nhau. Không mở cửa với Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu… không bao giờ Trung Quốc có được vị thế kinh tế, quốc phòng như hiện nay. Mối liên quan ràng buộc chặt chẽ với nhau này khiến mỗi quốc gia không thể tuỳ tiện đưa ra những hành động đơn phương mà không gây tổn thất cho quốc gia khác và cho chính mình. Nền hoà bình thế giới và khu vực được duy trì chính bởi những sợi dây quyền lợi này. Vì thế Trung Quốc sẽ phải lượng xem họ có thể chịu nổi hậu quả của một sự ly khai của thế giới khi họ phát động chiến tranh hay không. Chẳng hạn một lệnh trừng phạt kinh tế của Hoa Kỳ và đồng minh nhắm vào Trung Quốc, nếu họ gây chiến với Việt Nam và Philippines. Một sự trừng phạt như vậy là hoàn toàn hiện thực. Và Trung Quốc như một gã khổng lồ với đôi chân yếu, có thể không chịu nổi điều đó nhiều hơn thời gian tối thiểu mà một quốc gia yếu kém có thể chịu đựng. Hoặc chẳng hạn một cuộc tẩy chay Trung Quốc và các lợi ích của Trung Quốc diễn ra trên toàn cầu? Điều này cũng hoàn toàn có thể thành hiện thực. Trung Quốc khi đó sẽ đánh mất toàn bộ thứ giá trị Trung Hoa mà họ gây dựng, cổ suý suốt bao nhiêu năm trước khi có thể trở thành cường quốc thực sự. Đó là chưa kể Trung Quốc có thể phải đối mặt với những cuộc ly khai mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa của các vùng lãnh thổ tự trị rộng lớn, tạo điều kiện cho Ấn Độ mở rộng ảnh hưởng. Bởi vì xã hội Trung Quốc chưa bao giờ thống nhất. Nó luôn tiềm ẩn sự chia rẽ sâu sắc và chỉ chờ cơ hội để nổ ra.

Trên đây chúng ta đã chỉ ra những hạn chế về thực lực quân sự và những ràng buộc chính trị khiến Trung Quốc phải cân nhắc khi họ dự định một cuộc hải chiến lớn ở Biển Đông. Dù sao thì những nhận định đó cũng chỉ là giả thuyết tương đối. Với nền chính trị kiểu Trung Hoa thì một cuộc phiêu lưu quân sự đôi khi được bắt đầu bằng những lý do rất mơ hồ và khó lường. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cũng đã từng nằm ngoài mọi dự đoán của nhiều nhà phân tích trong và ngoài nước, khi họ quá tin vào logic thông thường, chỉ dựa trên những hiện tượng bề nổi. Nhưng còn có thứ logic khác, đó là logic của thứ phi logic mà văn minh Trung Hoa luôn coi đó như một sản phẩm độc đáo. Có thể đã đủ chứng cứ khẳng định cá nhân ông Đặng Tiểu Bình đưa ra quyết định xâm lược Việt Nam, phần nhiều vì sĩ diện cá nhân và còn vì ông muốn làm một cú test quyền lực cho bản thân. So với cú test của Mao, thì số sinh mạng ông Đặng đem ra đặt cược nhỏ hơn rất nhiều. Ngay cả con số lính Trung Quốc bỏ mạng trong một tháng Nam chinh ấy là 30 ngàn như ước tính của Hoa Kỳ, thì cũng chỉ bằng một phần ngàn số người mà bậc đàn anh của ông làm thịt vì cuộc thử nghiệm quái gở mang tên Cách mạng văn hoá. Nền chính trị Trung Hoa luôn ẩn chứa rủi ro không chỉ cho họ mà còn cho thế giới, vì nó vẫn là một nền chính trị tôn sùng bá đạo, thực chất là một nền chính trị thủ ác, nền chính trị của bóng tối. Vì thế, nếu chỉ vì những ràng buộc trên, chưa đủ để khẳng định một cuộc chiến đẫm máu, do Trung Quốc khởi xướng, không xảy ra trên Biển Đông. Nhưng lý do sau đây có thể là điều khiến Trung Quốc sẽ còn phải chùn tay: Họ không dám chắc thắng tuyệt đối bằng một trận tổng lực, trong thời gian ngắn, tức là chưa có trong tay kịch bản kết thúc cuộc chiến. Mà điều này thì hoàn toàn có thể xảy ra. Lịch sử của những cuộc nhà Hán chinh phục phương Nam hẳn là điều họ chưa thể quên được. Thêm một lần thất bại nữa, nước Trung Hoa hiện đại có thể sụp đổ, trước hết là sụp đổ tinh thần Trung Hoa mà họ đang tìm mọi cách dung dưỡng. Hậu quả nhãn tiền của nó là sẽ khiến mọi bí mật hư hư thực thực của tiềm lực Trung Hoa – thứ mà Trung Quốc đang sử dụng hiệu quả trong việc chèn ép thiên hạ – bị lộ mặt, từ đó bẽ mặt với cả đồng minh lẫn kẻ thù. Lợi thế răn đe của Trung Quốc với các lân bang khác ngoài Đông Nam Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, đặc biệt là Đài Loan… cũng vì thế mà không còn. Khi đó Trung Quốc mất sạch cả vốn lẫn lãi và có thể lịch sử Trung Hoa buộc phải viết lại từ nhiều trang trong quá khứ.

Vì vậy, như đã nói, vấn đề lớn nhất với Trung Quốc không phải là bắt đầu cuộc chiến như thế nào, mà sẽ kết thúc cuộc chiến ra sao? Các chiến lược gia diều hâu của Trung Quốc chưa thể nghĩ ra kịch bản nào tốt hơn là sau khi khai hoả, ồ ạt áp đảo đối phương bằng lực lượng vượt trội, có thể giành một chút chiến thắng nhưng sau đó sẽ lại phải rút về. Nếu biết trước như vậy mà vẫn lao vào thì chỉ những kẻ mất trí mới làm. Không kết thúc được, nghĩa là toàn bộ sườn phía Nam có giá trị như cửa sinh tử của Trung Quốc sẽ ở trong tình trạng chiến tranh, chưa biết đến bao giờ. Khi đó quyền chủ động cuộc chơi nằm trong tay các nước đối đầu mà nguy hiểm nhất với họ chính là Việt Nam. Việt Nam là dân tộc có khả năng phòng thủ kiên cường và nghệ thuật quân sự chứa nhiều ẩn số vào loại nhất thế giới. Khi buộc phải đánh nhau, khi Biển Đông là chiến trường, khi có sự hỗ trợ ngầm về vũ khí từ các cường quốc vì lợi ích của họ, thì Việt Nam có thể khiến Trung Quốc sống dở chết dở, có khả năng bóp nghẹt, cắt đứt con đường giao thương quan trọng nhất của họ để qua eo biển Malacca. Những gì họ đang làm ở Campuchia là để phòng xa sự cố này cũng sẽ vô ích. Không ai phải nghi ngờ điều này và cũng không cần phải có tới 5000 quả tên lửa diệt hạm, con số trên lý thuyết để dìm toàn bộ lực lượng hải quân của Trung Quốc xuống Biển Đông. Bởi vì đó là bản năng sinh tồn của người Việt hình thành từ hàng ngàn năm, để không thể bị tiêu diệt.

Kết lại: Trung Quốc sẽ khai hoả ngay tức thì ở Biển Đông một khi họ đã có trong tay kịch bản kết thúc chiến tranh. Chúng ta sẽ phải cho người Trung Quốc thấy, không bao giờ họ thực sự có trong tay cái bảo bối ấy và do đó, một điều tưởng phi logic khác lại trở thành thứ logic của định mệnh: Chính người Việt sẽ quyết định có cho phép Trung Quốc làm mưa làm gió ở Biển Đông hay không. Việt Nam là nước nhỏ hơn nên luôn cần hoà bình, sống yên ổn bên cạnh Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng cần yên bờ cõi không kém, đặc biệt là cửa ngõ phía Nam, nơi họ không thể phớt lờ Việt nếu muốn có sự đảm bảo trên thực tế về an ninh. 

PHẦN III:

DỰ ĐOÁN HÀNH ĐỘNG CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM

Tuy nhiên, việc Trung Quốc nuôi ý đồ quyết chiếm đoạt Biển Đông là điều không còn gì phải nghi ngờ. Đừng ai ảo tưởng tin vào thiện chí của Trung Quốc, được quảng bá bằng đủ thứ lời lẽ ngoại giao hoa mỹ. Vấn đề cần quan tâm là họ có khả năng làm được điều đó hay không và phương pháp mà họ sẽ tiến hành.

Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra phỏng đoán, trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ “doạ” là chính, tìm cách gây áp lực, mua chuộc, ve vãn, chèn ép… để các nước có liên quan đến Biển Đông lâm vào khó khăn phải tìm cách thoả thuận với Trung Quốc theo những điều kiện Trung Quốc đặt ra. Cách Trung Quốc làm vẫn sẽ là tạo ra những sự cố ồn ào rồi nhân đấy áp đặt quan điểm của họ hoặc nếu có thể thì gặm một miếng – như miếng Gạc-ma năm 1988 và miếng Vành khăn năm 1995, 1998. Khi các quốc gia kịp phản ứng thì việc đã ở vào chuyện đã rồi. Nói rõ ra thì Trung Quốc sẽ vẫn chỉ áp dụng biện pháp tằm ăn dâu, gặm từ từ, đánh lấn, quấy nhiễu, chủ động làm phức tạp hoá tình hình để can dự và gây áp lực. Cách làm này của Trung Quốc có lợi thế tuyệt đối với họ.

Thứ nhất họ chỉ có thắng mà không thua, chỉ được mà không mất, vì đối phương vốn ở thế yếu, sẽ phải kiềm chế, không dễ có hành động tương ứng đáp trả ngay tức khắc.

Thứ hai là họ phân hoá được đối tượng làm áp lực với họ. Vì lợi ích quốc gia, nhiều nước sẽ dĩ hoà vi quý để hưởng lợi. Nhiều nhà phân tích phương Tây cho rằng, không ít quyết định của chính quyền địa phương, của quân đội Trung Quốc liên quan đến Biển Đông là tự ý, chính quyền trung ương không biết. Nhận định này căn cứ trên lời bao biện của một số nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc. Nó có thể do quá ngây thơ, hoặc do thói quen sống trong môi trường thượng tôn luật pháp, mọi thứ đều minh bạch kiểu dân chủ phương Tây. Thực ra đó là thứ kế sách kiểu Trung Hoa. Họ dùng biện pháp đó để dò đường. Nếu mọi chuyện êm xuôi, thì coi như là chính sách của nhà nước. Còn nếu không thuận lợi, thì họ dễ bề chối bỏ trách nhiệm ở tầm quốc gia. Tương tự như vậy họ đã dùng tờ Hoàn Cầu thời báo để tung ra những quan điểm mang tính thám hiểm phản ứng của đối phương. Nó dễ dàng biến thành quan điểm của nhà nước Trung Quốc nếu điều kiện cho phép. Đó cũng là cách mà Trung Quốc dùng để “bắn tin dữ” với thiên hạ. Một nền chính trị như ở Trung Quốc hiện nay, nhất cử nhất động đều bị kiểm soát, không cấp dưới nào dám mạo hiểm làm như vậy nếu như đó không phải cũng là quan điểm của chính quyền trung ương.

Thứ ba là chỉ dừng lại ở những phi vụ “vặt vãnh” như vậy, chưa đủ là cái cớ để đối phương hoặc những quốc gia liên quan coi là chiến tranh.

Cái lợi thứ tư là Trung Quốc cho thấy họ liên tục đòi hỏi chủ quyền một cách quyết liệt ở những vùng mà nước khác cũng đòi hỏi. Đây là cách pháp lý hoá những việc bất hợp pháp sau này theo kiểu Trung Hoa. Bước chuẩn bị mà họ vừa làm là thành lập tỉnh Tam Sa. Chúng ta không nên coi thường động thái này. Đầu tiên chỉ là cái tỉnh trên giấy, bị Việt Nam, Philippines… coi là vô giá trị. Nhưng sau đó, họ sẽ ấn cái tỉnh đó vào đầu hàng tỉ người Trung Quốc, tạo ra những giao tiếp thương mại, ngoại giao với các nước láng giềng không bị ảnh hưởng quyền lợi bởi hành động của họ, thông qua Tam Sa. Chẳng hạn hành động mời thầu thăm dò dầu khí vừa rồi. Hay những phi vụ buôn bán thương mại với lợi nhuận hấp dẫn, gắn với cái địa danh Tam Sa? Những hội nghị, triển lãm, thi đấu thể thao nhỏ… do Trung Quốc đăng cai được tổ chức ở Tam Sa! Dần dần cái tên Tam Sa sẽ thành một địa danh quen thuộc với thế giới. Nó sẽ đi vào các văn bản giấy tờ mang tính quốc tế. Nó cứ từ từ là một đơn vị hành chính hiện thực của Trung Quốc. Khi đó những hoạt động trên Biển Đông của chúng ta, được mặc nhiên coi là hoạt động ở tỉnh Tam Sa của Trung Quốc! Thế giới không bị buộc phải nhớ Tam Sa thực chất là cái gì, gây tổn hại cho ai, mà họ chỉ cần biết Tam Sa mang lại cho họ cái gì. Giống như thói quen thế giới gọi biển phía Nam Trung Quốc là biển Hoa Nam, tết Âm lịch là tết Trung Quốc, đến lúc nào đó, họ chỉ còn biết Tam Sa là một tỉnh của Trung Quốc! Về phần mình, Trung Quốc sẽ dựa vào đó để coi hành động tuyên chiến của họ là quyền tự vệ, cụ thể ở đây là bảo vệ Tam Sa!

Đây là một mưu đồ rất thâm hiểm và nguy hiểm cho Việt Nam.

Chúng ta đang ở vào thế khó khi phải đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến vấn đề chủ quyền đối với Trung Quốc. Đó là thực tế hiện nay đặt ra trước cả dân tộc chứ không chỉ đối với Đảng Cộng sản. Những người cộng sản đương nhiên là rất bí bởi họ tự nguyện quàng thêm vào cổ cái ách ý thức hệ để tự trói tay mình. Trong khi ý thức hệ là cái bẫy chiến thuật của người Trung Quốc, thì với nhiều lãnh đạo cộng sản Việt Nam nó lại được coi là giải pháp mang tính chiến lược.

Kết luận rằng những người cộng sản Việt Nam không làm gì, hoặc không quyết tâm bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải là nói lấy được, cốt cho bõ tức hơn là đưa ra một nhận định nghiêm túc. Chỉ có thể nghi ngờ hiệu quả của biện pháp mà họ đang áp dụng. Trong thời gian qua, biện pháp ấy của họ là phỏng theo sự khôn ngoan kiểu con sóc: Dùng tài leo dây để thoát hiểm. Đó là một mưu mẹo không hề thiếu sự khôn ngoan. Nhưng chiến thuật này sẽ chỉ có tác dụng nhất thời, trong điều kiện hiện tại của Trung Quốc. Khi họ đã là cường quốc thì mọi xảo thuật lập tức bị vô hiệu hoá. Nói thẳng ra thì giải quyết tranh chấp với Trung Quốc vào thời điểm này, mặc dù cực kỳ khó khăn nhưng vẫn thuận lợi hơn phải làm điều đó với họ sau vài chục năm nữa. Vì vậy không cẩn thận chính người Việt đang tạo thuận lợi cho việc câu giờ của Trung Quốc. Chúng ta cứ hay quên rằng chính Trung Quốc mới là phía cần sự yên tĩnh xung quanh hơn chúng ta để thực hiện chiến lược trỗi dậy và ổn định nội tình. Chúng ta, do quá tự ti về tầm vóc, mà không dám tận dụng vị trí lợi hại của mình để chủ động áp đặt điều kiện ngược lại với Trung Quốc. Nói khác đi trong tay người Việt không thiếu “con bài” mà Trung Quốc phải dè chừng. Nếu không tỉnh táo, tự bịt mắt nhau, tự làm nhụt chí nhau, người Việt Nam sẽ mắc vào chính cái lưới do mình giăng ra với mục đích kìm chân đối phương. Cái lưới đó là viện vào ý thức hệ; cái lưới đó là không làm cho tình hình Biển Đông phức tạp thêm; cái lưới đó còn là tự bưng bít thông tin vì sợ làm xấu mối quan hệ hai đảng anh em, sau đó là làm suy yếu tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.

Quan điểm của chúng tôi là mọi biện pháp bảo vệ được chủ quyền, lợi ích đất nước, bảo vệ được công dân Việt Nam (đặc biệt là những ngư dân) đều tốt nếu nó thực sự cho thấy sự khôn ngoan và hữu hiệu. Hãy thử thật bình tĩnh, khách quan và lý trí phân tích xem chúng ta có thể dựa vào đâu để đạt mục tiêu đó.

Dựa vào ý thức hệ

Có vẻ như thực tế của những cuộc đối đầu giữa Việt Nam với Trung Quốc và giữa Philippines với Trung Quốc có sự khác biệt bởi có yếu tố ý thức hệ: Trung Quốc đối đầu với Philippines là đối đầu với một địch thủ, còn với Việt Nam là cuộc tranh giành của thừa kế giữa hai anh em? Vì thế, cho dù Việt Nam mới là vật cản chính trên con đường Nam tiến của Trung Quốc, thì những tranh chấp lại có vẻ đỡ khốc liệt hơn?

Nếu chỉ nhìn vào những biểu hiện thì quả là có thấy dấu hiệu này.

Nhưng đây là chỗ bất lợi nhất do chính Việt Nam tạo ra cho mình trong việc đề ra sách lược bảo vệ đất nước. Trung Quốc đã thổi phồng lợi ích của mối tương đồng hình thức về thể chế để lừa lại những nhà lãnh đạo của Việt Nam. Về lý thuyết thì khi chủ nghĩa cộng sản toàn thắng, mọi biên giới quốc gia, mọi nhà nước cũng sẽ biến mất. Không lý gì hai quốc gia đang nỗ lực hết mình cho mục tiêu ấy của nhân loại lại không hiểu tương lai nào mới là quan trọng với họ. Một số nhà lãnh đạo Việt Nam do cả tin và do tình cảm ý thức hệ chi phối, đã nhất nhất phụng sự mục tiêu đó bằng cách đẩy lợi ích dân tộc xuống hàng thứ yếu. Điều đó phản ánh sinh động và cô đọng nhất trong câu nói nổi tiếng của một trong những lãnh tụ cộng sản hàng đầu Việt Nam: “Trung Quốc có thể xấu, tham lam nhưng họ bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Chính nhà lãnh đạo này đã cấm tiệt báo chí trong suốt hàng chục năm, từ 1991 – sau Hội nghị Thành Đô – không được nhắc đến địa danh Hoàng Sa vì sợ điều đó làm phật lòng Trung Quốc, có thể khiến hỏng đại cục (lời thổ lộ của một cựu lãnh đạo báo Nhân Dân trong buổi nói chuyện tại Trường viết văn Nguyễn Du năm 1994 với mục đích ca ngợi “tầm nhìn” của nhà lãnh đạo kia). Đại cục ở đây là phong trào cộng sản quốc tế do Trung Quốc đi đầu. Một số còn lại thì thấy bám vào chỗ dựa ý thức hệ là cách tốt nhất để đẩy quả bóng chủ quyền cho thế hệ tương lai. Đối với những người này thì quyền lực của họ – núp dưới quyền lực đảng – cao hơn, quan trọng hơn quyền lợi dân tộc.

Không có gì phải bàn nếu Trung Quốc cũng nghĩ và hành động như vậy. Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Trung Quốc tung ra chiêu hoả mù ý thức hệ như một chiến thuật vô hiệu hoá Việt Nam ít tốn kém nhất. Trong khi trói Việt Nam vào sợi dây vô hình đó khiến cho Việt Nam không dám tự ý hành động vì lợi ích quốc gia trong vấn đề Biển Đông và hàng loạt vấn đề khác, thì họ tranh thủ từng phút để lập hồ sơ giả về Biển Đông, nuôi dưỡng tinh thần dân tộc Đại Hán cho mục tiêu chiếm Biển Đông khi có điều kiện. Những thoả thuận mập mờ “giữa lãnh đạo hai nước” là đòn hiểm mà Trung Quốc đạt được quá dễ dàng trước các nhà lãnh đạo Việt Nam. Những thoả thuận không minh bạch nội dung như vậy có tác dụng chia rẽ nội bộ dân tộc, chia rẽ và gây nghi ngờ giữa các nhà lãnh đạo, giữa người dân với người cầm quyền… cực kỳ hữu hiệu. Nhưng nguy hiểm hơn, nó khiến cho những người ủng hộ Việt Nam mệt mỏi, chán ngán, thiếu tin tưởng và cứ thế phân tán dần sự quan tâm. Khi Philippines muốn biết Việt Nam thoả thuận gì với Trung Quốc, thì Trung Quốc đã coi như đạt mục đích, có thể ôm bụng mà cười đắc chí. Philippines có thể không quá quan trọng. Nhưng Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản, thậm chí cả Nga cũng cùng có câu hỏi ấy, nghĩa là chúng ta sắp bị bỏ rơi cho con mãnh thú.

Vậy là có thể kết luận: Lá chắn ý thức hệ chỉ tạo ra ảo giác về lợi ích trước mắt, ngắn hạn, có lợi cho Trung Quốc nhiều hơn. Nhưng cái lá chắn giống như những sợi chỉ căng ngang ấy, một mặt không thể giúp ngăn được chút tham vọng nào của người Hán, mặt khác trên thực tế nó đang trói tay chúng ta trong những hành động vì lợi ích lâu dài của dân tộc và cách ly Việt Nam khỏi thế giới, điều có lẽ Trung Quốc không mong gì hơn.

Dựa vào khối ASEAN

Một trong những thành tựu ngoại giao lớn nhất mà những người cộng sản Việt Nam đạt được trong vòng 20 năm qua chính là đã đưa nước ta gia nhập khối ASEAN (chỉ cần nhớ lại thái độ bực tức, bất lực của Trung Quốc khi ấy cũng thấy). Có thể nói đó là dấu mốc của một sự chuyển hướng quan trọng trong tư duy chính trị Việt Nam. Là thành viên của khối ASEAN, Việt Nam đã mở được cửa chính thông ra với thế giới để từ đó đi những bước tiếp theo với vị thế của một nước lớn (hay ít ra cũng là nước quan trọng) trong tiểu khu vực. Không ở đâu chúng ta có được sự đánh giá này. Không ở đâu chúng ta có tiếng nói mà người khác buộc phải chăm chú lắng nghe, như trong Hiệp hội ASEAN. Cũng từ vị thế thành viên Hiệp hội, từ đây chúng ta có thêm nhiều thuận lợi trong việc thoát khỏi cái bóng khổng lồ Trung Quốc, đặt Trung Quốc vào thế phải tính toán thận trọng hơn khi đưa ra những đòi hỏi lợi ích liên quan đến toàn khu vực. Điều quan trọng hơn, chúng ta có thêm kênh để quan hệ với Hoa Kỳ và những nước quan trọng khác thường nhìn vào thái độ của Hoa Kỳ để đưa ra quyết định. Thế giới này đã, đang và sẽ còn sự phụ thuộc như vậy. Bỏ qua thực tế ấy là thiếu khôn ngoan, thiển cận về chính trị.

Nhưng trong vấn đề chủ quyền biển, đảo ở Biển Đông, ASEAN chỉ có tác dụng như một tiếng nói, có thể là tiếng nói quan trọng, về mặt dư luận và thể hiện thái độ. Trung Quốc không thể phớt lờ tiếng nói này, bởi quyền lợi của họ với cả khối là khá lớn. Vả lại, phía sau một mình Việt Nam là những lực lượng khác xa với phía sau ASEAN trong đó có Việt Nam. Trung Quốc biết rõ điều này, rằng luôn có một Hoa Kỳ lởn vởn lúc xa, lúc gần, là đối tác của cả khối, có quyền lợi quốc gia về thương mại, chính trị, ngoại giao, nơi họ có khá nhiều đồng minh truyền thống, trong đó quan trọng bậc nhất là Indonesia và nếu thời cuộc thuận lợi, Việt Nam sẽ là danh sách tiếp theo. Ngoài ra là Nhật Bản, Ấn Độ, Liên hiệp châu Âu và từ những sức ép lợi ích khiến cả Nga cũng nhập cuộc, trở thành những đối tác có sự can dự thường xuyên, biến ASEAN thành trung tâm quốc tế về an ninh, hàng hải, trao đổi các ý tưởng. Sự can dự này vô tình khiến Trung Quốc phải ở vào thế bị lép vế. Chúng ta cần phải triệt để khai thác vị thế thành viên của ASEAN, nơi những tranh chấp đơn phương nào cũng có nguy cơ thành tranh chấp đa phương – điều mà Trung Quốc ngán nhất. Không phải họ ngán lực lượng yếu ớt và không bao giờ thống nhất của ASEAN, mà họ biết rằng, Hoa Kỳ sẽ không bao giờ bỏ mất cơ hội để can dự vào nội tình khu vực, mà thực chất của can dự đó là tìm bằng chứng ngăn cản Trung Quốc. Họ biết rõ, bất kỳ thỏa thuận nào giữa ASEAN và Trung Quốc cũng có bàn tay của Hoa Kỳ, khác rất xa những thoả thuận chỉ có Việt Nam và Trung Quốc.

Kết luận lại, chúng ta không thể dựa vào ASEAN như một lực lượng có thể răn đe hoặc để giành chiến thắng khi phải đối đầu quân sự trực tiếp với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền. Nhưng ASEAN là một tiếng nói có sức mạnh chính trị, nơi có khả năng khiến Trung Quốc không thể tự ý đưa ra quyết định độc đoán. Vì vậy, với Hiệp hội ASEAN, Việt Nam cần gắn kết chặt hơn nữa, thúc đẩy quá trình ràng buộc các bên nhiều hơn nữa, chứng tỏ sự chân thành hơn nữa, thậm chí phải hy sinh chút ít lợi ích nhỏ để kéo cả khối can dự sâu hơn nữa vào Biển Đông bằng nhiều cách thức, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề an ninh và tự do hàng hải. Biển Đông là vấn đề của cả Hiệp hội ASEAN, tức là của quốc tế – Việt Nam cần nhất quán lập trường này, ở bất cứ diễn đàn nào, bất cứ cuộc đối thoại nào, vô hiệu hoá mọi mưu đồ xé nhỏ ASEAN của Trung Quốc như họ đang làm và có vẻ thành công bước đầu trong trường hợp với chính phủ Campuchia.

Dựa vào các bạn bè truyền thống

Trong số này hiển nhiên quan trọng nhất là Liên bang Nga. Việt Nam cần phải duy trì mối quan hệ với người bạn quan trọng này, bất chấp mọi thời tiết chính trị của nước Nga cũng như của thế giới. Cho đến nay Nga vẫn là đối tác đáng nhờ cậy nhất về mặt quân sự. Nhưng nước Nga không phải là Liên Xô trước đây có thể dễ dàng đưa ra những quyết định cảm tính dựa trên tinh thần quốc tế, tức là phải hy sinh một phần lợi ích dân tộc. Nước Nga ngày nay có đường lối đối ngoại thực dụng, dân tộc lạnh lùng và khó đoán. Nga là quốc gia duy trì nhiều mối quan hệ phức tạp nhất trên thế giới và nó luôn được đảm bảo bằng công cụ dễ tráo trở là tiền. Nga không còn ở thế có thể can dự trực tiếp vào những vấn đề bên ngoài lãnh thổ của họ và các chính khách của Nga ngày nay sẽ không làm điều đó. Xét về mối quan hệ thương mại cũng như những lợi ích mà Nga đang có từ Trung Quốc, xét về vị trí địa lý và hàng loạt mối ràng buộc khác, có thể thấy Trung Quốc quan trọng với Nga gấp nhiều lần Việt Nam. Hy sinh lợi ích với Trung Quốc là một tính toán thiển cận và nước Nga giờ đây không cho phép bất cứ nhà lãnh đạo nào của họ tự ý làm điều đó. Vì thế, có thể thấy Nga không bao giờ mong muốn một Trung Quốc hùng mạnh, có thể nuốt chửng vùng Viễn Đông của họ trong tương lai, có thể áp chế họ như những gì nước Mỹ đang làm, nhưng Nga sẽ quyết tâm không bị lôi kéo vào cuộc đụng độ ở Biển Đông. Tuy vậy, Nga có sĩ diện dân tộc rất lớn, không dễ bỏ mất vị thế cường quốc của họ. Vả lại Nga cũng cần Việt Nam trong chiến lược trở lại Đông Nam Á. Đó là lý do Nga sẽ làm hết sức để Trung Quốc không ngang nhiên dàn quân uy hiếp Việt Nam, đẩy Nga vào thế khó. Trong tay họ có một vài quân bài như: năng lượng, công nghệ quân sự, lợi ích ngoại giao với vị thế là Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tạm thời những quân bài đó còn đủ mạnh để họ có thể chi phối phần nào những quyết định của Trung Quốc. Nhưng phép màu của những quân bài đó đang mất dần. Điều chúng ta có thể và cần tranh thủ Nga lúc này là mua những loại vũ khí hiện đại, có độ chính xác cao, tiếp cận công nghệ của họ tiến tới có thể sản xuất chúng ngay trên lãnh thổ Việt Nam như Nga đã và đang làm với Ấn Độ. Tạo mọi điều kiện để Nga can dự trở lại Đông Nam Á, phân tán mối quan tâm của Trung Quốc.

Khác với Nga, Nhật Bản và Ấn Độ ít ràng buộc lợi ích chiến lược với Trung Quốc hơn. Đường lối ngoại giao của họ cũng rõ ràng hơn. Đây là hai cường quốc khu vực cực kỳ quan trọng với Việt Nam. Nếu xét cả về lợi ích và vị thế cũng như tầm vóc, Ấn Độ dễ chấp nhận dấn thân hơn. Chúng tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của Ấn Độ với Việt Nam trong vấn đề Biển Đông. Lịch sử quan hệ và tranh chấp lãnh thổ khiến nước lớn này là địch thủ công khai và lâu dài của Trung Quốc. Rất khó để hai nước tìm được sự hữu hảo thực sự, khi mà Trung Quốc còn công khai tuyên bố chủ quyền với vùng đất chiến lược của Ấn Độ. Ấn Độ không bao giờ chấp nhận sự lãnh đạo của Trung Quốc ở châu Á. Lòng tự trọng dân tộc, quy mô diện tích, dân số và vai trò nước lớn trong khu vực không cho Ấn Độ thoả hiệp với tư tưởng hạ mình ấy. Can dự vào những vấn đề an ninh khu vực được Ấn Độ coi là quyền lợi và sứ mệnh của họ. Mối quan hệ mật thiết của Trung Quốc với Pakistsan khiến Ấn Độ tìm thấy thêm lý do phải cân bằng lực lượng ở Biển Đông ngoài lý do bảo vệ lợi ích và đó là thuận lợi cho chúng ta. Nếu xảy ra đụng độ lớn tại Biển Đông, Ấn Độ sẽ là những quốc gia đứng về phía Việt Nam mạnh mẽ nhất, có thể công khai cung cấp vũ khí hiện đại cho Việt Nam, thậm chí sẵn sàng gây áp lực quân sự với Trung Quốc ở giới hạn nào đó. Ấn Độ ở vào vị thế tương đối độc lập khi đưa ra những quyết định như vậy. Nhưng Ấn Độ cũng sẽ không để bị lôi kéo vào cuộc chiến.

Trong khi đó Nhật Bản rất khó làm điều tương tự như Ấn Độ vì luật pháp hoà bình của nước này và vì mối ràng buộc với Hoa Kỳ. Cũng như Ấn Độ, Nhật Bản có lợi ích sống còn về hàng hải ở Biển Đông và chung lợi ích chiến lược, chia sẻ những giá trị lịch sử với Việt Nam trong vấn đề kìm chế Trung Quốc. Mà kìm chế tốt nhất là không để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Họ sẽ làm mọi cách có thể cùng với Việt Nam để thực hiện điều đó nhưng vai trò chi phối quân sự của Nhật là có giới hạn. Cũng như Úc, châu Âu, họ chỉ có thể ngầm giúp chúng ta, chỉ có thể đóng vai trò người can ngăn, có thể gián tiếp tạo ra một sự ủng hộ từ Hoa Kỳ với chúng ta.

Dựa vào Hoa Kỳ

Phải khẳng định là, nếu không có Hoa kỳ thì Trung Quốc không chỉ nuốt sống Biển Đông, biển Hoa Đông, mà đã tìm cách thống trị thế giới từ lâu rồi. Đó hoàn toàn không chỉ là một cách nói. Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, định nghĩa theo một cách dễ hiểu hơn, là không có giới hạn nào về địa lý thoả mãn được nó. Nếu không bị cả thế giới tìm cách ngăn chặn, sẽ đến lúc mục tiêu của nó là lãnh thổ Hoa Kỳ, trước khi nó hướng tới mặt trăng. Trung Quốc hiện tại, cho dù đang thức tỉnh, đang thay đổi thì vẫn cứ là một thực thể quá nặng nề để có thể mở cuộc đua bứt phá với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ chưa cần làm gì, Trung Quốc đã phải dè chừng. Nhưng vẫn có những biến số trong một thế giới đang thay đổi chóng mặt. Không ai tiên đoán nổi, chỉ trong vòng vài chục năm, cuộc đổi vai trò cường quốc giữa Liên Xô (sau đó là Nga) với Trung Quốc lại đơn giản thế. Đơn giản còn hơn cả việc thực thi một hiệp ước có ký kết. Chính sự thay đổi đó mà thế giới ngày nay thậm chí còn nguy hiểm hơn với những nước nhỏ, so với thời chiến tranh lạnh. Nguy hiểm nhất là không thể biết con sư tử Trung Hoa còn đói mồi đến bao lâu và có ai hy sinh lợi ích để ngăn chặn nó. Hàng trăm năm qua đã có tới cả ngàn lời khuyên quý giá của các triết gia, các nhà chính trị lớn, về cách mà thế giới sẽ phải làm để có thể sống với Trung Quốc. Nhưng chỉ có Hoa Kỳ quan tâm và hiểu những lời khuyên đó. Những cố gắng to lớn của Hoa Kỳ trong việc đưa Trung Quốc vào khuôn khổ, yêu cầu họ phải nhận lấy một phần trách nhiệm nước lớn, đã giúp thế giới có được sự yên ổn tương đối và những phát triển ngoạn mục khi Trung Quốc tư bản hoá nền kinh tế và nới rộng hơn chiếc cùm chính trị đối với hơn một tỷ người.

Nhưng Hoa Kỳ đang sắp phải trả giá cho hành động của mình. Trung Quốc đã đánh lừa cả thế giới bằng những thông điệp đơn giản nhưng dễ lọt tai. Giờ đây họ sắp sửa cười vào ngay chính những thông điệp đó. Đòi hỏi gần hết chủ quyền Biển Đông bằng cách vẽ trên giấy một đường ranh giới lãnh hải hình cái lưỡi bò, rồi bắt mọi người phải tôn trọng, không có chuyện tranh cãi, là hành động mang tính biểu tượng cao xác quyết quyền lực Trung Hoa, không chỉ nhằm vào lợi ích trực tiếp của Việt Nam và vài nước Đông Nam Á, mà hướng sự thách thức vào Hoa Kỳ và những nước lớn khác như Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, thậm chí cả Nga. Đây là thông điệp mang tinh thần Trung Hoa hiện đại: Tự tin đến ngạo mạn gửi tới toàn thế giới. Sắp tới, theo lý luận Trung Hoa, toàn bộ châu Phi là vùng họ cai quản, toàn bộ châu Á thuộc về sự bảo hộ của họ. Phía bên kia, nước Mỹ là kẻ thù cuối cùng…

Với Trung Quốc mọi điều đều có thể.

Trước mắt giả thuyết đó còn cần một điều kiện: Nếu Hoa Kỳ khoanh tay đứng nhìn, làm ngơ hay bất lực.

May thay nước Mỹ đã kịp thức tỉnh khi nó còn là cường quốc số một. Bằng quyết định quay lại châu Á, ngài Barack Obama có lẽ là tổng thống thông minh nhất của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ trong vòng 20 năm trở lại đây. Bởi vì Trung Quốc trước sau cũng trở thành mối đe doạ toàn cầu, trước hết về mặt văn hoá, sản phẩm chính trị bẩn, sau mới đến hàng hoá giá rẻ có chứa chất độc và cuối cùng là sức mạnh quân sự. Những gì mà người Trung Quốc đang reo giắc ở châu Phi, Nam Á… là bằng chứng hiển nhiên nhất. Nó đương nhiên cũng là mối đe doạ cho riêng nước Mỹ.

Nhưng trên phương diện lợi ích dân tộc, chúng ta chờ đợi điều gì từ sự quay lại châu Á của Hoa Kỳ? Có thể nói ngay: Không chỉ Việt Nam mà cả thế giới, dù ghét bỏ Hoa Kỳ đến đâu đi nữa, thì cũng sẽ không thể thiếu được họ, nếu muốn cuộc sinh tồn này còn có công lý tương đối. Bất chấp thực tế này là thiếu công bằng và thiển cận. Chỉ có điều, sẽ còn thiển cận hơn với bất cứ người Việt Nam nào coi Hoa Kỳ là chỗ dựa tuyệt đối tin cậy, phó thác tất cả cho họ. Bởi vì ngay cả khi, giả dụ những người cộng sản Việt Nam đã được giải phóng khỏi cái ách ý thức hệ, Việt Nam trở thành nước dân chủ cùng chung hệ giá trị với các nước văn minh, thì ý tưởng trở thành đồng minh của Hoa Kỳ, được nằm trong cái ô hạt nhân của họ, như nhiều người đề xuất, chỉ đáng coi là một mong ước, rất thức thời, thể hiện nỗi âu lo chân thành cho vận mệnh đất nước nhưng không khả thi. Thậm chí trong một thời gian dài nữa đó vẫn còn là ý tưởng hão huyền. Nhiều người lấy nước Nhật ra làm bài học cho Việt Nam trong việc trở thành đồng minh của Mỹ. Có vẻ như họ tìm thấy rất nhiều tương đồng lý thú. Nhưng chưa kể đến sự khác biệt về thể chế, vị trí địa lý, sự lựa chọn con đường phát triển giữa Nhật Bản và Việt Nam, chưa kể đến sự khác biệt trong lịch sử bang giao Nhật-Mỹ so với Việt-Mỹ, thì hoàn cảnh lịch sử thế giới khi Nhật trở thành đồng minh của Mỹ sẽ không tái hiện thêm một lần nữa với Việt Nam. Thế giới của nửa thế kỷ trước là thế giới của những mối liên kết quân sự, phụ thuộc chính trị hơn là liên kết kinh tế, vì cuộc đối đầu ý thức hệ rạch một giới tuyến rõ ràng, bên này lùi thì bên kia tiến. Nó cần sự gắn kết chặt chẽ về mặt nhà nước giữa các quốc gia cùng hệ ý thức. Nhật Bản và sau này cả Hàn Quốc, Đài Loan… có giá trị với Mỹ như những căn cứ quân sự tiền đồn ở châu Á, những trạm trung chuyển hậu cần nếu chiến tranh ý thức hệ xảy ra, hơn là những đối tác thương mại. Còn giờ đây, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, nhu cầu hình thành vòng cung bao vây do Hoa Kỳ cầm đầu không còn cấp thiết nữa. Mối quan hệ Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn, Mỹ-Đài Loan… trở thành di sản cuối cùng của chiến tranh lạnh và thực tế là nó cũng đang lỏng dần ra vì những liên kết song phương khác do các bên tiến hành. Người ta từng chứng kiến Hiệp ước Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn nhiều phen gặp sóng gió do vấn đề lợi ích kinh tế – vấn đề mà trước đây bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Còn với Đài Loan, số phận của hòn đảo này từng có lúc được Mỹ đặt lên bàn cân với Trung Quốc đại lục (sau khi Mỹ hi sinh Việt Nam Cộng hoà trong vấn đề Hoàng Sa năm 1974, hy sinh tiếp tính mạng của gần hai triệu người dân Campuchia cũng đều vì lợi ích với Trung Quốc). Thực tế đó cho thấy hai điều: Thứ nhất, những mối quan hệ đồng minh toàn diện giữa hai quốc gia không còn hợp thời và thứ hai, chính Hoa Kỳ cũng có lúc không đáng tin! (Có thể giờ đây họ đang nỗ lực để sửa chữa sai lầm mang tính đạo đức này?).

Nhưng chúng ta tạm thời chỉ quan tâm đến vấn đề thứ nhất, là vấn đề khách quan quyết định những mối liên kết. Giờ đây thế giới đã bước vào thời kỳ của sự phụ thuộc lẫn nhau về lợi ích và an ninh. Internet và chủ nghĩa khủng bố quyết định điều này. Internet khiến thế giới nhỏ lại, không còn ranh giới về địa lý, quốc tịch, ngôn ngữ, văn hoá… Chủ nghĩa khủng bố, với tư cách là kẻ thù của toàn cầu, đã tạo ra nỗi hoảng sợ khổng lồ, xuyên quốc gia và một bóng đen hiểm hoạ vô tận. Chưa bao giờ thế giới phẳng như hiện nay. Nhưng mặt khác, chưa bao giờ thế giới nhiều vách ngăn như hiện nay. Trong khi Internet chủ trương tạo ra kiểu công dân toàn cầu, tin tưởng lẫn nhau, phụ thuộc nhau về lợi ích, thì chưa bao giờ con người lại bị đẩy ra xa nhau, với đầy những nghi kị, những tính toán ích kỷ như hiện nay. Chủ nghĩa khủng bố tước đi của các cường quốc vị thế nước lớn trong nhiều vấn đề. Bởi vì không quốc gia nào đủ tự tin để không phải dựa vào quốc gia khác khi giải quyết nỗi sợ hãi do chủ nghĩa khủng bố tạo ra. Thay vì dựa lưng vào nhau, dựa vào một nhóm nước, giờ đây mỗi quốc gia là một tập hợp của các mối quan hệ chằng chéo. Nó tất yếu không thể bền chắc, cố định được mà phải lỏng lẻo, mang tính chiến thuật để dễ thay đổi. Nói như cách lý luận phương Đông: Trong kẻ thù có yếu tố bạn bè, đối tác và ngược lại! Vì thế việc hình thành nên những đồng minh giữa hai quốc gia vấp phải vật cản bất khả vượt qua dựng lên từ chính những tính toán lợi ích của các quốc gia đó. Những tính toán như vậy của Hoa Kỳ lớn hơn Việt Nam rất nhiều nếu đem đặt lên bàn cân. Nhưng giả sử cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều tìm thấy lợi ích sống còn khi là đồng minh quân sự với nhau, thì vấn đề lớn nhất mà cả hai bên khó lòng vượt qua là niềm tin.

Hãy gạt bỏ khỏi đầu mong ước trở thành đồng minh toàn diện của Hoa Kỳ để tính đến những liên kết khả thi và thực tế hơn. Chúng ta cần nắm lấy thời cơ là chưa bao giờ Việt Nam quan trọng với Hoa Kỳ như khi họ quyết định trở lại châu Á. Họ biết rõ chúng ta là ai, có thể làm gì giúp cho mục tiêu của họ. Cái mục tiêu ấy là không cho Trung Quốc vượt qua giới hạn đỏ về quyền lực bằng những bành trướng nhanh chóng lực lượng hải quân do đó phải thôn tính Biển Đông làm bàn đạp. May thay đấy cũng là mục tiêu của chúng ta, trùng khít với lợi ích của chúng ta ở khía cạnh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Sự trùng hợp lợi ích này chính là cơ sở bền chắc và đáng tin nhất cho một mối quan hệ thân cận, phụ thuộc nhau về mục tiêu chiến lược, lợi ích lâu dài giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Thời cơ cho mối quan hệ này đang chín muồi và Việt Nam, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, sẽ phải chủ động dọn dẹp, dũng cảm gạt sang một bên những vật cản mà lịch sử quăng lại để tiến về phía Hoa Kỳ, hơn là đòi hỏi điều ngược lại.

Dựa vào sức mình

Nếu xảy ra đụng độ với Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chiến đấu một mình, đó là điều có thể thấy trước. Vì vậy trong vấn đề bảo vệ chủ quyền, Việt Nam chỉ có một chỗ dựa chắc chắn, đáng tin duy nhất là sức mạnh toàn dân tộc. Theo hướng đó, chúng tôi thấy hiện tại Việt Nam có sáu lợi thế quan trọng và đi kèm với nó là sáu bất lợi cơ bản sau:

Lợi thế và là điểm mạnh tuyệt đối của Việt Nam trong tranh chấp Biển Đông chính là ở vị trí địa lý và tâm lý dân tộc: Có bờ biển dài và không ai trong số 90 triệu dân sợ và chấp nhận quyền lực Trung Quốc. Dọc hơn 3000 km con đường hàng hải huyết mạch của Trung Quốc để qua eo biển Malacca, đều có thể nằm trong tầm khống chế của các lực lượng quân sự Việt Nam. Trong khi đó lượng vận tải của Trung Quốc rất lớn, chủ yếu phải đi qua khu vực này. Trung Quốc chỉ có thể an toàn trong hai trường hợp: Hoặc chiếm giữ toàn bộ Biển Đông, đủ sức kiểm soát nó bằng quân sự và được quốc tế thừa nhận; hoặc chấp nhận hiện trạng đó là vùng biển quốc tế, thừa nhận chủ quyền của các nước khác. Trường hợp thứ nhất là điều Trung Quốc mong muốn nhưng không bao giờ thành hiện thực. Vì vậy, trên thực tế, chỉ Việt Nam mới có thể đảm bảo an toàn hàng hải cho Trung Quốc.

Lợi thế thứ hai là chúng ta ở về phía phòng thủ, có thể bị động về thời gian xảy ra chiến sự nhưng lại hoàn toàn chủ động trong việc chi phối chiến cuộc, tránh được tổn thất vì vậy có thể duy trì chiến tranh trong thời gian đủ dài để lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc mất hết nhuệ khí. Điều Trung Quốc lo sợ nhất là không thể thắng chớp nhoáng, phải đánh nhau dằng dai thì lại đúng vào sở trường của phía Việt Nam: Lấy ít đánh lại nhiều và đánh trường kỳ, không cho kẻ thù kết thúc có lợi.

Lợi thế thứ ba là hầu hết các cường quốc còn lại và Liên hiệp châu Âu đều công khai hoặc ngấm ngầm đứng về phía Việt Nam vì họ không chấp nhận Trung Quốc quản lý Biển Đông.

Lợi thế thứ tư chính lại ở cái yếu thế của Việt Nam: Nước nhỏ hơn trong cuộc đối đầu, là nước bị bắt nạt, là phía chính nghĩa cả về pháp lý và tình cảm, sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân các nước. Trung Quốc không thể coi thường những cuộc biểu tình phản đối với hàng chục triệu người xuống đường trên khắp thế giới.

Lợi thế thứ năm là chúng ta có kinh nghiệm chiến tranh, với một quân đội thiện chiến, được khích lệ bởi những chiến thắng trong lịch sử, có giá trị như một điểm tựa tinh thần chắc chắn.

Lợi thế thứ sáu đó là khả năng chịu đựng tốt của kết cấu xã hội trong tình trạng thời chiến nhờ đã được tôi luyện. Ngoài ra do chúng ta nhỏ hơn nên khả năng chuyển đổi để thích nghi nhanh hơn.

Còn đây là sáu bất lợi:

Bất lợi thứ nhất là tiềm lực kinh tế của chúng ta quá nhỏ bé, ít tích luỹ, hậu quả là tiềm lực quốc phòng, đặc biệt là hải quân và không quân thua xa đối phương cả về số lượng và công nghệ. Trong khi đó chúng ta vẫn đang tiếp tục lãng phí những nguồn lực quan trọng nhất của đất nước khiến hạn chế khả năng huy động tổng lực cho chiến tranh – nếu nó xảy ra. (****)

Bất lợi thứ hai là người dân bị bưng bít thông tin, kém hiểu biết về tình hình đất nước, tình hình lãnh thổ, lãnh hải, nếu chiến tranh xảy ra dễ ở vào thế hoang mang, bị động.

Bất lợi thứ ba là mâu thuẫn dân tộc còn khá nặng nề, không phát huy được tối đa sức mạnh trong và ngoài nước.

Bất lợi thứ tư là hạt nhân tập hợp lực lượng không còn đủ sức hút cần thiết, hạn chế khả năng lãnh đạo, động viên mọi tầng lớp xã hội trong tình trạng đất nước nguy cấp.

Bất lợi thứ năm là tiếng nói của Việt Nam ít gây chú ý với cộng đồng quốc tế do bị Trung Quốc thao túng dư luận, xuyên tạc sự thật quá lâu.

Bất lợi thứ sáu là Việt Nam không có đồng minh quân sự.

Những điểm yếu mà chúng tôi nêu ra đều có nguyên nhân chủ quan và đều thuộc về nội tình đất nước. Vì vậy vấn đề hoàn toàn phụ thuộc vào quyết tâm khắc phục của tất cả những con dân Việt. Với niềm tin rằng, không kẻ thù nào chiến thắng nổi một dân tộc có tới ngót 100 triệu quyết tâm, có nhiều hơn thế lòng tự tôn và có vô số khả năng nằm ngoài mọi phán đoán của những kẻ ngoại bang, chúng tôi đưa ra kiến nghị khẩn thiết sau:

Thực hiện triệt để hoà giải dân tộc thể hiện bằng một đạo luật, trong đó nghiêm cấm tất cả những hành vi phân biệt đối xử giữa các công dân Việt Nam qua các thời kỳ và các thể chế khác nhau và hiện sinh sống trên những quốc gia khác nhau, nghiêm cấm trả thù, nghiêm cấm hành vi tuyên truyền, kích động thù hận, hành vi gợi lại nỗi đau của dân tộc. Ngày 30-4 hàng năm trở thành ngày Hoà giải và tha thứ.

Làm được điều đó, chúng ta có thứ vũ khí mà kẻ xâm lược nào cũng không còn đáng sợ.

Kết luận:

Vấn đề làm thế nào để có thể tiếp tục sống yên ổn, nguyên vẹn bờ cõi bên cạnh Trung Quốc là chuyện của thời khắc này, nhưng cũng là chuyện của lâu dài, của muôn đời con cháu. Không thể đưa đẩy trốn tránh trách nhiệm nhưng cũng không được nóng vội, hấp tấp, thiếu chín chắn bởi dù thích hay không, người Việt không thể lựa chọn một láng giềng khác ở phía Bắc. Bất cứ sai lầm nào cũng đều không có cơ hội sửa chữa hoặc phải trả giá đắt kéo dài suốt nhiều đời. Đó là điều khác biệt cơ bản so với tất cả những vấn đề quốc gia đại sự còn lại. Nó luôn ở thì chưa hoàn thành, không có kết thúc. Những gì cha ông để lại cho chúng ta là một cương vực rõ ràng, một nền hoà bình tương đối và một kho báu kinh nghiệm để trường tồn. Chúng ta không thể để lại cho tương lai một di sản kém hơn.

Để làm được điều đó, nhiệm vụ quan trọng nhất là đất nước phải hùng mạnh và trở thành một thành tố trong chuỗi giá trị toàn cầu, càng nhanh càng tốt. Vấn đề còn lại chỉ là người Việt sẽ đi đến mục tiêu đó bằng cách nào. Từ cuộc vươn dậy nhọc nhằn, đau thương của dân tộc và thực tế thế giới suốt một thế kỷ qua, đã đủ bằng chứng để rút ra kết luận: không có lựa chọn nào khác tốt hơn con đường xây dựng một xã hội dân chủ thực sự. Đó có thể là con đường chông gai nhất, đau đớn nhất, nhiều phân vân nhất của người Việt trong thế kỷ này. Nhưng chỉ riêng việc phải lựa chọn giữa sống hay là chết dưới tay Trung Quốc, chúng ta đã không còn thời gian để cân nhắc.

 

Hà Nội tháng 5 -2012 đến tháng 12-2012

(Rút từ cuốn Nghĩ mãi không ra)

T. D. A.

(*) Tôi muốn nhắc đến trường hợp bài trả lời phỏng vấn của ông Lê Vĩnh Trương trên báo Pháp luật TPHCM ngày 4/11/2012 (và trước đó nữa là bài của giáo sư Ngô Bảo Châu). Ông Trương – trong khuôn khổ của một tờ báo chính thống – đưa ra được một số thông điệp như vậy là rất cố gắng, thực tế là chưa có tiền lệ trong thời gian từ sau năm 1991. Ông không đáng bị “ném đá” như những gì đã xảy ra, nếu mỗi người tỉnh táo, suy ngẫm thấu đáo hơn. Tôi đồng ý với đánh giá khá bình tĩnh của ông Dương Danh Huy. Những người ném đá ông Trương quên mất một thực tế là, do bị nhồi sọ quá lâu, hàng triệu người –những người cần biết thực tế của mối quan hệ Việt-Trung cũng như những việc hệ trọng khác của đất nước – vẫn chưa có thói quen tin vào những trang mạng tự do. Những thông tin trên đó bị “hàng rào chính trị” trong đầu họ gói tuốt vào một rổ với những thứ chống phá đất nước. Chúng ta có thể trách họ nhưng đó đang là thực tế. Theo tôi, những người bình thường có thể xả ra mọi bức xúc, hay vẫn gọi là “ném đá”, còn thứ mà giới trí thức “ném ra” chỉ nên là những quan điểm, ý tưởng có giá trị phản biện.

(**) Năm 2002 tôi có chuyến sang Hoa Kỳ và khi đến vùng có nhiều người Việt sinh sống thì tôi được người dẫn đường nói nhỏ vào tai: Đừng nói gì nhé, kẻo bị hành hung đấy. Hành hung thì chưa, nhưng tôi bị một cháu sinh viên Việt lừ mắt hỏi “Sang đây làm chi?” đáp lại vẻ mặt hớn hở và lời hỏi thăm đầy tình đồng bào của tôi sau một tháng xa nhà. Sau đó tôi được biết nhà văn N. K. từng bị chính đồng bào mình nện mũ cối vào đầu, nhà văn L. M. K. và H. A. T. thì phải nhờ đến cảnh sát Hoa Kỳ làm hàng rào mới thoát khỏi cuộc vây hãm của hàng trăm người Việt, nhà văn N. H. T. bị bao vây khi ông đến nói chuyện tại một trường đại học… Lý do chỉ là những nhà văn đầy tinh thần dân chủ này (tất nhiên không ai thèm biết điều đó!) từng và đang làm việc cho nhà nước Cộng sản. Khi về nước tôi cứ đau buồn mãi về chuyện này và tự hỏi: Bao giờ thì quan hệ của những “đồng bào Việt” mới không gắn với chính trị và bao giờ thì họ mới tha thứ cho nhau?.

(***) Ở tầm vĩ mô, ngoài những gì ghi trong sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam năm 1979, có thể kể thêm vụ ngăn cản Việt Nam bình thường hóa với Hoa Kỳ, gia nhập WTO, ép các nhà thầu dầu khí nước ngoài không hợp tác với Việt Nam… Còn ở những tiểu xảo thì muôn hình vạn trạng. Những chuyện như thu mua rễ cây hồi, đuôi trâu, đỉa, râu ngô có thể là một vài ví dụ. Năm 1995, một anh bạn thạo tin rỉ tai tôi là Trung Quốc bỏ ra khoảng 27 tỉ nhân dân tệ (hơn 4 tỉ USD) để trợ giá cho những mặt hàng như điện máy, điện tử, giày dép, đồ may mặc của họ… để giết chết những ngành này ở Việt Nam bằng buôn bán tiểu ngạch. Tôi không có điều kiện kiểm chứng thông tin này. Nhưng năm 1995, khi tôi sang Bằng Tường rồi vào sâu trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 30 km, tôi tận mắt chứng kiến những mặt hàng đã kể, cùng chủng loại, cùng nhãn mác… ở nội địa Trung Quốc bán cao gấp từ 2 đến 3 lần ở Lạng Sơn, Móng Cái… Vì thế những người dân Trung Quốc ở vùng biên bèn sang ViệtNam để mua hàng Trung Quốc, rẻ chưa bằng một nửa khi bán tại nước họ, về tiêu dùng.

Năm 1999 tôi có dịp thăm cửa khẩu Sóc Giang, Cao Bằng, chứng kiến cảnh Trung Quốc xua người dân lấn đất của Việt Nam bằng các cách sau: Dịch cột mốc tạm thời, cho người cắt cỏ theo đường phân giới, lấn sâu vào phía Việt Nam rồi cứ thế căn cứ vào màu cỏ để coi là ranh giới, trồng cây sao cho gốc chéo sang đất Việt Nam nhưng ngọn vẫn ở bên đất Trung Quốc rồi chờ đêm đến cho người ra dựng thẳng cái cây đó lên, coi như gốc cây là điểm giáp biên. Hoặc ở cửa khẩu Tà Lùng, có một con suối trở thành một đoạn đường biên tự nhiên giữa hai nước. Phía Trung Quốc bèn xui ViệtNamcùng họ đắp đập để lấy nước tưới. Nhưng khi tháo nước thì chỉ có phía ViệtNamthực hiện. Bờ sông phía Việt Nam lập tức bị nước khoét lõm vào khoảng vài chục mét – do áp lực nước quá lớn – và phía Trung Quốc lấy ngay cái bờ mới đó để chia lại đường phân thủy, kết quả là họ được lợi vài ngàn mét vuông. Chính anh em biên phòng bảo với tôi, phía Trung Quốc định ra mức thưởng 1000 nhân dân tệ (khoảng hơn 2 triệu đồng Việt Nam lúc ấy) cho một héc ta đất rừng lấn chiếm được. Người dân Trung Quốc ở vùng giáp biên với ViệtNamđa phần rất nghèo, có thể là nghèo nhất thế giới, nên họ thấy tiền là bất chấp tính mạng để lao vào. Cũng phải chứng kiến tận nơi mới thấy bộ đội biên phòng của chúng ta cũng như đồng bào ViệtNamở vùng biên gian khổ nhưng bất khuất và giàu lòng yêu nước như thế nào.

(****) Chúng ta đang lãng phí một cách không thể chấp nhận được, gồm: 1-Lãng phí của cải và nguồn lực đất nước (chỉ riêng thiệt hại do một mình tập đoàn Vinashin gây ra tương đương với giá của gần 4000 quả tên lửa diệt hạm tối tân, tương đương với 12 chiếc tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga, tương đương với hàng chục chiếc tàu khu trục hiện đại có khả năng tàng hình của Ấn Độ. Bất cứ quốc gia biển nào chỉ cần sở hữu một trong những số lượng vũ khí kể trên cũng được coi là một quốc gia có lực lượng hải quân đáng gờm); 2-Lãng phí nhân tài; 3-Lãng phí thời gian và cơ hội; 4-Lãng phí ý tưởng; 5-Lãng phí cảm hứng; 6-Lãng phí lòng yêu nước và cuối cùng là 7-Lãng phí sự chân thành và các giá trị đạo đức. Những lãng phí này khiến nội lực dân tộc bị suy nhựơc kinh niên.

Nguồn: Bauxite Việt Nam

80 bình luận to “1524. Sống với Trung Quốc”

  1. […] Trung Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ.”  – Bài Sống với Trung Quốc của Tạ Duy Anh, đăng sáng qua, đã bổ sung đầy đủ phần bình […]

  2. Noi Nhu Cuoi said

    83 năm , Đảng vẫn mang bản chất là một Đảng cướp có tổ chức !
    Lãnh đạo nhân dân là phải vừa có tài đuổi giặc rồi còn phải biết làm cho dân no ấm hạnh phúc : Thí dụ như Vua Lê Đại Hành , cướp ngôi vua , lấy vợ vua nhưng cũng phải có tài Phá Tống Bình Chiêm , chứ không lịch sử và nhân dân chỉ xem là một tên tiếm ngôi thô bỉ !
    Đảng , nếu gọi là có tài chống Pháp , đuổi Nhật , kháng Mỹ ( dù rằng Đảng tự xưng như vậy ) nhưng phải có tài làm cho dân An cư Lạc Nghiệp ! Cứ xem sách Bên Thắng Cuộc của Huy Đức tiết lộ thì Đảng chỉ toàn là phá hoại kinh tế , làm cho dân nghèo đi ! Vậy Đảng cướp chính quyền hay làm cách mạng để làm gì? Để xây dựng một xã hội thối nát và tham nhũng?
    Nói như vậy thì thằng Khmer Đỏ Pol Pot nó cũng khoe có công đuổi Mỹ rồi tàn sát 1 triệu dân Miên rồi nó nói là đủ tư cách lãnh đạo?
    Đảng CS Trung Quốc giết khoảng 40 triệu dân cũng nói là có công đuổi Nhật , đuổi Tưởng ra Đài Loan rồi đủ tư cách lãnh đạo? Thằng Bắc Triều Tiên lòe thiên hạ bằng tên lửa , dân đói rã họng…. thì có đủ tư cách lãnh đạo? Ngay chính Đảng CSVN cũng chưa chắc đồng ý là tên lãnh tụ Kim Jong Un lhay tên Pol Pot là đủ tư cách lãnh đạo nữa huống chi là thế giới hay nhân dân Bắc Triều Tiên , Cao Miên !
    Buồn cười về lý luận này !
    Đi làm cách mạng mà kết quả chỉ có giỏi cướp , phá hoại , làm dân nghèo đói mà gọi là có Công thì thực chất chỉ là Đảng cướp thuần túy , không phải là mục tiêu của một Đảng cách mạng chân chính !
    Thử hỏi nếu ông Washington đánh đuổi Anh rồi tuyên bố Hoa Kỳ độc lập , sau đó lại không có tài an dân , đem lại hạnh phúc ấm no cho toàn dân thì ngày nay chắc ông ta chỉ được ghi nhận là một….tên cướp chính quyền chứ không thể gọi Cha Già dân tộc được !
    83 năm trôi qua , Đảng chỉ chứng tỏ tài năng ngang tầm của một Đảng cướp chứ không có khả năng lãnh đạo của một Đảng cách mạng !

  3. […] Trung Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ.” – Bài Sống với Trung Quốc của Tạ Duy Anh, đăng sáng qua, đã bổ sung đầy đủ phần bình […]

  4. Xe Dap Dia Hinh said

    Mới đọc xong bài này, thấy hay! Ai quan tâm, có lẽ cũng nên đọc.

    http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/103648/viet—trung—nhung-dieu-khong-the-khong-noi-.html

    • Trùm Chăn nói said

      Chẳng có gì hay ho đâu bạn Xe Dap Dia Hinh ơi,mọi bài được đăng trên báo chính thống là được viết theo đơn đặt hàng thôi bạn ạ?Tôi thử đọc sơ qua thì lời lẻ cũng na ná của những cán bộ tuyên huấn đi rao giảng trong các cuộc hội họp do nhà nước tổ chức mà thôi?

    • Xe Dap Dia Hinh said

      Việt – Trung – ‘Những điều không thể không nói’
      Làm cho nhân dân hai nước hiểu được, hiểu đúng mối quan hệ lịch sử này là một việc làm cần thiết, thậm chí rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
      Có thể khẳng định, quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc là một mối quan hệ đặc biệt. Nó đặc biệt ở sự gần gụi, tương đồng. Không chỉ tương đồng về chế độ chính trị, về phương thức tổ chức xã hội và phát triển kinh tế trong thời kỳ hiện đại mà trước hết ở sự gần gụi láng giềng, ở sự gần gụi văn hóa, lịch sử. Ít nhất mối quan hệ này đã tồn tại từ khi lịch sử thành văn được ghi lại, hơn hai ngàn năm trước.
      Một ví dụ là ngay từ thời Tần Thủy Hoàng đã lưu truyền câu truyện về tướng Lý Ông Trọng, một người to lớn dị thường và có tài thao lược của đất Giao Chỉ, làm đến chức Tư lệ hiệu úy của nước Tần, giúp Hoàng đế dẹp loạn miền Tây Vực khiến quân Hung nô còn khiếp oai ngay cả khi ông đã nằm xuống.
      Làm cho nhân dân hai nước hiểu được, hiểu đúng mối quan hệ lịch sử này là một việc làm cần thiết, thậm chí rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà những sự tranh chấp về lợi ích lãnh thổ có nguy cơ vượt khỏi tầm kiểm soát và phủ mây đen lên mối quan hệ ấy.
      Trong tinh thần đó, chúng tôi hoan nghênh loạt bài viết dưới mái chung: “Những điều không thể không nói ra” mà Tạp chí “Tri thức thế giới” của Trung Quốc đăng tải vào dịp này năm ngoái. Đó là các bài: “Lịch sử và sự thật: Diễn biến quan hệ Trung – Việt trước năm 1949” (Tôn Hồng Niên, Nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu lịch sử biên cương, Viện KHXH Trung Quốc) -“Quan hệ Trung – Việt từ 1949 đến nay” ( Vu Hướng Đông, Giám đốc Học viện Chủ nghĩa Mác, Chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) – “Những biến thiên trăm năm qua trong chiến lược ngoại giao với các nước lớn của Việt Nam” (Tôn Hồng Niên, Vương Thâm, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) – “Viện trợ Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ” (Lục Đức An, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) và “Vấn đề biên giới trên đất liền và trên biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng Đông Nam Á” (Trương Minh Lượng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Tế Nam).
      Tất cả được đăng trong số 14, ra tháng 7 năm 2011. Như cách đặt vấn đề và như chúng tôi có thể hiểu, các tác giả muốn vẽ lên một bức tranh chân thực về những gì diễn ra trước hết trong quan hệ Việt – Trung, và sau nữa là trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, qua đó góp phần điều chỉnh nhận thức của người này người khác, ở phía bên này hoặc bên kia.Ý định ấy là tốt và cần thiết. Lời lẽ trong các bài viết cũng tương đối vừa phải, trừ vài ngoại lệ.
      Tuy nhiên, hoặc do quan điểm, nhận thức, hoặc do nguồn tư liệu dựa vào thiếu khách quan, nhiều nội dung trong loạt bài này đã không phản ánh sự thật, làm hỏng mục đích mà người viết có thể muốn đặt ra.
      Vì một số lý do, trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chưa có ý định trao đổi toàn bộ và triệt để các vấn đề mà “Những điều không thể không nói ra” đã đề cập. Chúng ta còn có nhiều dịp và nhiều cách để cùng nhau tìm đến sự thật.
      * *
      1. Lịch sử thành văn của nước Việt – nghĩa là những điều được ghi lại trên giấy trắng mực đen – xuất hiện khá muộn, hàng ngàn năm sau công nguyên. Hai lý do chủ yếu: chữ viết xuất hiện muộn và cả một thiên niên kỷ mất độc lập được gọi là “thời kỳ Bắc thuộc” – một ngàn năm Bắc thuộc. Lịch sử Việt Nam trong những năm tháng này còn là một phần lịch sử Trung Hoa, điều dù muốn hay không cũng phải thừa nhận. Và dù muốn hay không cũng phải thừa nhận, với Việt Nam một ngàn năm ấy là một ngàn năm không bình yên, nói một cách khiêm tốn.
      Liệu có cần thiết phải nhắc lại những chuyện ” sát phu, hiếp phụ”, “bỏ xác cho hổ đói lên rừng bắt chim chả, chặt ngà voi; chịu để giao long ăn thịt xuống biển mò ngọc trai, kiếm đồi mồi” cung phụng các quan cai trị? Rồi một ngàn năm độc lập, những cuộc xâm lược từ phương Bắc đã để lại những gì tưởng chỉ cần nhắc đến một câu của thi hào Nguyễn Trãi thế kỷ thứ XV, “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ dưới hầm tai họa”, viết trong ” Đại cáo bình Ngô”.
      Những cuộc xâm lược của Tống, Nguyên, Minh, Thanh trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam đều hết sức khốc liệt, đâu có phải quan hệ giữa hai nước trong thời kỳ này”trên tổng thể là hòa bình, hữu nghị”. Tác giả của “Diễn biến quan hệ Việt – Trung trước năm 1949″chỉ thừa nhận một cuộc xâm lược đến từ phía Bắc, đó là cuộc xâm lược của nhà Nguyên trong thời kỳ này (và lịch sử chính thống của Trung Quốc cũng chỉ thừa nhận như vậy) còn thì “phần nhiều những cuộc xung đột và chiến tranh giữa hai nước là do giới phong kiến Việt Nam quấy nhiễu biên giới Trung Quốc gây ra”.
      Cần phải nói rõ những điều này. Một, chỉ một lần duy nhất nhà nước phong kiến Việt Nam có cuộc Bắc phạt và cũng chỉ với một mục đích duy nhất là phá cuộc chuẩn bị xâm lược Việt Nam của nhà Tống. Đó là vào ngay thời kỳ đầu sau Bắc thuộc, năm 1075, nhà Lý (Việt Nam) phát hiện nhà Tống (Trung Quốc) lập các tiền đồn tích trữ binh lương ở Quảng Tây nhằm chuẩn bị tiến đánh “Giao Châu” (nước Việt) nên đã xuất quân, đánh xong lập tức rút ngay về phòng ngự mà vẫn không tránh khỏi cuộc tiến quân ồ ạt sau đó của nhà Tống.

      “Hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới”. Tác giả: Nhan Sáng/ Ảnh đoạt giải cuộc thi Khoảnh khắc vàng
      Hai, có lẽ chỉ dựa vào chính sử do các triều đại phong kiến Trung Quốc để lại mà các tác giả của “Những điều không thể không nói ra” không thừa nhận có các cuộc xâm lược Việt Nam của Tống, Minh, Thanh. Bởi vì “chính sử” luôn tìm cách mô tả đấy là những cuộc hành binh khôi phục trật tự, lập lại ngôi vương chính danh được các triều đình phong kiến Trung Quốc thừa nhận (nhưng là những phế để, phế triều đã bị sóng triều lịch sử Việt Nam gom về bến rác).
      Sự thực như thế nào? Lấy ví dụ cuộc tiến quân dưới danh nghĩa “phù Trần, diệt Hồ” của nhà Minh đầu thế kỷ XV. “Phù Trần diệt Hồ” ở chỗ nào khi diệt xong cha con Hồ Quý Ly rồi liền bắt các kỳ hào, bô lão ký vào một tờ biểu dâng lên rằng: “Nay họ Trần không còn ai nữa, vả đất An Nam vốn là Giao Châu ngày trước, xin được đặt lại quận huyện như cũ” (theo “Minh sử”).
      Nhưng có một thực tế là con cháu nhà Trần vẫn nổi lên ầm ầm chống lại quân Minh, lập nên một triều đại được lịch sử gọi là “kỷ Hậu Trần” thì người Minh lại gọi là “giặc” và phái binh đàn áp! Một thời kỳ “Bắc thuộc mới” kéo dài 20 năm với chính sách đồng hóa quyết liệt (tất cả sử sách nước Nam đều bị thu hết về Kim Lăng), với sưu cao thuế nặng, bắt phu khai mỏ vàng mỏ bạc rồi “chim chả, ngà voi” tận thu tận diệt khiến dân tình vô cùng khổ sở. Phải một cuộc kháng chiến gian khổ máu xương dằng dặc 10 năm của Lê Lợi – Nguyễn Trãi cuối cùng mới đưa được “cuộc phù Trần” về bên kia biên giới.
      Làm sao có thể nói trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam ở thiên niên kỷ thứ hai, “giới thống trị Trung Quốc bấy giờ hoàn toàn không chủ động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam” được? Và ngay trong thời kỳ được coi là giao kết hòa hiếu giữa hai nước trong quan hệ “tông phiên” thì các triều đình phong kiến Việt Nam vẫn luôn bị sách nhiễu, áp lực.
      Chỉ riêng việc đòi hỏi cung phụng, cống nạp – nhất là những sản vật quý hiếm – cũng trở thành gánh nặng tài chính cho nước Việt, gánh nặng khổ ải cho thứ dân, không thể nói là “không đáng kể”, “tổng giá trị (của các đồ cống nạp) luôn thấp hơn đồ “hồi tặng” (từ phía triều đình Trung Quốc)” được.
      Năm 1950, khi đích thân tiếp và tiễn đoàn cố vấn quân sự của nước Trung Hoa nhân dân sang giúp Việt Nam kháng Pháp, Chủ tịch Mao Trạch Đông căn dặn:”Các đồng chí phải nói với nhân dân Việt Nam rằng tổ tiên chúng ta đã có lỗi với Việt Nam, chúng ta xin tạ tội và nguyện một lòng một dạ ra sức giúp Việt Nam đánh bại thực dân Pháp” (trích Hồi ký xuất bản bằng tiếng Hán của các Cố vấn Trương Quang Hoa, Vũ Hóa Thẩm, Đặng Kim Ba).
      Thủ tướng Chu Ân Lai trong lần đầu tiên sang thăm Việt Nam năm 1955, việc đầu tiên mà ông làm là đến thắp hương Đền thờ Hai Bà Trưng, những nữ tướng Việt Nam kiệt xuất trong thế kỷ thứ nhất cầm quân nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán và đã anh dũng hy sinh. Thiết nghĩ không cần phải dẫn thêm những ý kiến phát biểu của các nhà lãnh đạo khác như Diệp Kiếm Anh, Vi Quốc Thanh… xung quanh vấn đề này.
      Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định, mối quan hệ tổng thể giữa hai nước láng giềng Việt Nam và Trung Quốc suốt mấy ngàn năm lịch sử không phải là một bức tranh tối màu, nhất là quan hệ dân gian. Trong sự phát triển và trưởng thành của mình, người Việt, nước Việt đã tiếp thu và học tập được nhiều từ nền văn hóa – văn minh Trung Hoa. Đấy cũng là một trong nguyên nhân dẫn đến sự gần gụi, hiểu biết giữa nhân dân hai nước. Đấy cũng là thực tế hiển nhiên không thể phủ định. Không thể có chuyện giới nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong trăn trở tìm về nguồn cội lại bỏ qua những giá trị xác định để thay bằng những lập luận”khoác lác”, “hư cấu”? Càng không thể tưởng tượng ra rằng nó có mục đích “đưa vào nội dung giáo dục quốc dân” để làm băng hoại quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc.
      2. Nửa sau của thế kỷ trước (thế kỷ XX), Việt Nam đã phải liên tục chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh không cân sức: Kháng Pháp và kháng Mỹ. Cùng với nhân dân toàn thế giới, Trung Quốc đã có sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả về cả vật chất lẫn tinh thần cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Vào thời kỳ cao điểm, khi Mỹ trực tiếp đổ quân vào tham chiến – có lúc lên đến hơn nửa triệu – nhiều chính phủ và tổ chức nhân dân trên thế giới đã tuyên bố sẵn sàng gửi quân chí nguyện đến giúp đỡ Việt Nam, nếu được phía Việt Nam chấp nhận.
      Với tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính và cũng xét tới các hệ lụy, Chính phủ Việt Nam không chủ trương nhận quân tình nguyện chiến đấu, đặc biệt là bộ binh, và đã bày tỏ sự cảm ơn chân thành của mình đến thiện chí năm châu. Những quân nhân nước ngoài có mặt ở phía Bắc Việt Nam lúc ấy bao gồm một số lượng hạn chế các cố vấn và chuyên gia quân sự Liên Xô trong các binh chủng kỹ thuật (tên lửa phòng không, không quân …), một vài biên đội không quân của CHDCND Triều Tiên mà lãnh đạo nước này mong muốn được đưa sang để thực tập chiến đấu.
      Chính phủ Trung Quốc cũng đã nhiều lần bày tỏ thiện chí sẵn sàng gửi quân tình nguyện đến Việt Nam trong các tuyên bố công khai cũng như trong những lần gặp gỡ trực tiếp lãnh đạo Việt Nam. Kết quả là đã dẫn tới các ký kết giữa hai nước về việc đưa bộ đội hậu cần (công binh) của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vào giúp việc khắc phục giao thông bị phá hoại bởi cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở Miền Bắc.
      Trung Quốc cũng đề nghị đưa vào cả bộ đội pháo cao xạ để bảo vệ lực lượng công binh tác nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến lực lượng này. Người yêu cầu các nhà lãnh đạo Quân đội Việt Nam không đưa bộ đội Trung Quốc đến những vùng quá khó khăn ác liệt vì bạn chưa quen.
      Thời kỳ đó, không quân Mỹ chia chiến trường Bắc Việt Nam thành ba vùng tác chiến: Vùng đánh phá tự do suốt ngày đêm từ Thanh Hóa trở vào vĩ tuyến 17, là vùng ác liệt nhất. Vùng thứ hai, vùng đánh phá có trọng điểm bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các vị trí chiến lược phía nam đường số 5. Vùng thứ ba, đánh phá có chọn lọc, là các tuyến giao thông phía bắc đường số 5.
      Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ đội Trung Quốc đã được bố trí tác nghiệp trong vùng từ phía bắc đường số 5 đến biên giới Việt – Trung. Các lực lượng chí nguyện Quân Giải phòng Trung Quốc đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, quên mình vì nghĩa lớn, đồng cam cộng khổ với nhân dân Việt Nam, không chỉ góp phần khắc phục đường sá bị phá hoại, giúp Việt Nam làm mới nhiều con đường, nhiều công trình mà còn tham gia chiến đấu, trực tiếp bắn rơi hơn 100 máy bay Mỹ. Tổng cộng đã có hơn 310.000 lượt bộ đội Trung Quốc có mặt trên chiến trường miền Bắc Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968 (nói chung, 6 tháng thay quân một lần) trong đó hơn 1000 chiến sĩ hy sinh (hơn 4000, bao gồm cả các chiến sĩ bị thương).
      Theo đề nghị của phía Trung Quốc, các liệt sĩ Trung Quốc đã được chôn cất tại trên 40 nghĩa trang ở Việt Nam và hiện nay vẫn được chính quyền và nhân dân các địa phương coi sóc, tu tạo.
      3. Phía Trung Quốc từng xuất bản một cuốn sách công bố 7 lần xuất quân ra nước ngoài của Quân Giải phóng Nhân dân từ sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, trong đó quá nửa là xuất quân sang Việt Nam. Điều đau lòng là, hầu hết những lần xuất quân đến Việt Nam ấy đều được mô tả là để “đánh trả”, “trừng phạt” cái quốc gia mà Trung Quốc từng coi là anh em (đến bây giờ có lẽ vẫn là “anh em” vì lãnh đạo hai bên nói chung vẫn ôm hôn nhau theo kiểu “các nước anh em” thường làm).
      Chúng tôi sẽ không đề cập đến ở đây bản chất các cuộc “đánh trả” và “trừng phạt” ấy – xin trở lại một dịp khác, nếu cần thiết – mà chỉ xin trao đổi những gì liên quan được nêu ra từ các bài viết trong “Những điều không thể không nói ra”.
      Thứ nhất, phải khẳng định rằng, trừ cuộc “tiến quân” trong giai đoạn 1965 -1968 nhằm chi viện nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà tôi vừa đề cập, tất cả các cuộc tiến quân khác (1974: đánh chiếm Hoàng Sa – Trung Quốc gọi là Tây Sa; 1979: Chiến tranh biên giới Việt – Trung; 1983 – 1984: đánh chiếm các điểm cao chiến lược ở tỉnh Hà Giang – Trung Quốc gọi là Lão Sơn (và xung quanh); 1988: đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa – Trung Quốc gọi là Nam Sa) đều do Trung Quốc âm thầm khởi binh rồi bất ngờ đánh úp, nhằm lúc đối phương chưa sẵn sàng chuẩn bị. Tất cả đều giống nhau, không ngoại lệ. Làm gì có cái gọi là “sự xâm lăng, khiêu khích từ phía Việt Nam”?Mưu kế chiến tranh từ thời Tôn Tử đã chẳng lạ gì phương sách mà sau này L.Hart và nhiều tác gia quân sự đông tây phải ngả mũ, “Nguyên cớ ư ? Ở ta!”
      Thêm nữa, sau năm 1975, mặc dù giành được nguyện vọng ngàn đời là độc lập dân tộc, thống nhất non sông, Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ bởi ba mươi năm chiến tranh (nền kinh tế Việt Nam bị tụt đến đáy trong thập niên 75 – 85 là một minh chứng). Lo ăn, lo mặc cho dân mình còn chưa xong lẽ nào Việt Nam còn muốn mang sức kiệt đi đánh nước người? Mà đó lại là quốc gia hùng mạnh Trung Quốc và còn hơn thế nữa, một đất nước đã có sự ủng hộ to lớn cho Việt Nam trong kháng chiến! Ơn vừa mới đó mà đã quên được ư? Trọng ơn là truyền thống của dân tộc này, không ai có thể bới ra được chứng cứ ngược lại!
      Và do đó phải thừa nhận là Việt Nam đã bị bất ngờ khi cuộc chiến tranh tháng 2/1979 xảy ra. Có thể có xung đột cường độ thấp nhưng là cả một cuộc chiến tranh với sự tiến quân ồ ạt của hàng chục sư đoàn đối phương trên toàn tuyến biên giới là điều chưa được phía Việt Nam tiên liệu.
      Thứ hai, cần phải nói rõ một điều: Việt Nam chưa bao giờ tuyên bố Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa và Tây Sa) là của một quốc gia nào khác ngoài Việt Nam. Và càng không có việc Việt Nam đã “hoàn toàn thay đổi lập trường”về vấn đề này. Câu chuyện như sau: Năm 1958, sau khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền về lãnh hải 12 hải lý, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai bày tỏ sự ủng hộ tuyên bố ấy, chỉ đơn giản như vậy. Sự ủng hộ đó là thiện chí nếu tính tới cuộc xung đột giữa nước Trung Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ. Còn trong năm 1974, khi xảy ra sự việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa (Tây Sa), chính các bên đang quản lý thực tế vùng biển này là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối.
      Thứ ba. Bắt đầu từ sự xâm lược của thực dân Pháp thế kỷ XIX lập nên xứ Đông Dương thuộc Pháp rồi tiếp đến là cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra giữa thế kỷ XX mà mà vận mệnh của ba nước Đông Dương gắn chặt với nhau: chung một kẻ thù, chung một mục đích giải phóng và độc lập dân tộc. Trong cuộc đấu tranh chung, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia anh em và Việt Nam cũng hết lòng vì đất nước và nhân dân bạn. Làm theo lời dạy đầy ý nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là giúp mình”, hàng chục vạn chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã không tiếc xương máu chiến đấu quên mình trên đất nước Lào và đất nước Campuchia, không nhằm một mục đích tiểu bá, đại bá hay Liên bang Đông Dương nào hết.
      Một khi chiến tranh kết thúc, tình hình yên ổn trở lại và được nhân dân bạn cho phép, tất cả các lực lượng này đã rút hết về nước, bao gồm cả những liệt sĩ đã nằm xuống trên đất Lào, Campuchia cũng được quy tập về đất mẹ Việt Nam (con số được quy tập đến nay đã là gần 50.000 liệt sĩ). Việt Nam, Lào, Campuchia ngày nay lại cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển đất nước mình, với tư cách là những quốc gia độc lập, có chế độ chính trị riêng biệt, điều mà cả thế giới đều thấy rõ.
      Đáng ngạc nhiên là trong bài “Vấn đề biên giới trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á”, tác giả gợi lại vấn đề không có thực là”lãnh thổ K.K.K” và “một phần đất đai Campuchia bị mất vào tay Việt Nam”. Với mục đích gì vậy? Tác giả có biết rằng trong tháng 8 năm 2012 vừa qua chính đại diện của nước CHND Trung Hoa tại Liên Hợp quốc đã bỏ phiếu bác bỏ yêu cầu được có tiếng nói tại tổ chức quốc tế này của cái gọi là “phong trào K.K.K”? Sự trung thực cộng sản – nếu có thể gọi như vậy – là ở chỗ nào?
      Thứ tư. Có những sự thực ít người biết đến, nhưng chẳng lẽ những người chủ trì một tạp chí có tên tuổi trong ngành như “Thế giới tri thức” lại ở trong trường hợp như vậy? Tôi muốn đề cập câu chuyện về điểm cao khống chế 1509 mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Trong bài “Quan hệ Việt – Trung từ năm 1949 đến nay”, tác giả đã mô tả những trận đánh đẫm máu, ác liệt để giành khu vực này vào năm 1984 như là cuộc chiến đấu vinh quang chống lại sự xâm lược của quân đội Việt Nam.
      Hơn nữa, chúng tôi còn được biết, nơi đây nay đang trở thành một điểm du lịch của phía Trung Quốc với những trưng bày và thuyết minh bất chấp chân lý, bất chấp mọi sự nhẫn nhịn, trên thực tế phá hoại quan hệ Việt-Trung mà các bạn bày tỏ muốn vun đắp. Liệu có cần phải đánh thức “sự thật lịch sử”?
      Cuối cùng, về câu chuyện hoang đường “Việt Nam bắt nạt Trung Quốc”, “Việt Nam luôn áp dụng phương châm đối đầu trực diện với Trung Quốc, một bước không lùi”, để thay lời kết luận, tôi xin kể hai chuyện nhỏ : Tháng 1/1979, khi quân đội Việt Nam mở chiến dịch phản công đánh trả cuộc xâm lấn toàn diện của chế độ Pôn Pốt với một tốc độ tiến quân mà các hãng thông tin trên thế giới mô tả là nhanh như điện sẹt, các mũi tiến công và vu hồi đã sẵn sàng khép chặt biên giới Campuchia – Thái Lan trong “tích tắc”, thì lập tức nhận được lệnh buông lỏng, nhờ đó mà bộ sậu lãnh đạo Khơme đỏ chạy thoát. Nhưng mục đích đã đạt được: Không để một ai trong số hàng ngàn chuyên gia cố vấn quân sự và dân sự “người nước ngoài” bị kẹt lại hoặc bị bắt giữ.
      Câu chuyện thứ hai là tháng 2 năm ấy (1979), bị bất ngờ bởi cuộc tấn công của Quân đội Trung Quốc, các lực lượng phòng ngự Việt Nam tạm thời bị đẩy lui khỏi tuyến biên giới. Nhưng ngay sau cuộc phòng ngự, bộ đội Việt Nam đã tổ chức phản công và một chiến dịch – chiến lược tiến công quy mô với lực lượng mạnh cả xung lực lẫn hỏa lực nhằm vào đối phương đang tập trung ở một thành phố biên giới đã được triển khai. Mọi sự đã sẵn sàng và đây chắc chắn là một đòn giáng trả mạnh mẽ, gây thương vong nặng nề. Chỉ ít giờ trước thời điểm nổ súng, chiến dịch được hủy bỏ khi phía Trung Quốc tuyên bố bắt đầu cuộc triệt thoái.
      Thẳng thắn và mà nhìn nhận, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bản chất là một mối quan hệ tích cực và cần phải như vậy. Xin được đề cập đến vào một dịp khác. Bài viết này của tôi không có mục đích tranh luận, ngay cả về phương diện học thuật. Nó đơn giản chỉ là “những điều không thể không nói ra”, không thể không làm rõ vậy thôi.
      TS Vũ Cao Phan
      —-
      Chú thích: Những chữ để nghiêng trong bài này là trích từ “Những điều không thể không nói ra” hoặc từ các cuốn sách xuất bản ở Trung Quốc (TG).

    • Trùm Chăn nói said

      Tôi chỉ nói ngắn gọn để bạn dễ hiểu là TQ là nước cs, nên muốn mượn VN chống lại chủ nghĩa tư bản cho đến “người VN cuối cùng”,bạn hãy nên khắc ghi cái điều đó, thì bạn sẽ thấy cái thịnh tình mà thủ tướng Chu Ân Lai dành cho VN, chẳng qua đó chỉ là thủ đoạn ngoại giao của một người làm chính trị khôn ngoan mà ai cũng phải thể hiện, khi muốn “kẻ khác chết thay cho mình” bạn ạ.Bạn nên nhớ cuộc chiến hai miền Nam Bắc kể từ khi Mao Trạch Đông thành lập đảng csTQ và từ khi Hồ Chí Minh đem cái chủ nghĩa cs du nhập từ Liên Xô và TQ vào VN, là lúc đó VN không còn mang danh là cuộc chiến giải phóng dân tộc, như thời các Cụ Cường Để, Phan Chu Trinh,Phan Bội Châu…v..v….đã từng làm trong thời Pháp thuộc.Mà cuộc chiến đó là cuộc chiến miền Nam bảo vệ chủ nghĩa tư bản, mà Mỹ là một cường quốc đại diện và tài trợ ,còn miền Bắc là do Liên Xô và TQ tài trợ.Để hai miền Nam Bắc tranh giành nhau giữa hai ý thức hệ (tư bản và cs) xem ai thắng ai mà thôi?Nói tóm lại cuộc chiến hai miền Nam Bắc sau này, là cuộc chiến {huynh đệ tương tàn nồi da sáo thịt}, là cuộc chiến mà nhân dân hai miền Nam Bắc, tranh giành (ý thực hệ tư bản và cs), dưới sự điều khiển của các cường quốc thế giới lúc bấy giờ là Mỹ Nga và TQ mà thôi bạn ạ?Các bạn có lẻ là những người sinh sau đẻ muộn, nên nghe những lời ngụy biện của các “bút nô” của đảng và nhà nước hiện nay rao giảng, các bạn sẽ cho đó là hay,nhưng thực tế chỉ nhầm bảo vệ và che đậy cái bạc nhược của các lãnh đạo VN đã bị TQ mua chuộc,nhằm lấp liếm cái câu chú (bốn tốt mười sáu chữ vàng) mà TQ đã dùng để ru ngủ nhân dân VN nhẹ dạ cả tin mà thôi bạn ạ?
      Còn một điều cuối cùng tôi muốn gởi đến toàn thể các bạn trong diễn đàn ABS này nói riêng và toàn thể nhân dân VN nói chung, không có (thẳng ôm mộng kẻ cướp nào) mà tốt với nhân dân VN,vì vậy chung đụng với kẻ cướp chúng ta phải thật sáng suốt và thật bản lĩnh, thì mới có thể sống gần thằng kẻ cướp mới không bị chúng ăn thịt mình,đó là chân lý mà tôi muốn ai ai cũng phải hiểu?Chào bạn.

  5. V.Quốc Uy said

    Trường hợp như Tạ Duy Anh là chung cho hầu hết trí thức-Văn nghệ sĩ tử tế của XHCN, có lương tâm nhưng lại duy cảm, căm ghét thói hư tật xấu hiện nay nhưng không hiểu (và không thể hiểu) tận gốc, nên cứ nói rất mạnh ở trên ngọn, nhưng thỉnh thoảng lại thò cái đuôi, bộc lộ những lỗ hổng sâu kín (gần như vô thức) từ trong cội nguồn nhận thức. Số trí thức sắc xảo về chính trị thật quá ít ỏi.

  6. Trùm Chăn nói said

    Bài phản hồi dành cho các còm góp ý phản hồi của tôi:
    Ôi trời ! mới cái tựa bài “Sống với Trung Quốc” tác giả T. D. A.đã thể hiện cái suy nghĩ nông cạn của mình,đọc cái tựa đề bài viết người đọc dễ có sự đánh giá tác giả là ai, là người VN hay TQ,như còm Nguyễn Hữu Quý đã từng đặt nghi vấn. Theo tôi tại sao tác giả TDA không lấy tựa đề “Hãy chọn cách để sống với TQ” cho hợp với nội dung bài viết của mình hơn,tránh cho đọc giả có sự đánh giá không tốt về quan điểm của mình ngay cái tựa bài.Đã vậy trong phần mở đầu tác giả TDA lại phát biểu
    {Vì thế chúng ta cần phải động não đưa ra được một đối sách để tồn tại hoà bình lâu dài bên cạnh Trung Quốc mà không mất chủ quyền lãnh thổ (trước mắt là không mất thêm vì hiện tại Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của chúng ta) và chủ quyền chính trị.}
    Tác giả động não kiểu gì khi đưa ra cái sáng kiến theo kiểu (đổi đất lấy hòa bình) đối với thằng ăn cướp tham lam vậy, hỏi các còm phản đối ý kiến phản hồi của tôi,tác giả TDA hoặc các bạn nào muốn bảo vệ quan điểm của tác giả, hãy trả lời hộ tôi cái kế sách (trước mắt là không mất thêm vì hiện tại Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của chúng ta) và chủ quyền chính trị.}
    Tác giả TDA phải động cái não của mình để viết ra kế sách trên vậy mà còm Siêu Buồn lại bảo:
    (đúng như Tạ Duy Anh đã nói trên, rằng nói cho hả sự bực tức, bức xúc mà thôi.)
    Thì quả đúng là Buồn thật có phải vậy không bạn Siêu Buồn?
    Đâu phải chỉ có Hoàng Sa không đâu, một số đảo Trường Sa,rồi Ải Nam Quan Rôi một phần Thác Bản Dốc sao không thấy tác giả nói đến?Nghĩa là tác giả TDA chấp nhận mất một số lãnh thổ lãnh hải của VN, để tạm thời hòa hoãn sống chung với thằng kẻ cướp hay sao vậy các nhà thông thái, đọc mà sao không chịu động cái não của mình xem tác giả TDA nói cái gì?Đã vậy tác giả còn thiển cận khi bảo:
    {Xu hướng này cũng lập tức kết tội chính quyền hiện tại hèn nhát, bán nước, làm tay sai cho Trung Quốc và yêu cầu họ nhường quyền lãnh đạo đất nước cho những lực lượng khác. Trong khi chưa thể chỉ ra lực lượng khác ấy là lực lượng nào}
    Kết tội cái chính quyền này có “hèn” hay không và có “bán nước” hay không, ,tác giả cứ nhìn thái độ của chính quyền và quân đội nhân dân VN, trước thái độ cướp đất cướp biển, bắt và đánh đập ngư dân VN một cách dã man ngay tại hải phận VN của quân đội TQ.Vậy mà chính quyền và quân đội chẳng có hành động nào bảo vệ ngư dân của VN,bảo vệ biên cương lãnh thổ của VN, ngoài những cái “ôm hôn” kẻ cướp miệng luôn tụng câu “bốn tốt mười sáu chữ vàng”.Những hành đó, những thái độ đó, của nhà nước VN đối với TQ, tự bản thân nhà nước và quân đội nhân dân VN, đã thể hiện cho không chỉ riêng gì nhân dân VN mà nhân dân cả thế giới người ta nhìn và đánh giá như vậy, chứ tác giả không thể đưa ra (Xu hướng chủ chiến) rồi vội dàng quy kết thế này thế khác,theo ý mình là không thể chấp nhân được?
    Đồng thời tôi hỏi tác giả TDA nói riêng và những còm bảo vệ cho tác giả, vậy chứ các bạn có thể chỉ cho tôi cụ thể ai là người đòi đảng cs nhường quyền cho lực lượng khác?Ở đây mọi người dân điều muốn đảng cs hãy bỏ điều bốn hiến pháp,cho nhân dân được quyền đứng ra thành lập các đảng phái khác, cùng tham gia chính trường với đảng cs cạnh tranh với nhau, để người dân VN có cơ hội lựa chọn ra những đảng phái nào, có năng lực thật sự có tâm có tầm với đất nước, đứng ra lãnh đạo đất nước,nhầm đưa đất nước VN thoát nghèo nàn, lạc hậu và biển đảo bị ngoại bang xâm lấn.
    Vậy mà tác giả TDA với cái suy nghĩ thiển cận của mình lại đi hỏi ngược lại là {Trong khi chưa thể chỉ ra lực lượng khác ấy là lực lượng nào} .Các lực lượng đó nó đã bị chính cái đảng cs diệt từ trong trứng nước rồi TDA ạ,tác giả sống ở VN mà không hiểu hay sao, lại còn đưa ra câu hỏi rất ư là ngây thơ (lực lượng khác ấy là lực lượng nào)
    Rồi cái trận hải chiến về Hoàng Sa năm 1974 mới đây giữa VNCH với TQ và hiệp định Paris do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Lê Đức Thọ và Henry Kissinge
    Vậy mà tác giả TDA lại bảo { những người theo xu hướng này có lẽ cũng đã quên rằng, phần quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc năm 1974 là từ quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, đồng minh số 1 của Hoa Kỳ lúc ấy, khiến hơn 60 chiến sĩ hải quân là con dân nước Việt bị bắn chết một cách tức tưởi trong cảm hứng vô cùng dã man của kẻ thù. Với một hạm đội khổng lồ của ông bạn lớn Hoa Kỳ nằm cách đó vài chục km, với rất nhiều vũ khí hiện đại, nếu người Việt (cụ thể là chính quyền miền Nam lúc ấy) định dàn quân giành lại Hoàng Sa thì không còn cơ hội nào tốt hơn chính thời điểm đó.}.
    Tác giả đưa ra nhận định trên chứng tỏ tác giả Tạ Duy Anh không” hiểu’ về thời cuộc,hay “yếu kém” về lịch sử mà lại viết ra câu bình luận về quần đảo Hoàng Sa năm 1974 như trên rồi kết tội Mỹ {Với một hạm đội khổng lồ của ông bạn lớn Hoa Kỳ nằm cách đó vài chục km, với rất nhiều vũ khí hiện đại, nếu người Việt (cụ thể là chính quyền miền Nam lúc ấy) định dàn quân giành lại Hoàng Sa thì không còn cơ hội nào tốt hơn chính thời điểm đó.}.
    Mỹ không can dự vào trận chiến hải quân năm 1974, mặc dù hải quân Mỹ đóng cách đảo Hoàng Sa của VN không bao xa,là do Mỹ đã bút sa gà chết trong hiệp định Paris là không được can thiệp vào chuyện nội bộ và cuộc chiến của VN đấy tác giả TDA ạ?Trong khi đó quân đội VNCH còn phải lo đối phó với chính quyền miền Bắc và lực lượng mặt trân giải phóng miền Nam, đang ẩn núp tại miền Nam đấy tác giả ạ?Sau này muốn viết bài liên quan đến tư liệu lịch sử nếu như kiến thức yếu kém, thì làm ơn lên Google mà tìm tư liệu, chứ có nói nhăn nói cuội thì bạn đọc sẽ bảo mình là thiếu hiểu biết đấy?
    Đấy một bài viết mà tác giả cho là rất công phu mà vào phần mở đầu tác giả đã thể hiện hàng loạt yếu kém từ cách đặt tựa đề bài viết, cho đến các tư duy suy nghĩ bộc lộ sự thiển cận và yếu kém như vậy, thì nói chi đến toàn bài viết của tác giả tôi không nhất thiết phải đọc hết, tôi cũng biết tác giả chỉ là người thâu lọm chổ này một ít, chổ kia một ít, chấp vá lại thành một bài luận tràng giang đại hải của mình xong rồi tác giả đưa ra kết luận
    Từ cuộc vươn dậy nhọc nhằn, đau thương của dân tộc và thực tế thế giới suốt một thế kỷ qua, đã đủ bằng chứng để rút ra kết luận: không có lựa chọn nào khác tốt hơn con đường xây dựng một xã hội dân chủ thực sự. Đó có thể là con đường chông gai nhất, đau đớn nhất, nhiều phân vân nhất của người Việt trong thế kỷ này. Nhưng chỉ riêng việc phải lựa chọn giữa sống hay là chết dưới tay Trung Quốc, chúng ta đã không còn thời gian để cân
    ——————————————————————
    Phần kết tác giả TDA lại viết ngắn gọn và cái ý chính vẫn là {không có lựa chọn nào khác tốt hơn con đường xây dựng một xã hội dân chủ thực sự.}
    Trời ạ! Tôi tưởng tác giả đưa ra được kế sách gì mới mẻ cho dân cho nước, ai ngờ nói hưu, nói vượn xong rồi tác giả lại kết luận, {không có lựa chọn nào khác tốt hơn con đường xây dựng một xã hội dân chủ thực sự.}
    Cái con đường (xây dựng một xã hội dân chủ thực sự.).không có gì là mới mẻ cả,cả nước này ai cũng biết,thậm chí trong các phản hồi trên diễn đàn ABS này, rất là nhiều còm cũng đã phản ảnh vừa ngắn gọn vừa xúc tích, đọc còn thấy hay hơn cái bài viết (Sống với Trung Quốc) của tác giả TDA, nói dòng do tam quốc rồi cuối cùng cũng đưa ra kết luận luận, {không có lựa chọn nào khác tốt hơn con đường xây dựng một xã hội dân chủ thực sự.},thì đến như trẻ thơ trong cái diễn đàn ABS này cũng đã thuộc nằm lòng, chẳng cần đến tác giả phải lấy đó làm giải pháp để mà (Sống với Trung Quốc)

    Nói xin lỗi tác giả nói riêng và các còm ủng hộ bài viết của tác giả TDA buồn tôi chịu, chứ bài viết của tác giả TDA chỉ được cái vừa dài, vừa dỡ, vừa dai,chẳng có tác dụng gì,chỉ tổ làm cho người khác phải mất thời giờ bỏ công ra đọc.Riêng cá nhân tôi đọc sơ lược qua một vài đoạn đầu bài và kết luận của tác giả, tôi cho rằng tác giả TDA là “trí thức nữa mùa” hay là “trí thức nhà quê”.Còn tùy theo nhận thức của từng bạn đánh giá tác giả TDA như thế nào là tùy các bạn.Nhưng tôi lưu ý những bạn nào muốn phê phán bài phản hồi của tôi, đọc cho kỹ rồi hãy phê phán,nhưng các bạn nên dựa vào những câu những ý tôi phê phán tác giả, nếu như có “câu nào, ý nào” tôi phê phán sai, các bạn có quyền phê phán lại tôi, tránh tình trạng như còm (Dân Thành Thị )phê phán tôi một cách chung chung
    {Ôi bạn Trùm Chăn của tôi có cái đầu u tối và bét rượu như Chí Phèo, nói những lời mê sảng mà không biết là mê sảng! Trùm Chăn nói năng lung tung, lộn xộn, diễn đạt cực kỳ rối rắm}
    Tôi chỉ hỏi còm (Dân Thành Thị),bạn hãy chỉ cụ thể câu nào hay ý nào tôi nói năng lung tung,câu nào tôi diễn đạt cực kỳ rối rắm,nếu như bạn đủ khả năng và kiến thức chỉ ra cho tôi thấy như lời bạn nói, tôi sẽ tiếp tục tranh luận với bạn trên tinh thần xây dựng, còn nếu như ban không đủ khả năng chỉ ra được, thì tôi coi bạn chỉ vào đây “sủa” lên vài tiếng, cho biết rằng mình cũng có đọc và ngưỡng mộ bài viết của tác giả TDA theo kiểu xu nịnh mà thôi? Kể cả tác giả TDA cũng có thể phản biện lại những phê phán của tôi dành cho tác giả.

  7. […] https://anhbasam.wordpress.com/2013/01/03/1524-song-voi-trung-quoc/ […]

  8. […] 1524. Sống với Trung Quốc […]

  9. […] Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ.”  – Bài Sống với Trung Quốc của Tạ Duy Anh, đăng sáng qua, đã bổ sung đầy đủ phần bình […]

  10. cuhien said

    Cảm ơn các bạn trẻ. Tôi theo Đảng của mình 50 năm và hiểu tận gan ruột. Sao đất nươc mình buồn và hèn đến vậy. Giờ tôi, một ông lão 74 tuổi, phải làm gì? Các đồng chí ơi, chúng ta phải làm gì? Hay ra một nghị quyết kêu gọi đồng chí Staline, Mao, Pôn Pốt, Kim Nhật Thành, Fidel…đoàn kết để ….xây dựng củ nghĩa xã hội?
    Tuyệt vọng!!! Vĩnh biệt các đồng chí….

    • bacbinh said

      đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vong…Hãy xây dựng chủ nghĩa xã hội mahng màu sắc…Việt Nam!ô hô, ô hô thiên……

  11. montaukmosquito said

    Bổ xung thêm về TQ có chiếm VN hay không

    Chắc chắn là có, vì 3 lý do

    1- Điều tiên quyết: Mộng của Trung Quốc là bá chủ thế giới, hoặc ít nhất cũng phải là một cường quốc theo nghĩa cổ điển, tức mở rộng lãnh thổ . Muốn làm việc đó, Trung Quốc phải bước qua ngưỡng VN.

    2- Muốn tiến ra biển, Trung Quốc phải bước qua ngưỡng VN.

    3- Xã hội TQ có những vết rạn rõ rệt giữa chính quyền và nhân dân, tính cầm quyền chính đáng của Trung Quốc bị thách thức, thậm chí nghiêm trọng hơn VN. Chỉ thống nhất ở một điều, lòng tự tôn dân tộc . Đi xâm chiếm lãnh thổ các nước khác sẽ hàn gắn các vết gãy trong xã hội .

    4- Tướng Trì Hạo Điền cũng đã chỉ rõ, để dân Trung Quốc quên đi những tội lỗi trong quá khứ của Đảng CS TQ, Trung Quốc sẽ phải chiếm được Mỹ và Canada -VN chắc cũng phải làm cỏ châu Âu, với tư duy tương tự-, và VN sẽ là bước đầu tiên . Tức là đảng CS TQ lấy lại vai trò lãnh đạo, chủ đạo và tính cầm quyền chính đáng nếu mở cuộc xâm thực ra thế giới .

    Trung Quốc có đủ khả năng đánh chiếm VN bằng quân sự trong một thời gian ngắn không ? Có . Tuy không biết rõ, nhưng bằng những hình ảnh chụp từ vệ tinh, người ta đoán TQ có thể có từ 300 đến 3000 đầu đạn hạt nhân (bom nguyên tử) với tầm hoạt động từ 6-10000 km, và TQ dự định trang bị đầu đạn hạt nhân cho tàu ngầm từ 2015 đến 2020. Câu hỏi đặt lại là liệu Trung Quốc có dám thả vài quả bom nguyên tử xuống VN không ? Nếu ai trả lời là Trung Quốc sẽ sợ sự công kích của dư luận, nhân đạo, không xứng danh nước lớn hay những chuyện vớ vẩn như vậy thì im cho người khác nhờ .

    Nhưng như đã nói, TQ sẽ không làm vậy vì sẽ đánh động thế giới -tất nhiên, thế giới đó không có và cũng không cần VN-, và một mình TQ không đủ chống lại thế giới về tất cả mọi mặt, quân sự, kinh tế cũng như chính trị . Sẽ rơi vào trường hợp của Đức trong chiến tranh thế giới II.

    Với tất cả những điều như vậy, thử xem Trung Quốc sẽ dùng biện pháp nào đối với VN. Và xem coi Trung Quốc có áp dụng đúng không .

    • montaukmosquito said

      Bây giờ xét về vị thế của VN

      Đứng cạnh một anh khổng lồ như vậy với tham vọng như vậy, VN có bỏ hết ra để trang bị cho quân đội cách mấy cũng không chơi lại nếu TQ thật sự muốn cạn tào ráo máng với VN. và quyết định đứng một mình trong tình thế này là ngu xuẩn . Lúc chết, điếu thằng nào thèm rỏ một giọt nước mắt . VN phải lựa chọn, hoặc theo thế giới, hoặc theo TQ, không thể đứng riêng một mình .

      Nhắc lại một câu (đã trở thành) dân gian: “Theo Mỹ mất Đảng, theo Trung Quốc mất nước”. Nếu là Đảng Cộng Sản vn, các bác sẽ làm gì ?

      Thêm một yếu tố nữa từ Trung Quốc, Trung Quốc có thể thả vài trái bom nguyên tử xuống VN, tàn phá nhuệ khi của dân Việt, và bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc mới, nhưng không thể giữ lâu . Cuối cùng sẽ trở thành một vũng lầy khó chịu trong khi TQ cần rảnh tay để lo những chuyện lớn hơn .

      Với tất cả những điều kiện như trên, trường hợp tối ưu nhất cho TQ và để bảo vệ sự cai trị của đảng CS vn trên đất nước này là VN trở thành một khu tự trị phụ thuộc vào Trung Quốc .

  12. […] 1524. Sống với Trung Quốc (BoxitVN/ Ba Sàm). Toàn bộ ba […]

  13. Gloomy 1721979 said

    Chiến tranh Việt – Trung xảy ra ư ? Tại sao phải như vậy ? Cứ tống gái vào háng bác Phiêu , tống nhân dân tệ vào họng bác Mạnh mượt , tống USD vào mồm bác 3Dũng và đá cái ghế TBT cho bác Chọng Nú . Ngoài ra các PTT và BT cứ USD và gái nã thật lực để nhận thầu những công trình trọng điểm quốc gia . Thế là ổn hết việc gì phải chiến tranh , khỏi mang tiếng với thiên hạ ! Việt nam xây dựng một chế độ tự do và dân chủ ư ? Liệu Bắc kinh có để cho yên ?
    Nếu nói như nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Thanh Giang thì ông TDA được định nghĩa là trí thức nô lệ hay trí thức lí lịch .

    • Trùm Chăn nói said

      Hay ngắn gọn mà xúc tích đúng thực trạng VN hiện nay, câu nói {Nếu nói như nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Thanh Giang thì ông TDA được định nghĩa là trí thức nô lệ hay trí thức lí lịch}, giống như ý nghĩa trong bài phản hồi của tôi về tác giả TDA.

  14. Nói tóm lại said

    Có thể những gì tôi suy nghĩ và viết ra chỉ đáng là những điều vô bổ, nông cạn hoặc là những chuyện đã biết rồi, không ai cần đọc. Nhưng tôi không vì điều đó mà nản chí bởi đây là tấm lòng của tôi với đất nước, một đất nước chưa bao giờ thôi khốn khó nhưng là nơi duy nhất tôi có thể sống và chết. Tôi cũng không giấu giếm rằng, cho đến khi hạ chữ cuối cùng của chuyên luận này, tôi vẫn chưa thoát khỏi cảm giác Nghĩ mãi không ra.[Tạ Duy Anh ]

    Không lạ gì lối viết này, khi nó cũng có vài điểm na ná bài diễn thuyết của Trần Đăng Thanh, với nhiều lời đánh giá nghiêm khắc, nhưng chẳng có gì mới mẻ và khó nói, về bản chất, mưu đồ của TQ, làm không ít người đọc mê mẩn, song ở những điểm mấu chốt nhất mà người đọc cần có thì nó lại … méo mó. Đó là: + Bản chất mối quan hệ hai đảng CSVN và CSTQ; + Bản chất mối quan hệ giữa người dân với ĐCS, chính quyền VN trong vấn đề quan hệ với TQ.[ Ba Sam]

    Cộng với các comments của quý Còm Sĩ rất chất lượng

    Nói tóm lại đây là một bài đáng đọc và suy ngẫm cho nhà cầm quyền hiện nay [nhưng cái vấn đề là họ có …? hay đang “Nghĩ mãi không ra ” ! còn thằng dân ngu cu đen như tui thì “Để cho đảng và nhà nước lo ” !

    • Hoanglong said

      Tôi nghĩ bài viét của TDA thể hiện cách nghĩ của nhà văn có trách nhiệm và có tâm với đất nước.
      Đây chúng ta mới luận bàn dân chủ,ông TDA là nhà văn,khong phải thủ tướng ,nếu có gì thì chia xẻ ,sao cứ vội trách người ta thế.
      ở đây tôi muốn cụ thể một chút cái ý tưởng Thượng sách của TDA trong đối sách với Trung quốc.
      Thjeo tôi, muốn bảo toàn Hòa bình và xây dựng nước Việt nam mạnh mẽ chúng ta cần :
      1 – Với Trung quốc, thì VN phải thể hiện rạch ròi,thăng thắn rằng lãnh thổ và lãnh hải VN là không thể nhân nhượng ,và là bát khả xâm phạm .
      + Chúng ta thẳng thắn nói rõ và công khai cho TQ biết phạm vi chủ quyền VN,đồng thời cũng công khai cho nhan dan VN biết điều này ,chúng ta nói với TQ thé nào ,thì cũng nói với nhan dân VN như vậy trên đài ,tivi VN trong và ngoài nước để ai cũng biết,không phải 1 lần mà thường xuyên..
      + Tát cả các vụ TQ cho tầu Hải giám bắt bớ cướp đoạt tài sản ngư dan Vn …tại vùng biển mình quản lý thì VN mình cần cảnh cáo mạnh mẽ,và nhắc nhở công khai với TQ là 16 chữ và 4 tốt như TQ đã nói thì TQ nên làm đúng.còn nếu không thì những điều này chỉ là giả dối
      + Chúng ta đừng nói gì đến điều là VN và TQ cùng ý thức hệ ,đồng chí anh em XHCN gì gì nữa vì nó mỵ dân lộ liễu quá ,mà chỉ nói đén việc xây dựng láng gièng hữu nghị 2 nước thôi,khi anh tốt với tôi thì tôi tót với anh và ngược lại .
      Trong quan hệ ,chúng ta không cắt “cầu ” TQ nhưng nên chỉ ” thoang thoảng hoa nhài ” thôi …
      chúng ta còn phải để ” cửa ” quan hệ với nhiều nơi khác nữa chứ.
      Luôn luôn VN phải nhìn nhận là TQ không bao giờ muốn một nước VN mạnh,một Nhật hay Hàn quóc sát nách họ.Thậm chí TQ còn coi VN là vật cản con đường tien xuống phía Nam của họ cần phải ” dẹp ” bỏ . .
      2 – Đối với VN chúng ta
      + Về Ngoại giao – Chúng ta khi tuyên bố ngoại giao chỉ nên khẳng định là VN muốn làm bạn với tất cả các nước, cùng hợp tác bình đằng và có lợi, chẳng việc gì phải thanh minh là thân MỸ hay Nga ,hay độc lập chẵng liên minh với ai..
      Các cụ ta xưa đã dạy ” làm trai nước 2 mà nói,” hoặc ” Người khôn ăn nói nửa chừng …” Có vậy TQ nó mới ngại.
      VÌ VN cứ luôn tự trói mình trong tuyên bố, thành ra TQ nó dò biết mình yếu chẳng thân với ai ,nên nó luôn bắt nạt là vì thé.:
      Trong ngoại giao ,chúng ta ” chơi ” với ai là quyền của mình ,cứ đường thẳng mà đi thật chân thành , dù là với Mỹ ,Nga ,hay Án …cũng vạy thôi,TQ họ nghĩ gì về VN thì mặc họ.
      + Về Quốc phòng VN phải mạnh,chúng ta phải đủ vũ khí phòng thủ bờ biển ,trên không và tren bộ, đủ sỹ quan binh lính tinh nhuệ ,cảnh giác .yêu nước và có ý chí sẵn sằng bảo vẹ Tổ quốc.
      + tuyên truyền trong nhân dân,ý thức cảnh giác với bọn xâm lược,
      + Các nhà lãnh dạo nên chăm chú nghe nhứng đóng góp ý kiến của Nhân dan,những trí thức có tâm với dất nước.,
      + Quét sạch tham nhũng, cửa quyền để cho dân tin vào nha cầm quyen,làm trong sạch Xã hội .
      TQ là con hổ đói, nếu trong nước VN có ” vấn đề ” là con hổ này giơ vuốt ngay ..

  15. D.Nhật Lệ said

    Như một bác nói ở dưới,tôi cũng đã có góp ý một lần về bài này nhưng khi nhấn “gửi p.h.” thì bị trục trặc gì đó để từ chối (?) nay xin viết lại một vài ý kiến.
    Nói chung,bài viết cũng khá và công phu nhưng khi đọc kỹ và đi vào chi tiết thì có nhiều điều cần phải xét lại vì dễ gây ngộ
    nhận khiến việc đánh trật mục tiêu (kẻ thù truyền kiếp) là điều rất dễ xảy ra.
    Theo tôi,TDA.trong lời tự bạch đã nói đúng vị trí của chính sách bảo vệ chủ quyền hiện nay : họ đang áp dụng tối hạ sách.
    Trước 1975,để chiếm miền Nam cho bằng được,người CS.giấu bài rất kín và đã lừa được một vố lớn,kể cả lừa được người
    có học nhưng bây giờ chống Tàu cộng thì họ NGỬA BÀI giữa thanh thiên bạch nhật để đầu hàng Tàu cộng một cách ngang nhiên coi thường toàn thể nhân dân VN.,nhân danh cái gọi là Ý THỨC HỆ.
    Do đó.mọi lý lẽ biện hộ,ngay cả phân tích nếu không chặt chẽ lúc này đều giả trá,vô tình tiếp tay cho bọn bán nước.Tại sao
    phải nói thẳng thừng ra như thế ? Chính là vì bọn họ coi quyền lợi đất nước và dân tộc không ra gì,còn thua cả chế độ độc tài chuyên chế này mà họ đang ra sức bảo vệ cho bằng được,bất chấp tất cả.

  16. Blue said

    Công khai minh bạch thì sức mạnh + tri thức của 90 triệu dân cũng đủ sức rút ngắn 150 năm đối với SIN xuống còn 30 năm dù không còn than để bán, không còn dầu để khoan. Công khai minh bạch thì lòng tin còn, lòng tin còn thì đoàn kết còn, đoàn kết còn thì sống kế TQ hay ai cũng vẫn là mình. Điều đáng sợ trong năm 2013 không phải chuyện TQ ương ngạnh vô lý cỡ nào mà là cơ bản VN có gì thay đổi để trở nên công khai minh bạch dân chủ thêm không hay lại tiếp tục đấu đá nhau, đàn áp nhau để mưu cái lợi riêng. Nếu thế thì 1 lần nữa VN trở thành một loại chiến trường khác và 150 năm sẽ biến thành 200 năm, 250 năm, và điều xấu nhất là tình huống hiện nay tinh anh Việt Nam, trí thức chuyên gia đều trong tư thế cao chạy xa bay không ít. Nghĩ buồn thay.

  17. HN said

    Đồng ý với nhận xét của ABS về bài viết của tác giả TDA.

    Cách đây vài ngày, sau khi đọc phần 1, tôi đã viết 1 comment dài nhưng khi gửi đi bị lỗi mạng nên mất tiêu! Nay viết ngắn vậy.

    Thoạt nhìn bài viết của TDA dù gây cảm giác gờn gợn về tính logic và thái độ cực đoan với TQ, nhưng lại gây xúc động do tác giả biểu hiện tinh thần dân tộc rất cao. Tuy nhiên, khi bình tĩnh phân tích kỹ, tôi không khỏi nghĩ rằng tác giả không khách quan và “ngây thơ” khi phân tích về mối quan hệ lịch sử với TQ và đặc biệt là nhận định của TDA về thái độ tạm gọi là “hung hăng” của người biểu tình chống TQ tại HN và SG, gây ra mối nghi ngờ cho chính quyền (CQ) nên CQ từ chối đối thoại với người biểu tình. Cho dù không ưa TQ thì khi phân tích lịch sử cũng không thể dựa trên suy diễn kiểu như “… cứ 200 năm TQ lại xâm lược VN …” mà không tính đến tương quan và hoàn cảnh chính trị kinh tế của mỗi nước, và thời hiện đại là hoàn cảnh quốc tế nữa, trong mỗi giai đoạn.

    Tôi không đánh giá cao về bài viết này của TDA, và nhất trí với ABS là bài viết thậm chí có thể gây nguy hiểm cho nhận thức của những người không suy xét sâu sắc khi phổ biến.

  18. Đồng Bào said

    Bài viết rất sâu sắc mà bất kì lãnh đạo nào của Việt Nam cũng cần phải đọc, suy ngẫm và hành động chính xác.

    Đồng Bào.

  19. Xe Dap Dia Hinh said

    Dường như Trung Quốc không chỉ ăn sâu vào hệ thống lãnh đạo hiện tại, mà còn tham gia tích cực, rất sớm vào các tổ chức chính trị manh nha ở Việt Nam.

    Ví dụ: đọc bài “Việt Nam Đồng đang ở đâu và đi về đâu” của Trần Huỳnh Duy Thức, có thể thấy, Trần Huỳnh Duy Thức đã kích động lòng hận thù của người Việt với Phương Tây, bằng cách đổ lỗi cho những nhà đầu tư/đầu cơ chứng khoán đã gây ra những khó khăn kinh tế cho Việt Nam.

    Mục đích? Chắc là muốn người dân Việt Nam tự cô lập chính mình, như chính quyền Việt Nam từng làm trước đây. Hay với blog PS Khanh, Trần Huỳnh Duy Thức viết một số bài khuyến khích thái độ buông xuôi của người dân, và cả của những người trong hệ thống chính trị, vì những yếu kém của chính quyền, nhà nước, nhưng như thế cũng có nghĩa là buông xuôi trước mọi lời kêu gọi tích cực phát ra từ đảng CS VN.

    Ngoài ra, Trần Huỳnh Duy Thức cũng có những bài viết đe dọa tinh thần phản kháng của người Việt Nam trước hiểm họa Trung Quốc. Trên blog Vàng Anh trước đây, tôi đã từng so sánh những bài viết của Thức với một trang báo Trung Quốc. Và ngay cả trong trang blog Vàng Anh, độc giả có thể tìm được thượng vàng, hạ cám, đều có cả! Khuyến khích người dân quan tâm đến chính trị cũng có, chửi rủa độc giả là những người vô công rỗi nghề mới vào đọc chính cái blog của họ cũng có …

    Những điều này, chỉ nhằm bổ sung cho những trăn trở của bác Tạ Duy Anh, rằng Trung Quốc hiện diện rất sâu, rất rộng ở Việt Nam. Để hóa giải, cách tốt nhất có lẽ là dân chủ, công khai rất nhiều thông tin. Chỉ hạn chế tối thiểu một số thông tin liên quan đến quốc phòng, an ninh, hoặc ngoại giao, chứ không phải phổ biến đến mức như “lề trái”, “lề phải”.

    Lê Công Định thì khác, anh kêu gọi nhiều điều tích cực. VD: một điều liên quan đến nghề nghiệp của anh là án lệ, nhằm đem lại công bằng cho mọi người dân …

    Một khi tổ chức chính trị của Trần Huỳnh Duy Thức thành công, chắc chắn Trung Quốc có lợi. Khi tổ chức chính trị này thất bại, Trung Quốc cũng có lợi: kìm hãm, hoặc phá hủy tiến trình dân chủ ở Việt Nam.

    Trong bài viết, tác giả Tạ Duy Anh nhìn nhận việc lãnh đạo Việt Nam tin vào ý thức hệ để biện minh cho những chính sách “có vẻ sai lầm” của họ. Nhưng tôi nhìn theo hướng khác, nói có vẻ vì tôi không cho là sai lầm, mà là nghiêm trọng hơn, mục đích là để thu vén quyền lực và quyền lợi vật chất cá nhân, hoặc cho một nhóm nhỏ.

  20. Cầu Cải Tiến said

    Bài TDA dài quá, chỉ đọc phần I có điều đúng nhưng cũng có một số lý luận khó thuyết phục. Thầm nghĩ:

    1. Muốn bảo tồn cái “di sản qu‎ý báu ý thức hệ” với TQ thì đồng minh với chúng giảm ngoại giao với ý thức hệ tư bản. Với tình thế cô lập và không có khả năng chống chọi chúng sẽ chẳng nghe đàm phán gì cả nên cứ làm những gì chúng sai khiến, chúng sẽ giảm áp lực và ủy nhiệm cho quyền lãnh đạo VN. Mọi sự thôn tín của chúng cũng dể che đậy sau tấm bình phong “hợp tác vì lợi ích chung”, nếu chúng cử thái thú sang thì cho đội mũ “cố vấn”. Đất nước còn đó không trôi đâu cả, trị dân cho sắt không ai dám hô hào bán nước, dân chúng vẫn tin đất nước độc lập.

    2. Muốn bảo tồn Tổ quốc thì hy sinh cái “di sản qu‎ý báu ý thức hệ”, thành lập đồng minh với bọn tư bản mới có cường độ đàm phán (không phải đánh nhé) với TQ. Một khi kẻ hung hăng cảm nhận sức đối phương tương đồng hay manh hơn chúng sẽ lui không đánh. Đừng xem đây là cuộc chiến của các nước lớn nhé, nếu Mỹ không lên tiến thì TQ nuốt trọn Châu Á không ngại luật quốc tế gì cả. Thằng cướp đang tác quái nay có lực lượng CA đến kiềm chế thế thôi. Có nên giúp CA ngăn cướp hay theo cướp để tránh đòn? Theo CA đất nước còn, độc lập thật sự và không chừng thêm thịnh vượng no ấm.

    Xin lỗi các bác năm xưa Mỹ xâm lược bom em một quả thuốc lú nên đầu óc em đơn giản vậy thôi.

  21. Nguyễn Hữu Quý said

    Bài viết có nhiều điểm đáng bàn luận, tuy nhiên, do tác giả viết rất công phu, tâm huyết… cho nên, để có thể góp ý, bàn luận thì cần đọc kỹ, để rồi cùng với kiến thức của mỗi ngưới mới có thể góp ý chính xác được.

    Bài viết có nhiều nhận định đúng, chính xác, chẳng hạn đoạn nói về Tam Sa; cũng như phần nhận định về những lợi thế và bất lợi của nước ta.

    Ngược lại, cũng có nhiều nhận định sai lầm, chẳng hạn: “Một cuộc chiến tranh với Trung Quốc là điều đầu tiên chúng ta (và không chỉ chúng ta, ngay nước Mỹ, nước Nhật…) phải tìm mọi cách để tránh khi còn có thể”); Cần nhớ rằng, Mỹ luôn là nước hưởng lợi trong các cuộc chiến tranh…; không những thế, đây lại là cuộc chiến (nếu nó diễn ra) giữa 2 nước cộng sản cho nên Mỹ càng mong muốn để vĩnh viễn xóa đi CNCS mà họ đang theo đuổi gần một thế kỷ qua; vấn đề là, người Mỹ đang khiến nó diễn ra ở thời điểm nào để có lợi nhất cho Mỹ mà thôi.

    Tác giả có tự mâu thuẫn không khi đoạn trước đã viết:

    “Tối hạ sách là quá sợ chiến tranh mà đành ôm mối nhục để kẻ thù xâu xé cương vực, nuốt dần lãnh thổ, giết hại dân lành”.

    Hoặc: “Không chỉ Việt Nam mà cả thế giới, dù ghét bỏ Hoa Kỳ đến đâu đi nữa, thì cũng sẽ không thể thiếu được họ, nếu muốn cuộc sinh tồn này còn có công lý tương đối”.

    Thế giới không ghét Hoa Kỳ như tác giả nói đâu (chính Mỹ đang mang lại công lý tương đối), có thể họ lật đổ các thể chế ở một số quốc gia, do ở các quốc gia đó lãnh đạo độc tài, ngược lại, họ đến đâu là nhân dân ở đó được ngẫng đầu làm người thực sự, là khoa học, công nghệ phát triển…; chẳng nói đâu xa, cứ nhìn các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan… là các thí dụ điển hình để mà suy luận.

    Hoặc:” Trong khi ý thức hệ là cái bẫy chiến thuật của người Trung Quốc, thì với nhiều lãnh đạo cộng sản ViệtNamnó lại được coi là giải pháp mang tính chiến lược”.

    Đoạn này, tác giả Tạ Duy Anh chưa thật lòng, trên thực tế, lãnh đạo Việt Nam hiện nay dựa vào đó để tránh cho Đảng sụp đổ và duy trì độc quyền lãnh đạo.

    Hoặc: “Nhưng giả sử cả ViệtNamvà Hoa Kỳ đều tìm thấy lợi ích sống còn khi là đồng minh quân sự với nhau, thì vấn đề lớn nhất mà cả hai bên khó lòng vượt qua là niềm tin”.

    Thực ra, niềm tin là phải từ hai phía, ngược lại, vẫn cứ thói tráo trở với bạn bè kiểu như bài nói chuyện của ông PGS-TS Trần Đăng Thanh vừa rồi, thì làm gì có niềm tin…

    ***
    Trong sự đối đầu với Trung cộng hiện nay, Hy vọng nhất của người Việt bây giờ, theo tôi là: Lãnh đạo Việt Nam từ trước đến nay hay “nói một đằng, làm một nẻo”, theo đó, bề ngoài hữu hảo với Trung cộng, nhưng thực tế cũng đang chuẩn bị súng đạn để nếu bọn tướng phái diều hâu ở Trung cộng nắm quyền và ra tay gây chiến, thì người Việt lại cho họ một bài học thất bại tiêp theo, như cha ông họ đã từng phai nuốt hận ở đất này.

    Riêng, làm một nhà văn có tiếng trên văn đàn, mà hai chữ Việt Nam, tác giả viết là ViệtNam là không thể tin được (?!). Viết kiểu này thường chỉ là người nước ngoài mà thôi, chẳng hạn họ hay viết Vietnam;

    • Trùm Chăn nói said

      Bạn phân tích hay, có cái nhìn và đánh giá về bài viết (sống với TQ) của tác giả TDA, đúng với ý đồ của tác giả muốn đưa ra,như tôi cũng đã đưa ra phê phán một số nội dung của bài viết của tác giả.

  22. Siêu Buồn said

    Một bài viết hay, thấu lý đạt tình.
    Nhà văn Việt Nam, kẻ sĩ Việt Nam nào đã thiếu người có cái nhìn hoàn cầu, có tài cao, mưu sâu đâu. Các vị lãnh đạo đất nước cần đọc để bồi bổ thêm cái nhìn, cái mưu trí sáng suốt với kẻ thù, cái thiện tâm với nhân dân, dân tộc, để bảo toàn lãnh thổ, không tự biến mình thành kẻ phản dân hại nước như hiện nay nữa. So với đại tá Trần Đăng Thanh (người phát ngôn của đảng và chính phủ, Bộ QP) thì thấy đó. Thật là một thằng bơ bụi tập tọng vài ba cái sách lược, chiến lược lôm côm mà dám đem phỉ nhổ vào mặt các quan chức Đại học.
    Tạ Duy Anh đã giúp không hổ thẹn nhà văn Việt Nam, không hổ thẹn kẻ sĩ Việt Nam!
    Cảm ơn nhà văn đã dám dấn thân vì sự sinh tồn và lợi ích của dân tộc. Những Trần Đăng Khoa, Thái Bá Tân, Tạ Duy Anh, Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập… đã gỡ gạc cho nhà văn VN. Hãy vứt đi những “sáng tác với tối tác” của những nhà văn hòng moi vài đồng tiền còm cõi của dân nghèo nước Việt!
    Tuy nhiên, tác giả vì quá ham thể hiện cái tầm vóc trí tuệ bản thân mà bày luôn cho kẻ thù biết cái yếu chết người của ta và kế sách cho địch! Xin đừng nguỵ biện cho rằng kẻ thù đã tính kế hết cả rồi để mà nói hố chết người. Có thể kẻ thù có kế sách còn thâm sâu hơn những điều tác giả nói, nhưng cũng có thể có cái chúng chưa nghĩ tới như của Tạ Duy Anh. Xin đừng ‘nghĩ thế nào là bày hết ra như thế’ để tỏ rõ cái đại trí của kẻ sĩ. Lợi bất cập hại cho đất nước, giống nòi đó.
    Trên trang mạng, bọn giặc Tàu chắc sẽ cảm ơn tác giả lắm lắm.
    Thật tiếc thay.

    • Trùm Chăn nói said

      Người viết đã dỡ mà người xem do cái đầu “thiễn cận” nên khen lấy khen để {Tạ Duy Anh đã giúp không hổ thẹn nhà văn Việt Nam, không hổ thẹn kẻ sĩ Việt Nam!}
      Tạ Duy Anh này mà là nhà văn và kẻ sĩ VN thì thật là đáng hổ thẹn cho trí thức VN mới đúng bạn Siêu Buồn ạ,bạn chịu khó đọc cái còm phản hồi của Trùm Chăn nói về tác giả Tạ Duy Anh, bạn sẽ thấy nhà văn trí thức này hay, hay dõm như thế nào?

      • Siêu Buồn said

        Thưa bạn Trùm Chăn,
        Có thể tôi thiển cận thật chứ không phải bạn nói quá đâu. Nhưng đó là lẽ thường thôi, vì tôi là một phó thường dân. Nhưng đó là cái cảm nhận của tôi với bài viết, do tôi chưa thấy bài viết nào khá hơn. Tôi có cảm nhận là có một số người hễ thấy ai viết khác với ý mình, dù chưa hiểu nổi ý người ta, chưa đủ trình độ để nhận thấy viễn kiến của tác giả bài vết, đã vội ném đá loạn xạ bằng những lời mạt sát tục tĩu hoặc những “tối kiến”. Người Việt nhỏ bé lại không biết chung lưng đấu với thằng Tàu lớn xác, cứ lục đục “gà cùng một mẹ đá nhau hoài” thế thì chỉ có là mồi ngon co thằng Tàu mà thôi.
        Còn theo sự chỉ dẫn của bạn, tôi có xem ý kiến của bạn bên dưới. Ý kiến thì dài đấy, nhưng thú thực, tôi không hề thấy đó là ý kiến hay. Nó chẳng qua chỉ là những lời nói lung tung cho bõ tức, đúng như Tạ Duy Anh đã nói trên, rằng nói cho hả sự bực tức, bức xúc mà thôi. Thú thực, với tính cách và suy nghĩ kiểu “sáng kiến” – “tối kiến” của Trùm Chăn như thế, nếu bạn ra trận, chắc bạn sẽ chết đầu nước ; nếu bạn chỉ huy một binh đoàn, chắc bạn sẽ nướng sạch cả đoàn quân trong một sớm một chiều ; nếu bạn lãnh đạo một đất nước, bạn sẽ chôn vùi đất nước đó xuống biển Đông trong một khoảnh khắc lịch sử, bạn Trùm Chăn ạ!
        Xin thành thực có vài lời phúc đáp. Và, tôi cũng chẳng có thì giờ xem lại hay tranh luận với bạn nữa đâu.

  23. […] – 1524. Sống với Trung Quốc (BoxitVN/ Ba Sàm). Toàn bộ ba phần. […]

  24. Biên ải 1979 said

    1. Cái yếu nhất của Việt Nam ngày nay là chưa tẩy rửa được “ám ảnh hồn phách” Mác – Lê – Mao (cũng chính là tư tưởng HCM), nó đang chiếm hết 90% tư duy bộ não của những người lãnh đạo chính trị, quân sự Việt Nam đương thời và cả trong đầu nhiều trí thức bảo thủ Việt Nam.(Có thể thấy qua bài của Trần Đăng Thanh, Nguyễn Trí Vịnh, Tạ Duy Anh…).

    2. Cái lãng phí nhất của VN là lãng phí thời gian của hàng triệu công chức và hàng triệu sinh viên (trí thức tương lai ), khi họ buộc phải bỏ thời gian ra để ngồi nghe về “hồn phách” Mác -Lê -Mao năm này qua năm khác.

    3. Cái dở nhất của hiến pháp Việt Nam hiện thời là Điều 4.

    4. Cái nhục nhã nhất VN (của lãnh đạo Việt Nam) là cứ phải thơn thớt “anh em, đồng chí 4 tốt…” và ôm hôn với kẻ thù, kẻ xâm lược Biển, Đảo, đất nước mình.

    5. Cái hèn nhất VN (lãnh đạo VN) là đi đàn áp, bắt giam những người dân yêu nước (biểu tình chống giặc), hoặc phản biện hòa bình, không tắc sắt trong tay. Gọi kẻ thù xâm chiếm đất nước là người “lạ”, tầu giặc là tầu lạ.

    6. Cái khôi hài nhất là : Lãnh đạo cao nhất kêu goi mọi người chống tham nhũng, cường quyền, lợi ích nhóm… bằng cách kiểm điểm, phê và tự phê “với tình đồng chí”…có người gọi đó là cách : “ngửa mặt lên trời nhổ nước bọt (nước miếng) của ĐCSVN”.

    7.Cái ngu nhất của VN (lãnh đạoVN) là coi những người mang lại sự giầu có, tự do, dân chủ, văn minh cho nhân dân mình, đất nước mình là “thế lực thù địch”.

    8.Bi ai lớn nhất của VN (lãnh đạo đất nước VN) là coi việc mở rộng tầm nhìn và những tiến bộ trong tư tưởng và nhận thức của công chức và nhân dân Việt Nam là “tự diễn biến” là mắc mưu “thế lực thù địch” về “diễn biến hòa bình”.

    9. Bất công lớn nhất ở Việt Nam là bất công cơ hội của công dân (ví dụ: bạn có năng khiếu bẩm sinh về chính trị và bạn muốn cống hiến cho XH nhưng bạn không thích đảng cộng sản thì bạn…không có cơ hội. Bạn có khả năng, có ước mơ bắt cướp và muốn thực thi bảo vệ pháp luật..nhưng bạn là Thiên Chúa Giáo, bạn không có cơ hội vào ngành công an…).

    10. Cái vô tình nhất VN là vô tình với những người hy sinh hoặc cống hiến một phần xương máu trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979.

    11. Cái thù dai nhất và cũng dại nhất của VN hiện nay là là thù “tội ác của đế quốc Mỹ.”

    Nếu Việt Nam khắc phục được những khuyết điểm trên thì dân Việt Nam sẽ tự do, sẽ giầu có, nước Việt Nam sẽ hùng mạnh văn minh, Việt Nam chúng ta sẽ có nhiều bạn bè văn minh và Trung Quốc có muốn thôn tính VN cũng không dám.
    Khi đó Công dân nhiều nước trên thế giới muốn đến Việt Nam sinh sống, làm ăn…trong đó có cả người TQ lục địa. Khi đó Trung Quốc sẽ trả lại VN Hoàng Sa và những vùng biển đảo đã chiếm.

    Xây dựng Việt Nam thành Quốc Gia tự do thu hút mọi người trên toàn thế giới đến làm ăn, du lịch, sinh sống () đó là thượng sách giữ nước.

    • hahien said

      Xin bổ sung: Mục 9: Bất công cơ hội như đề cập không chỉ cho công dân mà cho cả đất nước.

    • Trùm Chăn nói said

      Bạn nói hay và chính xác,nhưng theo tôi không cần phải đòi hỏi ở cái độc đảng này nhiều như vậy, chỉ cần một đảng hai đảng phái nữa sống chung với đảng cs là {đất nước và dân Việt Nam sẽ tự do, sẽ giầu có, nước Việt Nam sẽ hùng mạnh văn minh, Việt Nam chúng ta sẽ có nhiều bạn bè văn minh và Trung Quốc có muốn thôn tính VN cũng không dám}.

    • kieuhung said

      Bất công lớn nhất tại Việt Nam là nhân dân, dân tộc bị đảng cầm quyền cướp công!

      • Cái nợ TQ trong cuộc chiến quá to, quá nặng . Hơi một tí là TQ lại nhắc đến làm các lãnh đạo CSVN lại khớp không mở miệng ra được . ( X. bài Quan hệ Việt-Trung -Xô trên BBC.Vietnamese.com ). Cái tội của CSVN đối với dân tộc ngày càng bộc lộ rõ ràng Tội rước voi dầy mồ mả tổ tiên. Đến lúc phải cho họ nghỉ đi thôi !

    • Cựu lính chiến bắc Việt said

      Biên ải quá hay ,tôi xin cám ơn bạn.

      • Tran said

        Phân tích và Bình luận của Biên Ải thẳng thắn, có logic và theo tôi nghĩ Anh đã tổng hợp nói hộ bao suy nghĩ cũng như tâm tư, nguyện vọng, ý chí của rất nhiều người Việt Nam, kể cả một Bộ phận không nhỏ đang ” náu” mình bên trong cái áo khoác thùng thình thời mạt vận mang tên: DCSVN. Cảm ơn Anh.

  25. TRƯƠNG said

    Rất cảm ơn ANH BA SÀM đả đăng bài này , cùng nhửng comment .

  26. Trùm Chăn nói said

    Nói thật chỉ mới đọc qua cái tựa bài (Sống với Trung Quốc của Tạ Duy Anh),tôi thấy tác giả là một người có một đầu óc cực “kỳ ngây thơ và thiển cận”,ngây thơ vì từ thuở dựng nước và mở nước đến ngày hôm nay, đất nước VN không có giây phút nào mà không “sống với TQ”.Vậy mà tác giả lại chọn “sống với TQ”, làm tựa đề cho bài viết của mình,cái mà đất nước VN doThiên định, đã mặc nhiên chấp nhận chung biên giới với cái tên láng giềng “tham lam” và rất ư là “tiểu nhân” lúc nào cũng ôm giấc mộng đi “ăn cướp”,là một điều bất khả kháng và đau xót nhất cho dân tộc VN,bởi thế mà ông bà ta từ xưa đến giờ hay dùng cái cụm từ là “quân tử tàu” là như vậy? Đó là cái ngây thơ thứ nhất của tác giả Tạ Duy Anh
    Cái ngây thơ thứ hai của tác giả khi cho rằng
    – Một cuộc chiến tổng lực giữa Việt Namvà Trung Quốc trên Biển Đông là bất phân thắng bại nhưng là thảm hoạ cho cả hai nước. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều cần hoà bình.
    Tôi tin rằng:
    – Thượng sách là làm sao để sống hòa bình với Trung Quốc mà vẫn giữ được chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền tinh thần (bao gồm chính trị, văn hóa, lối sống…)
    – Hạ sách là phải lựa chọn chiến tranh, dù ngắn hay dài, bởi hệ lụy của nó thì chưa thể biết hết, nhưng điều biết trước là – do cùng chung biên giới – sau sự tan hoang, đổ máu sự căng thẳng luôn trở về đúng điểm xuất phát khi chưa xảy ra binh đao và nguy hiểm hơn là nó tiếp tục làm tăng thêm mối hằn thù dân tộc là thứ sẽ để lại hậu quả cho con cháu lâu dài.
    – Tối hạ sách là quá sợ chiến tranh mà đành ôm mối nhục để kẻ thù xâu xé cương vực, nuốt dần lãnh thổ, giết hại dân lành.
    ————————————————————————
    Cái câu “Cả Việt Nam và Trung Quốc đều cần hoà bình” ,các tướng lĩnh VN thay mặt đảng csVN, đi rao giảng với tính cách ru ngủ nhân dân VN bao nhiêu năm qua ai cũng điều biết và hiểu rồi.nhưng cái quan trọng tôi muốn lưu ý tác giả Tạ Duy Anh là VN chúng ta là dân tộc “hòa hiếu”, chúng ta muốn hòa bình nhưng cái quan trọng là thằng “kẻ cướp” sát bên nhà, nó có muốn hòa bình với chúng ta hay không?kể cả ba kế (thượng sách, hạ sách,tối hạ sách) tác giả đưa ra đứa bé lớp năm cũng đã hiểu rồi, khỏi cần tác giả phải lập lại và lấy đó làm đề tài phân tích cho bài viết của mình?
    Vậy mà mới vào đầu bài phân tích tác giả Tạ Duy Anh đã đưa ra câu nhận định:
    {Vì thế chúng ta cần phải động não đưa ra được một đối sách để tồn tại hoà bình lâu dài bên cạnh Trung Quốc mà không mất chủ quyền lãnh thổ (trước mắt là không mất thêm vì hiện tại Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của chúng ta)}
    ——————————————————————————
    Tác giả Tạ Duy Anh đòi động cái não “thiển cận” của mình khi đưa ra một câu nhận định thể hiện cái tầm hiểu biết còn “kém” cả cái quan điểm của tướng Vịnh và Đại Tá Thanh qua câu phát biểu trên, thì làm sao tác giả đủ trình độ và kiến thức để phân tích cho người khác hiểu được cái kiến thức kém cỏi của mình, không khéo có người lại bảo tác giả Tạ Duy Anh này chắc là “bút nô” nào của đảng và nhà nước hiện nay, đang đi rao giảng cái lập luận ngụy biện và ngu xuẫn như vậy?Trời ạ ! tưởng tác giả động não tìm ra cái kế gì hay cho dân cho nước, ai ngờ tác giả động cái “não thiển cận” của mình để:
    {đưa ra được một đối sách để tồn tại hoà bình lâu dài bên cạnh Trung Quốc mà không mất chủ quyền lãnh thổ (trước mắt là không mất thêm vì hiện tại Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của chúng ta)}
    Cái thằng kẻ cướp nó đã chiếm biên cương của tổ quốc, biển đảo của chúng ta,vậy mà Tạ Duy Anh lại đưa ra kế sách {tồn tại hòa bình lâu dài với thằng kẻ cướp để khỏi bị mất thêm biên cương lãnh thổ}
    Có nghĩa là chính tác giả Tạ Duy Anh,mặc nhiên chấp nhận thằng kẻ cướp là anh em và đồng thời tác giả lại chấp nhận hòa bình và sống chung với thằng kẻ cướp với tính cách lâu dài,với ý nghĩ thôi thì cái gì “anh cướp” được của tôi khi trước tôi với anh “súy xóa”, tôi chấp nhận “các phần” mà các anh ‘cướp được” đó,kể từ đây mình cùng nhau sống chung hòa bình, với tính cách anh em lâu dài hay sao vậy, hởi cái suy nghĩ (đổi đất để lấy hòa bình) như lời tác giả đã nói hay sao? Vậy thì cái tư duy của Tạ Duy Anh, của còn tệ hơn cái tuy duy cũng như chủ trương đường lối của đảng và nhà nước VN hiện nay,không lẻ tác giả Tạ Duy Anh lại thay mặt đảng và nhà nước, đi rao giảng cho mọi người thấy cái tinh thần bạt nhược ‘hèn” với giặc của mình?Nhưng nói thật nếu như vậy thì tác giả Tạ Duy Anh sẽ bị mọi người cùng ném đá vào cái suy nghĩ hèn kém của mình, kể cả đảng và nhà nước hiện nay cũng bảo, chúng tao hèn nhưng chúng tao còn biết tìm cách ‘đánh lận con đen”,thế mà chúng còn phát hiện ra, còn mày “hèn” mày lại đi nói thẳng ra như vậy thì ai chấp nhận được.
    Tôi thật sự đau lòng khi mà đất nước VN ngày nay, lại còn nhiều người mang hơi hướng trí thức, nhưng không hiểu tại sao lại có những nhận định về tình hình đất nước,về chính trị “yếu kém” mà lại thích viết bài tuyên truyền cái luận điệu “trẻ thơ” của mình cho người khác xem như là Tạ Duy Anh như vậy?Vậy mà trong lời tự bạch tác giả Tạ Duy Anh lại nói:
    { Tôi có ba tư cách để viết chuyên luận này: Tư cách con dân Việt, tư cách chiến binh Việt bẩm sinh và tư cách một kẻ sĩ Việt}
    ————————————————————————
    Nói thật tác giả Tạ Duy Anh buồn tôi chịu, chứ tôi thấy trong ba tư cách của tác giả, chỉ có tư cách là “con dân Việt” thì còn có thể tạm chấp nhận được, vì tác giả là người VN ,còn hai tư cách kia thì tác giả không xứng đáng được nêu ra? Tác giả còn thể hiện sự “yếu kém và bản lĩnh non yếu” của mình qua câu nói:
    {Xu hướng này cũng lập tức kết tội chính quyền hiện tại hèn nhát, bán nước, làm tay sai cho Trung Quốc và yêu cầu họ nhường quyền lãnh đạo đất nước cho những lực lượng khác. Trong khi chưa thể chỉ ra lực lượng khác ấy là lực lượng nào}
    —————————————————————————-
    Tôi chịu khó khai thị cho cái đầu “non kém” của tác giả Tạ Duy Anh hiểu như sau,nếu muốn biết các lực lượng khác là lực lượng nào, tác giả chỉ cần đề nghị cái đảng cs độc quyền này, cho nhân dân thành lập các đảng phái đối lập, trên tinh thần cùng cạnh tranh để xây dựng và đưa đất nước phát triển, trên tinh thần cùng sống chung hòa bình, như các nước tiến bộ khác đã làm rất thành công, đơn cử như Nhật,hay Hàn Quốc …v..v…,là tức khắc tác giả sẽ thấy “cái lực lượng khác” đó là ai, có được nhân dân VN yêu thích và ủng hộ hay không,khỏi cần tác giả phải động cái não yếu kém của mình viết một bài, vừa dài, vừa dỡ, lại vừa dai, để hiến cái kế sách chẳng giống ai như vậy.
    Còn cái câu { những người theo xu hướng này có lẽ cũng đã quên rằng, phần quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc năm 1974 là từ quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, đồng minh số 1 của Hoa Kỳ lúc ấy, khiến hơn 60 chiến sĩ hải quân là con dân nước Việt bị bắn chết một cách tức tưởi trong cảm hứng vô cùng dã man của kẻ thù. Với một hạm đội khổng lồ của ông bạn lớn Hoa Kỳ nằm cách đó vài chục km, với rất nhiều vũ khí hiện đại, nếu người Việt (cụ thể là chính quyền miền Nam lúc ấy) định dàn quân giành lại Hoàng Sa thì không còn cơ hội nào tốt hơn chính thời điểm đó.}.
    Tác giả đưa ra nhận định trên chứng tỏ tác giả Tạ Duy Anh không” hiểu’ về thời cuộc,hay “yếu kém” về lịch sử mà lại viết ra câu bình luận về quần đảo Hoàng Sa năm 1974 như trên,tôi khuyên tác giả nên vào google, xem lại trận đánh của hải quân miền Nam là VNCH thời đó với TQ, và hiệp định Paris do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, bạn sẽ thấy tình hình tại sao Mỹ không can dự vào trận chiến hải quân năm 1974, mặc dù hải quân Mỹ đóng cách đảo Hoàng Sa của VN không bao xa,trong khi quân đội VNCH còn phải lo đối phó với chính quyền miền Bắc .Còn nếu như bạn quá yếu về tri thức thì cứ đưa ra câu hỏi nhờ tôi giải thích, tôi sẽ giải thích cho bạn hiểu,thôi bình luận về bài (Sống với Trung Quốc của Tạ Duy Anh),tôi thấy bao nhiêu đó cũng nói hầu hết cái tinh thần bài viết của tác giả,phần đầu đã như vậy thì phần sau tôi thấy không cần phải mất thời gian đọc và bình luận thêm,tôi xin nhường lại cho các bạn đọc khác có ý kiến.Đây là nhân định của riêng cá nhân tôi,nếu như tác giả Tạ Duy Anh,cảm thấy tôi phê phán tác giả có điểm nào chưa đúng, tác giả có thể đăng đàn góp ý tôi sẽ thảo luận cùng tác giả, trên tinh thần cùng nhau xây dựng.Còn nếu như tác giả im lặng là đồng nghĩa tác giả có thể là công cụ, hoặc là “bút nô’ cho một ai đó, điều đó tự tác giả hiểu ,thân chào.
    Nếu có thể được ABS có thễ dùng bài phản hồi của tôi, làm bài đăng đàn thảo luận cùng tác giả Tạ Duy anh cũng được,xin chân thành cảm ơn ABS trong thời gian qua đã cống hiến cho bạn đọc nhiều bài “thời sự nóng” về tình hình đất nước VN,tôi hy vọng ABS là cánh chim đầu đàn hướng nhân dân VN, đấu tranh cho chính nghĩa,đưa đất nước VN thoát khỏi hoàn cảnh lầm than hiên nay,biết đâu trang sử hào hùng của dân tộc VN sau này sẽ khắc ghi công ABS trong đó.

    • yêu nước tôi said

      Rất hay xin tác giả DUY ANH phản biện với Yêu nước Tôi

    • Cầu Cải Tiến said

      Tôi cũng đồng ý với sự bất bình của bác Trùm Chăn về điều TDA nói về Hoàng Sa.

      Trong quyển “đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên, trang 359, 360 có nói:

      Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, sách đã dẫn
      “Tinh thần bảo vệ Tổ quốc theo kiểu mời giặc vào nhà còn thể hiện trong việc thủ tướng Phạm Văn Đồng thừa nhận lãnh hải do Trung Quốc tuyên bố trong một công hàm gửi Tổng Lý Quốc vụ viên Chu Ân Lai năm 1958, mà nội dung chính là cùng với việc khẳng đinh chủ quyền của Trung Quốc trên các hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban lãnh đạo Đảng cộng sản chỉ cốt để hai quần đảo này không lọt vào tay Việt Nam Cộng hòa.”

      Đảng cộng sản đành lòng dâng đảo cho TQ. Mỹ là quân xâm lược, tại sao phải bảo vệ biển đảo của VN cho VN khi chính người VN (đảng cộng sản) cố tình dâng cho TQ?

    • Dân thành thị said

      Ôi bạn Trùm Chăn của tôi có cái đầu u tối và bét rượu như Chí Phèo, nói những lời mê sảng mà không biết là mê sảng! Trùm Chăn nói năng lung tung, lộn xộn, diễn đạt cực kỳ rối rắm, đến các dấu câu còn không biết sử dụng, tư duy thì rối loạn, không hiểu nội dung câu đoạn, mà dám tranh luận, chứng tỏ một bộ óc rất… tâm thần và hung thần, như Chí Phèo!
      Tiếc thay, những lời nhiệt thành của tinh thần Diên Hồng bị những con người chỉ biết phá bĩnh như Chí Phèo ném đá. Họ không có tinh thần xây dựng, chỉ biết chửi bới y như Chí Phéo những người đã mạnh dạn viết bài tham luận.
      Néu họ không phải là chính bọn công an giả danh thì cũng là kẻ phá bĩnh bừa bãi, bậy bạ.

  27. Để không bị anh bạn lớn tham lam láng giềng ngoạn dần từng miếng và lừa thế nuốt chửng,cách tốt hơn cả là Việt nam hội nhập ,chung tay cùng nhân loại tiến bộ toàn thế giới ngăn cản những tham vọng bành chướng không có giới hạn của Trung quốc.tôi không nói như ”nói thật mất lòng” đẫ nói là Đảng CSVN không còn tính chính danh mà để hội nhập được với thế giới tiến bộ hình thành một mặt trận chống bành chướng nước lớn có hiệu quả,Đảng CSVN cần đổi mới cả về kinh tế lẫn chính trị để giữ được uy tín và tính chiến đấu của Đảng .Nếu không được rèn rũa trong thể chế đa nguyên chính trị,Đảng CSVN sẽ đánh mất dần vai trò của mình với xã hội như chúng ta đang thấy,nói chi đến việc chống được âm mưu bành trướng của nước lớn láng giềng.

  28. Ba Son said

    Đến bao giờ ĐCS VN mới chấm dứt việc coi đất nước này là chiến lợi phẩm để chia chác nội bộ với nhau mọi thứ bất chấp luật pháp và tự cho mình có công khai sinh đất nước cũng như nuôi nấng dân tộc này trong suốt thời gian dài gần thế kỷ???

  29. Cảm ơn tác giả về bài viết công phu chứa đựng những nổi niềm tâm tư…mà bản thân tôi và có lẽ nhiều bạn đọc khác cùng chia sẻ . Tuy nhiên có một điểm tôi muốn nêu lên để tác giả và bạn đọc cùng suy ngẫm nhé!:

    Nếu không kể thời kỳ trước Bắc thuộc thì VN đã có 2000 năm VN sống cùng TQ, trong 2000 năm đó 1/2 với tư cách kẻ bị trị, 1/2 sống trong lo âu thấp thỏm không lúc nào yên thân. Phải chăng đây là thực tế đã được tác giả thể hiện với tiêu đề bài viết của mình ” Sống với TQ” và tự kết luận “Nghĩ mãi không ra” (?)

    Thiết nghĩ, nếu không có gì thay đổi thì tình hình cũng sẽ tiếp tục như vậy trong hàng ngàn năm tới. Nếu không muốn lặp lại nhất thiết phải có thay đổi.

    Vây thay đổi điều gì và thay đổi như thế nào?. Chắc chắn không thể thay đổi vị trí địa lý “núi liền núi sông liền sông”;chỉ có cách thay đổi tư duy và lối sống.

    Đó là phải xác định KHÔNG SỐNG VỚI TQ nữa! tức là không thuần phục dù là “giả vờ” nữa; hãy đứng thẳng người lên như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Mông Cổ và cả Myanma và Lào … Không chủ trương đối đầu nhưng cũng không quá thân mật ,nghĩa là phải giữ khoảng cách cần thiết . Tục ngữ Việt có các câu như “thân nhau lắm, cắn nhau nhiều” hay “nhờn chó, chó liếm mặt” v.v…đều nói lên chân lý này.

    Tất nhiên vẩn phải luôn phát huy tính mềm dẻo,khôn khéo v.v.. …nhưng mục đích không phải để “sống với Nó” mà để giữ quảng cách cần thiết với Nó như kiểu cai nghiện vậy! Hãy thử một lần xem sao, Người Viêt!

  30. kieuhung said

    Không phải đảng có công lãnh đạo giải phóng dân tộc mà đưa dân tộc trở lại nền chuyên chế đã bị đánh đổ. Đảng phải thấy rằng, mấy chục năm qua đất nước đã hình thành các nhóm lợi ích cục bộ thao túng nền pháp trị, làm mất tính nghiêm túc của pháp luật, đẩy đất nước đến thảm họa tham nhũng, bè phái, chiếm đoạt đất đai, tài nguyên đất nước…làm giàu bất chính trên mồ hôi xương máu của cả dân tộc. Nhân dân đã bỏ công sức, máu xương ra giúp đảng giành được thắng lợi cuối cùng. Thành quả đó là của nhân dân Việt Nam anh hùng, thành quả đó là của cha ông, tổ tiên ta đã để lại cho con cháu từ hàng ngàn năm dựng nước & giữ nước. Lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước thiết tha không chịu khuất phục kẻ xâm lược là báu vật mà tổ tiên đã để lại cho dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của đảng là thắng lợi của nhân dân. Hiện nay vai trò của đảng không được nhân dân chấp nhận nữa vì sự già nua cùng quẫn thối nát của đảng mà ra. ĐẢng đã ung thư không thuỗc nào chữa khỏi (Lê Khả Phiêu), kiểm điểm đảng là kiểm điểm sâu (Trương Tấn Sang)… Nếu đảng không thấy được thì đây là họa lớn cho dân tộc. Những người đảng viên chân chính đang thấy mình bị lợi dụng, đang thấy học thuyết bị trục trặc mà ông thầy đẻ ra nó cũng không chấp nhân được. Đảng đang ăn theo quá khứ (ăn mày dĩ vãng), không chịu đổi mới, mấy chục năm qua cứ khoác lên mình cái tấm áo mòn cũ, xọc xệch, cắt xén hiến pháp cũ rũ bỏ bớt quyền của nhân dân, đắp thêm cho đảng những mảng quyền lực màu mỡ và vô trách nhiệm, lấy những thắng lợi trong quá khứ để biện minh cho độc quyền lãnh đạo của mình. Vậy thì chúng ta còn níu kéo nó làm gì. Max chết rồi. Học trò của Max cũng là những tên tội phạm chống lại loài người như: Stalin, Đặng, Mao… không ai còn tôn trọng họ nữa.
    Đảng hãy vì dân tộc, vì nhân dân mà hy sinh quyền lợi cục bộ của mình, bãi bỏ điều 4 hiến pháp năm 1992, thực hiện dân chủ hóa xã hội để xây dựng một nước Việt Nam thực sự độc lập, dân chủ, văn minh, công bằng, giàu mạnh trên nền tảng một nhà nước pháp quyền vững chãi.

    • yêu nước tôi said

      ĐÓ CŨNG LÀ LỜI CỦA 87 TRIỆU DÂN VIỆT ĐẢNG CSVN HẢY NGHI ĐẾN CƠ ĐỒ DÂN TỘC .

    • Trùm Chăn nói said

      Lời góp ý hay,chính xác,nhưng tôi xin bổ xung thêm, hình như Lê khả Phiêu cũng là một người “hám quyền, hám gái”,trong thời gian làm TBT đã ký hiệp định biên giới bán đứt cái Ải Nam Quan và một phần thác Bản Dốc của VN cho TQ .Đã vậy mà khi thôi chức vẫn ham làm cố vấn,núp sau hậu trường chỉ thị cho đám đàn em là những tướng lĩnh hiện nay, tiếp tục còn đường bán nước cầu vinh, tiêu biểu là tướng Vinh một thời được LKP cất nhắc từ binh bét, leo lên tướng nhờ cái bóng của cha mình là Nguyễn Chí Thanh.Hiện nay tuy đã già gần lú lẫn rồi, mà LKP vẫn phái xuất hiện trước công chúng, can thiệp vào chuyện nước chỉ đạo thế này thế nọ,trong khi mình thực chất lại là con cháu của “lê chiêu thống”.

  31. HENVOIGIAC said

    CON MỒI
    Đoạn trước tác giả viết rằng Việt Nam là ĐỐI THỦ của bành trướng Đại Hán là SAI.

    Đoạn sau, tác giả viết đúng bản chất cuộc “đấu tranh sinh tồn”. Bọn bành trướng Đại Hán luôn xem dân tộc Việt Nam không phải là đối thủ, mà là con mồi béo.

    Con báo rượt đuổi, cắn xé con hưu thì không gọi là “đánh nhau”. Con hưu không gọi con báo ăn thịt là ĐỐI THỦ.

    Không có chuyện con hưu “cần hòa bình” với con báo.

    Đối thủ của bọn bành trướng Đại Hán là ai? Theo tôi đó là Mỹ, Nga, Ấn sau chót là khối EU. Tôi không cho Nhật là đối thủ “chống bành trướng” Đại Hán. Nhật chỉ quấy nhiễu, cản đường, vì ngay cả họ cũng còn phải lo thân. Dưới mắt tàu cộng, (Nhật + hiến pháp hòa bình) cũng là con mồi, nhưng Nhật là con mồi khó nhằn. Đại Hán huênh hoang, chọc ngáy, không chừng thức tỉnh con đại bàng Nhật.

    Riêng phần phân tích về Mỹ của tác giả, theo tôi, là NÔNG CẠN.

    Nếu tác giả đặt mình vào vị trí là người lập chính sách của Mỹ thì tác giả sẽ thấy lắm trò hay.

    Mặc dù buồn, tôi vẫn thấy, Mỹ bỏ đi sau năm 1972 là hay cho nước Mỹ về nhiều mặt. Họ được nhiều. Lắm khi tưởng họ thua, họ lùi, nhưng e rằng lùi một tiến ba.

    Nhiều điều đã LỘ ra. Cả vùng Đông Nam Á tham nhũng, quân phiệt, “dân chủ lôm côm” học được bài học CẢI TẠO, VƯỢT BIÊN. Khi xưa họ chống Cộng kiểu lôm côm, sau 1975 họ chống Cộng CÓ Ý THỨC. Sau 1979, cái gọi là làn sóng đỏ ở vùng Đông Nam Á coi như tiêu.

    Cán bộ “chi viện” phải KHOÁT LÁC tủ lạnh, ti vi chạy đầy đường, kem phơi hàng thúng … và họ về Bắc cứ như đi Tây về. Ở miền Bắc XHCN, một số vỡ mộng, một số vờ vịt giả dối, thành tinh, leo cao.

    Cán bộ phe xã hội chủ nghĩa quốc tế cũng “sáng mắt” khi thực tế miền Nam, dù bị chiến tranh làm tơi tả, nhưng sự thực mức sống, sự tự do vốn có vẫn khác xa sự tuyên truyền. Khó mà nói rằng hàng nghìn chuyên gia Liên Xô, Đông Âu, đó khi về nước vẫn KIÊN ĐỊNH lập trường tuyên truyền nói láo con em họ. Gorbachov cũng đã từng sang Việt Nam, có phải phần nào thực tế miền nam đã khiến ông cải tổ?

    Vài năm sau 1975, sẵn dịp may “xâm lược” Camphuchia, cả vùng ĐNA tỏ rõ thái độ ruồng rẫy tẩy chay, cả thế giới cũng tẩy chay “Việt cộng”. Quên rồi sao?

    Trở lại Mỹ, nếu Tàu cộng cắn xé Việt Cộng thì Mỹ được gì, mất gì?

    Trước hết, nói thẳng, Tàu cộng chỉ gặm biển Đông, gặm tí chút đất đai biên giới, chứ chưa tới lúc “đô hộ quận huyện”. Mất 1 phần nước, chứ không mất nước.

    Khi đó, Mỹ sẽ trơ mắt nhìn xem Việt Cộng loay hoay “chống dân cứu đảng”. Cộng sản Việt sẽ thắng DÂN, với núi xương chất đầy hơn cả chục cái Thiên An Môn, với sự ủng hộ chí tình, ủng hộ tuyệt đối của đàn anh kiêm kẻ thù Tầu cộng? Mỹ chỉ mong chờ có thế.

    Mỹ không sợ “sẽ mất Biển Đông” vào tay Tàu cộng? Híc! biển Đông luôn còn đó, mất đâu mà mất.

    Cho dù có ra tình trạng xấu nhất là Việt Cộng có BÁN, à xin lỗi, thương lượng anh em song phương cái Biển Đông một cách ngấm ngầm, phi pháp (vi phạm Luật Biển) thì Mỹ có sợ “mất Biển Đông”?

    Nên nhớ, Việt Cộng là nhất thời Việt Nam là mãi mãi. Các thỏa ước phi pháp, bất bình đẳng sẽ phải được vô hiệu. Còn dùng vũ lực ư? Cái chuyện xâm chiếm bằng vũ lực thì hàng nghìn năm sau vẫn cứ là phi pháp.

    Tóm lại, đừng tưởng Mỹ là DẠI, Ta là khôn và đàn anh Tàu là VÔ ĐỊCH.

  32. montaukmosquito said

    Cuối cùng cũng chả thêm được gì . Nhận định hôm qua của tớ chỉ được củng cố .

    Bài này vướng rất nhiều lỗi chết người . Rõ ràng nhất là bỏ một lượng rất lớn để phân tích những chuyện hiển nhiên ai cũng biết, nhưng lại không biết kết nối lại với nhau nên hầu như không rút ra được một kết luận đáng kể nào .

    Nhắc lại, Trung Quốc sẽ phải thâu tóm Việt Nam bằng một cách nào đó nếu muốn mở rộng ra thế giới, và một cuộc chiến tranh quân sự với VN hoàn toàn không có lợi cho TQ vì sẽ đánh động làm thế giới giật mình, một lý do nữa là không giữ được với sự có mặt hiển nhiên của TQ ở VN => sẽ phải tiêu tốn rất nhiều người và của vào vấn đề VN. Thêm một điều này ít ai dám nói, thế giới sẽ đứng ngoài cuộc tranh chấp -quân sự hay phi quân sự- giữa VN và TQ, xem như 2 anh cộng sản độc tài đánh nhau . Nhưng nếu TQ phải dùng quân sự để chiến thắng, sẽ làm thế giới giật mình . Tất nhiên, không phải vì VN có chánh nghĩa sáng ngời á .

    Suy ra, nếu muốn thôn tính VN dưới những điều kiện đó, biện pháp tốt nhất cho TQ là phải dùng những biện pháp phi quân sự .

    Một điểm tử nữa làm đổ toàn bộ logic của TDA: Trung Quốc “đã” trở thành một cường quốc với đầy đủ móng vuốt, không phải là một nước “đang” phát triển thành một cường quốc . Tôi không nói sự phát triển của nhân dân và xã hội vì một nhà nước độc tài không cần tới điều đó, mà là sự phát triển và tầm ảnh hưởng của guồng máy nhà nước và quân đội Trung Quốc . Đây là đối tượng chính chứ không phải Trung Quốc như một quốc gia .

    Tôi đã nhận định và Anh Ba Sàm cũng nhắc lại, tôi nhắc lại thêm một lần nữa, bài này thiếu tính Đảng . Thời gian gần đây, một loạt những chí thức, và bây giờ TDA, hình như quên đi yếu tố này, ngang nhiên gọi Trung Cộng nhưng khi đề cập -nếu có đề cập- thường quên béng nó mất hoặc dấu béng một cách rất vụng về nhân vật chính của mọi vấn đề . Tôi viết hoa cho nó trịnh trọng, ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, viết gọn lại, theo tư duy của các chí thức, không phải là Trung Cộng .

    Chừng nào các chí thức nhà ta gọi đúng tên, đúng bản chất, và phân tích đầy đủ tư duy chủ đạo, ảnh hưởng của đảng CỘNG SẢN vn, cũng như từng mối quan hệ đầy đủ của nó với đất nước và dân tộc này, hay nói đúng hơn, sự phát triển của đất nước và dân tộc này, mối quan hệ của nó với đảng CS TQ … thì bài phân tích đó mới đáng giá . Còn không, chỉ tốn thời giờ vô ích .

    • Trùm Chăn nói said

      Đọc còm của bạn tôi thấy bạn có yêu cầu {hay nói đúng hơn, sự phát triển của đất nước và dân tộc này, mối quan hệ của nó với đảng CS TQ},tôi thì không có nhiều thời gian để lý giải cặn kẻ cho bạn về cái tính đảng như bạn yêu cầu.Thôi thì tôi xin trích dẫn lại một đoạn trong bài phản hồi của tôi lúc trước nói về tướng Vịnh như sau:
      {Nói thật đảng và nhà nước các ông buồn tôi chịu, chứ cái đời sống đa phần của người dân đất nước này hơn ba mươi bảy năm qua, đa phần là nhờ cái đám thuyền nhân vượt biên bất chắp sống chết,hàng năm gởi ngoại tệ hàng chục tỷ đô la(các ông thử làm một bày toán cộng đơn giản xem) cái số tiền hơn ba mươi bảy năm đó là bao nhiêu?Cái bọn mà các ông lúc đầu cho là phản quốc, sau đổi thành “Việt kiều yêu nước”,khi không vừa ý thì các ông bảo là “các thế lực thù địch” đó, nó “tốt xấu” với quê hương và tổ quốc VN như thế nào?Còn các ông lãnh đạo đất nước VN suốt mấy chục năm qua, các ông làm được cho đất nước VN cái gì,ngoài một “bầy sâu” đang ngày đêm ngậm nhắm tiền bạc của nhân dân và tài nguyên của đất nước. Kinh tế thì trì trệ,đất nước chậm phát triển, biên cương lãnh thổ ngày đêm bị cái thằng “anh em bốn tốt mười sáu chữ vàng”, hết cướp đất cướp biển, rồi lấn đất, lấn biển, bằng nhiều thủ đoạn?Vậy mà đảng và nhà nước cũng như quân đội của các ông chỉ biết trơ mắt ra nhìn, rồi tự an ủi cho cái hèn của mình, rồi cùng nhau” tự sướng” khi nghĩ ra cái chiêu bài lừa dối nhân dân là {bằng mọi giá phải giử vững môi trường hòa bình để xây dựng đất nước}.Các ông thì do “hèn và tự sướng” nên các ông hô hào nhân dân phải cùng đồng thuận với cái “hèn” của các ông qua câu nói “ru ngủ” của các ông {bằng mọi giá phải giử vững môi trường hòa bình để xây dựng đất nước}.Các ông bảo nhân dân VN {bằng mọi giá phải giử vững môi trường hòa bình để xây dựng đất nước},vậy chứ cái thằng “kẻ cướp” nó có {bằng mọi giá phải giử vững môi trường hòa bình để xây dựng đất nước} theo ý các ông hay không?Hay chúng chỉ lừa các ông để chúng mổi ngày lấn chiếm đất nước VN một ít, cho đến khi nào VN trở thành một “Quận, Huyện” của chúng?}
      Đại khái cái tính đảng csVN lãnh đạo về kinh tế và quốc phòng nó tàm tạm là như vậy,nếu như bạn muốn nói rõ tính đảng cụ thể ở phần nào bạn cứ đưa ra một cách cụ thể tôi sẽ chịu khó phân tích để bạn hiểu,chào bạn.

  33. Bảo Trấn said

    Ta không đồng ý với NÓI THẬT MẤT LÒNG ở những điểm sau:
    – Chúng ta là những người trung gian bình luận một vấn đề nào đó của xã hội, cụ thể ở đây là Bài viết của Bác Trần Duy Anh về tình hình quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, tình hình Biển Đông và những người liên quan đến những sự kiện quan trọng đó,
    – Trước hết, ta cảm ơn Bác Trần Duy Anh vì cái tâm và cái tầm của Bác và công sức do bác đầu tư viết ra bài này.
    Tuy nhiên ta cần nhấn mạnh với NÓI THẬT MẤT LÒNG rằng muốn người khác tiếp tục đọc những phản biện của mình thì nó phải đảm bảo tính khách quan.
    – Thứ hai, nó phải phản ánh trung thực những gì đã và đang diễn ra, không thể chỉ đánh giá một cách cực đoan theo ý hiểu của mình, NÓI THẬT MẤT LÒNG không thể nói “Đảng cộng sản Việt Nam không đủ tư cách lãnh đạo dân tộc Việt Nam”? nói như vậy chỉ thể hiện sự mong muốn cá nhân cộng với những hằn học cá nhân mà thôi. Bởi vì hiện Đảng cộng sản Việt Nam vẫn đang lãnh đạo nhân dân Việt Nam và có bề dày lãnh đạo 83 năm, nếu không đủ tư cách thì làm sao lãnh đạo được đất nước qua hai cuộc kháng chiến cam go và không cân sức giữa ta và địch, và làm sao lãnh đạo được người dân Việt Nam thông minh và có chính kiến, có hiểu biết.
    Trên thực tế Đảng cộng sản Việt Nam đang có đầy đủ tư cách để lãnh đạo dân tộc Việt Nam vì đã có đường lối đúng nên mới giành được thắng lợi và đưa đất nước phát triển như ngày nay.
    – Thứ ba, như NÓI THẬT MẤT LÒNG mong muốn là “chỉ có xóa bỏ Đảng cộng sản Việt Nam chứ không thể sửa sai”, điều đó lại càng không đúng, bởi lẽ: Bất cứ sự việc gì khi vận động đều có sai có đúng, không có ai hoàn hảo, trên đời này không có cái gì hoàn hảo tuyệt đối. Cái quan trọng cần phải nói là có nhận ra sai và nhận ra rồi có sửa sai hay không mà thôi, chứ không thể nói là không thể sửa sai mà “chỉ có xóa bỏ”, đó chỉ là biểu hiện của sự chạy trốn, không đủ can đảm nhìn thẳng vào sự thật và sửa chữa sai lầm khuyết điểm.
    – Thứ thư, như NÓI THẬT MẤT LÒNG ĐÃ NÓI rằng: “nếu Pháp hay Mỹ ngồi ở Việt Nam, liệu có phải là một rào cản, một cái gai của Trung Quốc trong mọi vấn đề Biển Đông không”. Trời ơi thật là ấu trĩ, kẻ xâm lược nào mà chả là kẻ xâm lược, chẳng nhẽ kẻ xâm lược Pháp và Mỹ lại khác kẻ xâm lược Bành trướng Bắc kinh. Thử hỏi nếu để Pháp và Mỹ ngồi ở Việt Nam để dọa Trung Quốc không dám xâm lấn, thì liệu dân mình có yên để mà giữ Biển Đông? trong khi, thực tế đã giành giành biết bao triệu người dân Việt Nam bị giam cầm trong nhà tù Côn đảo, Phú Quốc .v.v…biết bao cảnh thảm sát, chết chóc đau thương ở Mậu Thân 68, ở Thành cổ Quảng Trị, máu người dân Việt Nam đỏ rực dòng sông Thạch Hãn…và nhiều nơi trên đất nước Việt Nam đầy đau thương này. Đấy Pháp và Mỹ ở Việt Nam là như vậy đấy, họ có còn được sống để bảo vệ bờ cõi ở Biển Đông hay không?

    Ta buồn vì còn có những kẻ đáng bị khinh bỉ lại dám lên giọng khinh bỉ người khác không cùng quan điểm như mình.

    • montaukmosquito said

      Đang lãnh đạo không có nghĩa là đủ tư cách . Bác bị cướp bắt cóc, bắt bác làm đủ thứ theo ý họ, thậm chí dâng vợ con cho họ, vậy họ không lãnh đạo bác là gì ? Và họ có đủ tư cách lãnh đạo bác không ? Hay thật sự ra là họ có bạo lực và lãnh đạo bác bằng nỗi sợ, hay đúng hơn, khủng bố ?

    • HENVOIGIAC said

      CHẾT CHÓC ĐAU THƯƠNG
      Ủa, chết chóc đau thương ở Mậu Thân 68!!!!

    • nắng hạ said

      Ta buồn thì ta chết đi
      ta nói tào lao dịch vật thấy mẹ luôn
      tù côn đão hả ? sao không ở ngoài bắc ,nghe lời hồ chí minh sinh bắc tử nam làm chi cho nên nổi ,còn mấy thằng giải phóng miền nam thì tù là đúng rồi .tòan là phá nhà phá nước không hà bác ơi .mậu thân hả ,hỏi thằng xuân hay hai thằng họ hoàng coi .cổ thành THẠCH HẢN hả ,ai bão ông đem súng đạn vào đó xâm lăng người ta làm chi ?chiến tranh từ ngoài bắc vào bắn dân chết tùm lum bây giờ la làng là mỹ xâm lược ,mã cha thằng ta chó chết này
      hì hì đãng cộng sản đủ khả năng lãnh đạn dân tộc VIỆT NAM,
      bác mù không thấy nước mất nhà tan ,
      cã miền nam rồi miền bắc ,bây giờ dân vẫn chạy bị [ ta ] bán khắp nơi .nô lệ ,
      con gái bán thân ,
      con trai bán sức .
      ta phá tan hoang ,ta phải bị treo cổ .nhưng cũng khen ta là cũng biết chử cũng viết được ra cái chi ta có trong đầu .rác ?

    • Nói Thật Mất Lòng said

      Kính thưa bác Bảo Trấn, tôi đang định ra ngoài có việc nhưng bất ngờ đọc đọc được cái còm này của bác, tôi đàn hủy việc ra ngoài để phản hồi bác đây. Hơi sốc vì bác bảo “muốn người khác tiếp tục đọc những phản biện của mình thì nó phải đảm bảo tính khách quan” trong khi chính bác sau khi đưa ra lý lẽ (chưa biết đúng sai) đã vội kết luận “Ta buồn vì còn có những kẻ đáng bị khinh bỉ lại dám lên giọng khinh bỉ người khác không cùng quan điểm như mình”. Câu nói này thể hiện, chính bản thân bác đã không phản biện khách quan, xảo ngôn khi chưa biết rõ người đối diện mình là ai mà đã quy chụp như thế.
      Xin phép các bác, tôi sẽ có còm dài dòng một chút với một còm sĩ theo thiển nghĩ cá nhân là không được thiện chí cho lắm.

      Thứ nhất: khi tôi phát biểu “Đảng cộng sản Việt Nam không đủ tư cách lãnh đạo dân tộc Việt Nam”, tôi bảo toàn ý kiến này. Còn bác bảo “nói như vậy chỉ thể hiện sự mong muốn cá nhân cộng với những hằn học cá nhân” đó không phải là mong muốn cá nhân mà là ý nguyện của nhân dân VN
      Bác bảo “Đảng CSVN vẫn lãnh đạo nhân dân VN và có bề dầy 83 năm”, đó là do Đảng CSVN ngồi xổm trên pháp luật, tự ban cho mình có cái quyền lãnh đạo dân tộc này, Bọn Bắc Triều kia, dân họ căm ghét, họ thù hận đảng cs đó nhưng vì họ chưa đủ lực để chống trả và lật đổ. Sự tồn tại của một thế chế chính trị có được có thể do hai yếu tố, do bạo lực, đàn áp mà giữ được, hoặc do ý nguyện, do dân bầu ra.
      Bác cho tôi hỏi, thế bọn Tàu, một nghìn năm đô hộ nước ta, nó còn có thời gian hơn 10 lần cai trị, nắm quyền dân tộc này nữa kia, bọn TQ đang xóa sổ tên của Nội Mông, Tây Tạng,..trên bản đồ đó, cái đó có gọi là có đủ tư cách không hay là một đảng cướp, một chính quyền ăn cướp?
      Lý tưởng của đảng cs khi mới lên nắm quyền là gì? “dân cày có ruộng”, chính vì ngọn cờ lừa bịp này nên đã lừa được cả dân tộc, lừa bịp được Công nhân, nông dân, trí thức ủng hộ mình. Bây giờ, bác hãy nhìn lại xem, “người cày còn có ruộng” không? Từng đoàn dân oan, ngày ngày kéo lên Hn để khiếu kiện, đề thưa gửi. Bác thử chỉ mặt điểm tên cho tôi vị nào trong hàng ngũ đảng, chính quyền này đứng ra giải quyết cho dân? Công nhân sống khốn khổ lay lắt, trí thức bị trù dập, ngư dân bị bắt bớ, giết hại, cả một nền giáo dục lao dốc, đạo đức suy đồi.

      Bác bảo “Trên thực tế Đảng cộng sản Việt Nam đang có đầy đủ tư cách để lãnh đạo dân tộc Việt Nam vì đã có đường lối đúng nên mới giành được thắng lợi và đưa đất nước phát triển như ngày nay”. Ngày nay VN đang đứng ở đâu trong khu vực ASEAN thôi chứ đừng nói gì tới thế giới, bác nói tôi nghe xem nào. Người VN những năm 1975 xem bọn Nam Hàn bằng rác, bây giờ, hàng hóa của họ về cơ khí, máy móc, điện tử…tràn ngập, xe hơi của Nam Hàn những thương hiệu như Huyndai, Kia, Daewoo,… máy tính, điện thoại của họ nổi đình nổi đám…VN phát triển quá bác ạ, nên dân VN chỉ ao ước xuất khẩu lao động sang Hàn, mức lương một công nhân kỹ thuật cũng tầm 3K dollars/tháng, chỉ đi chừng 2-3 năm là về xây nhà lầu. VN đang đứng ở đâu?
      Còn những đường xá, cầu cống mọc lên ở VN trong khoảng 10 năm trời lại đây ư? xin thưa, nó có nguồn gốc từ những khoản vay nợ, để bây giờ là thời điểm trả nợ. Chi phí làm đường của VN đắt gấp 3,5 lần ở Mỹ, giá xăng dầu ở VN đắt hơn giá xăng dầu so với Nhật/Mỹ/Pháp/Đan Mạch từ 25-35%. Bác có biết chênh lệch đó là đổ vào đâu không? để gom tiền mà trả cho những khoảng hao hụt, chênh lệch trong quản lý trong khi giá lao động của VN rẻ gấp 30 lần so với Mỹ/Nhật/Sing. Bao nhiêu tập đòan chìm trong nợ, thất thoát hàng tỉ dollars, tiền đó trốn đi đâu? VN hiện nay nợ khoảng 127 tỉ dollars, hãy chia con số này cho 90 triệu dân đi, bác sẽ thấy một đứa trẻ vừa nứt mắt để gồng món nợ 1280 dollars, tương đương gần 26 triệu đồng. Bọn này ăn gì? Bác có biết có những gia đình 4-5 người mà tài sản chưa có nổi 10-15 triệu đồng không? con số này rất đông. chỉ những kẻ mù đui, những kẻ bị nhồi sọ, bại não mới mở mồm tự hào “VN phát triển sánh ngang các nước trong khu vực”

      Nếu thực sự muốn cải cách xã hội, muốn xem uy tín. tư cách của đảng cs và chính quyền nhà nước này như thế nào, hãy làm trưng cầu dân ý đi, hãy xoá bỏ điều 4HP đi. Dân bây giờ xem cái đảng này bằng bãi phân trâu

      Thứ hai: bác trích câu ““nếu Pháp hay Mỹ ngồi ở Việt Nam, liệu có phải là một rào cản, một cái gai của Trung Quốc trong mọi vấn đề Biển Đông không” là trích dẫn sai câu nói của tôi. “Các bác hãy thử tượng tượng xem, nếu Pháp hay Mỹ ngồi ở VN, liệu có phải là một rào cản, một cái gai của TQ trong mọi vấn đề không?”

      Tôi bảo lưu ý kiến này. Chính Lê Duẩn còn tuyên bố “chúng ta đánh Pháp đánh Mỹ là đánh cho Liên XÔ, cho TQ”, bác có nghe điều đó không? Nói để bác biết, nếu Pháp mà không bị Đức tấn công, Nhật không bị thua trận ở Trân Châu Cảng không bị Mỹ đánh và bị ném hai quả bom, thì xin lỗi bác, cái tài của CSVN chưa đủ tầm để làm cuộc CNT8 đâu, họ gặp thời cơ thuận lợi, giống như “chó ngáp phải ruồi”, thế nhưng rao giảng “Đảng tài tình, lãnh đạo nhân dân ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Còn sau năm 1973, người Mỹ hoàn toàn bỏ rơi VNCH, chính quyền Saì Gòn đã hoàn toàn quy hàng, lệnh ngưng nổ sứng rồi, nhưng vì ai, vì đâu mà hàng vạn người dân vô tội phải chết, hãy nhìn Đức kia, họ thống nhất đất nước có tốn tí máu xương nào không?
      Còn Vụ Mâu Thân thì ai giết đồng bào mình? Xương hàng ngàn người VN vượt sông Thạch Hãn là vì sao? Lệnh nào ban ra bắt bộ đội phải vượt sông? Bác lầm lẫn chăng? Tôi có người nhà trong trận vượt sông Thạch Hãn đây, có liệt sĩ trong vụ vượt sông này, một bác còn sống kể, không xuống là bị bắn chết…..
      Bản chất của chiến tranh là bẩn thỉu là tội ác, bác bảo tù Côn Đảo ư? trong chiến tranh, chẳng bên nào nhân đạo hết, thế nhưng cái chính là, tội ác của Mỹ đối với dân VN đã được vạch mặt, lên án, vụ thảm sát Mỹ Lai cũng được làm phim tài liệu và công chiếu ở Mỹ. Họ không phủ nhận và họ có toà án để xét xử những người đó. Thế nhưng tội ác của đảng CS VN đối với chính dân tộc mình, tàn sát đồng bào mình thì lại được bọc nhung, được tôn vinh, ca ngợi như là kẻ ban ơn. Dân Miền Nam, ai mang cái ơn giải phóng đó? mang ơn mà thà chết họ cũng ra đi….

      Này bác Bảo Trấn, bác bảo tôi đáng khinh, xin lỗi bác, bác biết gì về tôi. Tôi sinh ra trong một gia đình cách mạng đỏ lừ, bố tôi là cựu chíến binh, các bác tôi là liệt sĩ, các anh con bác liệt sĩ, đảng viên hai bên nội ngoại có đến 50 người. Một ông anh họ xa bên ngoại làm tới chức chủ tịch một tỉnh ở miền Đông Nam bộ bác ạ. Tôi, một kẻ được nuôi hoàn toàn bằng cái thứ “tư tưởng đỏ” của đảngcs và CNXH đó bác. trình độ thì….không dám khoe với bác nhưng bọn tư bản giẫy chết không dám coi thường, chưa dám bẻ tôi một câu về chuyên môn.
      Tôi không biết bác bao nhiêu tuổi, nhưng với những lý luận mơ hồ, hão huyền và ngụy biện mà bác thể hiện ở còm này, bác chưa đủ tầm để dọa tôi đâu.
      Sẽ có 2 khả năng, một là bác là một kẻ bị nhồi sọ quá lâu (xét về mặt tích cực, bác vô tình không hiểu biết hết các vấn đề) hoặc bác chính là những kẻ được phân công vào đây diễn biến, định hướng diễn đàn. Nếu đúng thế thì, trình của bác còn non lắm, vở kịch quá thô và khôi hài.

      Tôi sẽ chờ phản hồi của bác.

      • Đức Trần said

        Tôi là thế hệ 7x, đọc com của 2 chú/anh, tôi thấy thế này. Việc phản biện có dẫn chứng số liệu (định lượng), thì sẽ thuyết phục đọc giả hơn. Tại đây, blog Ba Sàm – nơi hội tụ nhiều trí giả và bậc khai ngộ, sẽ biết đâu là thật, đâu là ảo tưởng.

        Dù sao thì, hai chú/anh đóng 2 vai sẽ giúp cho người đọc hiểu thêm được “dân trí và nguyện vọng của người dân Việt” hơn. Nó là thước đo khoảng cách của thời điểm mà đcs sẽ rút lui khỏi sân khấu. âu cũng là định nghiệp của dân tộc Việt – nơi của giải quyết nhân – quả. Nó rồi sẽ kết thúc khi đã đủ, nợ đã trả xong.

      • The Luc Thu Dich said

        Chính xác ! Vote cho bác ! Hay nhất bác nhận xét về việc nếu Pháp không bị Đức xâm chiếm , Nhật không bị 2 quả bom , Đảng CSVN chưa đủ tư cách làm cuộc CMT8 ! Đây chỉ là một vụ cướp cạn chứ không nên gọi là cách mạng !

      • Tran said

        Chào bác Nói Thẳng Nói Thật! Cá nhân tôi cùng quan điểm với Bác. Chỉ có điều theo tôi khi tranh luận phải có cùng cái tâm và cái tầm. Nếu không gần như nói với cái đầu gối của mình sẽ tốt hơn. Tôi biết bác quá bực mình nên tiết lộ một chút thân phận nhưng bác ơi, văn là người nên qua Văn là biết Anh là ai Bác ạ. Rất mừng vì còn bao nhiêu người công tâm, có sự quan tâm thực sự với đất nước! Hoàn cảnh tôi cũng tương tự như bác. Và tôi tin còn có biết bao Anh em khác cũng trăn trở tương tự, náu mình chờ thời. Chào bác, chúc bác và gia đình mạnh khỏe.

    • No U said

      Định không phản biện bác vì đã có nhiều người làm rồi, nhưng những gì bác viết thật phản động làm tôi lợm giọng.
      Thứ nhất, bác viết “Đảng cộng sản Việt Nam vẫn đang lãnh đạo nhân dân” là không đúng. “lãnh đạo” với dùi cui, còng số 8, súng dài, súng ngắn, xá lim thì đó không phải là “lãnh đạo” mà là “áp bức” bác ạ. Chừng nào cái đảng thổ tả kia bỏ đi những thứ đó thì mới gọi là “lãnh đạo”. Còn theo định nghĩa của bác thì Tây nó đã “lãnh đạo” ta cả trăm năm, Tàu nó đã “lãnh đạo” ta cả ngàn năm đấy.
      Thứ hai, bác viết “có bề dày lãnh đạo 83 năm, nếu không đủ tư cách thì làm sao lãnh đạo được đất nước qua hai cuộc kháng chiến cam go” thì thử so sánh Đảng cộng sản Việt Nam với đảng cộng sản Liên Sô. Trong khi Đảng cộng sản Việt Nam cần có 2 anh lớn là Tàu và Nga dạy dỗ, hậu thuẩn mới làm nên việc thì đảng cộng sản Liên Sô là đảng tiền phong, vẻ vang chiến thắng ngoại xâm trong Đệ Nhị Thế Chiến, có 69 năm bề dài lịch sử. Thế mà đảng cộng sản Liên Sô vẫn bị nhân dân Nga cho vào sọt rác không thương tiếc thì thá gì cái Đảng cộng sản Việt Nam nhu nhược trước đàn anh Trung Cộng, bị kí đầu, bợp tay dài dài mà không dám “uẳng” lên một tiếng, làm sao mà không khỏi vào nhà xí.

    • Trùm Chăn nói said

      Cái thằng “đầu đất bút nô” như còm Bảo Trấn này thì tối ngày chỉ biết bưng bô cho đảng thôi,chủ bảo sủa là hắn sủa hắn có biết cái gì ngoài những câu ca tụng và nịnh đảng của hắn đâu?
      Trùm Chẳng chỉ hỏi nhỏ Bảo Trấn là sau 83 năm đảng cs lãnh đạo đất nước VN ngày nay tình hình kinh tế phát triển như thế nào,đời sống của người dân hiện nay ra sao, so với các nước khác trên thế giới?Rồi dưới tài lãnh đạo của đảng cs hiện nay thì cái ẢI Nam Quan và một phần thác Bản Dốc của VN,cùng với quần đảo Hoàng Sa và một số đảo Trường Sa của VN hiện nay bị ai chiếm mất lỗi đó do ai?
      Nếu không chịu để Trùm Chăng chửi là “đầu đất” thì hãy động cái não của mình, trả lời các câu hỏi một cách trung thực những câu hỏi đưa ra,còn nếu không đủ khả năng trả lời, thì làm ơn biến đi cho đở bị ném đá,đở mất thời giờ của những bạn khác.

    • Cựu lính chiến bắc Việt said

      Bảo trần cho tôi xin 83 năm độc đảng .ông nhất định có vấn đề về các giác quan hảy nhìn ra thế giới xem thưa ông .cccp và đông âu thì toi lâu rồi chỉ còn china, cuba, bắc TT & VN,chắc ông tự hào đứng chung với ba vị này lắm nhỉ .Còn tôi thì sợ lắm rồi.Tôi mạn phép đặt cho ông cái tên mới ĐTH2.ĐBC

  34. Haiphong said

    Đúng. Đáng sợ nhất, VN tự dâng cho Tàu.

    • ihtvp2 said

      Con người ai cũng tham lam.Khi ta đông hơn và mạnh hơn thì ta bắt kẻ yếu hơn phải làm tôi mọi để cho ta ngồi mát ăn bát vàng
      Trong phạm vi một quốc gia thì kẻ có chức có quyền,tức là kẻ mạnh,thời bắt dân đen làm tôi mọi để cung phụng cho dòng họ chúng gia đình chúng.Trong phạm vi quốc tế thì nước mạnh hơn cũng làm như thế với nước yếu hơn.Các phương pháp đề thực hiện cái chuyện “bóc lột” ấy khi thì tinh vi khi thì lộ liễu.Tuy nhiên cái tài “bóc lột” mồ hôi,xương máu của dân đen trong mấy cuộc chiến tranh và cải cách của ĐCSVN thì mức độ tinh vi ít ai bì kịp:người bị cướp luôn mỉm cười, tôn vinh tên ăn cướp là vĩ đại và đòi đời biết ơn nó.Nay thì tên cướp Tàu cũng thế đối với kẻ bị cướp là (dân tộc Việt nam với cái nghĩa là không có ĐCSVN trong đó).Bây giờ thì dân tộc Việt nam bị tới hai kẻ cướp:Tàu là thằng meta-ăn cướp ,nó ăn cướp dân tộc Việt nam thông qua ĐCSVN,do đó thằng ăn cướp cần phải dứt điểm trước tiên là ĐCSVN

  35. Dân Việt said

    TQ chỉ muốn HỢP NHẤT VN vào TQ. Không đánh mà thành mới giỏi. Đó cũng là mục đích cuối cùng của CNCS, một THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG. Chính các nhà lãnh đạo VN cũng nói rõ : VN, TQ cùng do ĐCS lãnh đạo, cùng lý tưởng, cần đoàn kết, cần hòa bình hữu nghị, để nhân dân 2 nước cùng dắt tay nhau đi lên CNXH. Vì vậy mọi hành động mọi lời nói của các quan chức VN đều được định hướng theo ý đó. Ở đây dùng từ ” “Hợp nhất” không nói xâm lược hay bán nước để cho đúng định hướng. Cái kết quả cuối cùng chỉ có một: VN “về” với TQ, hay trở thành một tỉnh, một khu “tự trị” của TQ và bị đồng hóa thành người hán giông như người ‘Mãn’ dù người Mãn đã đánh chiếm được TQ nhưng lại bị chính người Hán đồng hóa…

  36. Dân Việt said

    TQ chỉ muốn HỢP NHẤT VN vào TQ. Không đánh mà thành mới giỏi. Đó cũng là mục đích cuối cùng của CNCS, một THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG. Chính các nhà lãnh đạo VN cũng nói rõ : VN, TQ cùng do ĐCS lãnh đạo, cùng lý tưởng, cần đoàn kết, cần hòa bình hữu nghị , để nhân dân 2 nước cùng dắt tay nhau đi lên CNXH. Vì vậy mọi hành động mọi lời nói của các quan chức VN đều được định hướng theo ý đố. Ở đây dùng từ ” “Hợp nhất” không nói xâm lược hay bán nước để cho đúng định hướng. Cái kết quả cuối cùng chỉ có một: VN “về” với TQ, hay trở thành một tỉnh, một khu “tự trị” của TQ và bị đồng hóa thành người hán giông như người ‘Mãn’ dù người Mãn đã đánh chiếm được TQ nhưng lại bị chính người Hán đồng hóa…

  37. Nhat LInh said

    Tác giả kết luận:

    “Không có lựa chọn nào khác tốt hơn con đường xây dựng một xã hội dân chủ thực sự. Đó có thể là con đường chông gai nhất, đau đớn nhất, nhiều phân vân nhất của người Việt trong thế kỷ này.”

    Thật sao? Xây dựng một xã hội dân chủ thực sự có thể là con đường chông gai nhất, đau đớn nhất? Đau vì mất hưu? Hơn 200 quốc gia trên thế giới, chỉ còn có ba nước còn cộng sãn? Tại sao các nước khác tự tìm cách thoát ra khỏi chủ nghỉa kinh hoàng này tương đối dể dàng ngoại trừ Việt Nam? Nếu nước Việt Nam không đủ bản lỉnh để thoát khỏi chủ nghỉa cộng sãn thì e rằng nước ta đả ung thối như một con bệnh ung thư kết thời kỳ cuối cùng của cuộc đời. Thật quá trể !

  38. Thắng Từ Liêm said

    Con đường ra khỏi cảnh nô lệ của Việt Nam:

    Đảng cộng sản hãy chứng tỏ thực tâm muốn bão vệ VN
    http://lytuongnguoiviet.com/index.php/baivietbinhluan/22868-ng-cng-sn-hay-chng-t-thc-tam-bao-v-vn-trc-cuc-xam-lng-ca-trung-cng

    Viêt Nam thiếu vắng lãnh đạo
    http://lytuongnguoiviet.com/index.php/baivietbinhluan/22852-vit-nam-thiu-vng-lanh-o-i-lp

    Đảng điên lên với truyền thông xã hội
    http://lytuongnguoiviet.com/index.php/baivietbinhluan/22853-ng-ien-len-vi-truyn-thong-xa-hi

    Thảm họa cộng sản, mất nước và con đường Việt Nam
    http://lytuongnguoiviet.com/index.php/baivietbinhluan/22757-thm-ha-cng-sn-mt-nc–va-con-ng-vit-nam

    Nhận dạng lịch sử tội ác của Trung cộng
    http://lytuongnguoiviet.com/index.php/baivietbinhluan/22648-nhn-dng-lch-s-ti-ac-ca-ng-cng-sn-trung-hoa

  39. nắng hạ said

    Tác giã nói rằng :[ nghĩ không ra ] hay là như nhạc sỉ NHẬT TRƯỜNG TRẦN THIỆN THANH viết chiều trên phá Tam Giang [ nghĩ tới một điều không dám nghĩ ,nghĩ tới một người đi giữa CHIẾN TRANH ] những gì bác viết hình như là những băn khoăn cũa người VIỆT NAM trong cơn khũng hoãng bị con rắn dử quá từ trong hang đã bò ra kiếm ăn .
    bác ơi !
    chỉ là cái giật mình thôi mà .tại bất ngờ ai không hoãng ,nhưng nó là con rắn ,là thú vật ,cho nên đập nó chết đi bác . dể ợt hà ,đừng có xáp lá cà ,đừng cho nó quấn ,đứng xa xa chọi nó ,hay lấy cây đập đầu nó ,nhớ đè nó xuống trước nghe bác .
    đã mấy ngàn năm qua ,nó còn sống là còn xâm lăng ,trong lịch sử danh tướng LÝ THƯỜNG KIỆT đánh cho nó một trận ,tới thời HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG ngài cũng muốn lấy lại đất lưỡng Quãng ,tình thế hôm nay không thể dựa và biển đông để đánh đâu bác ơi .bác cũng nhìn ra VIỆT NAM ở thế chủ động ,vậy thì đánh thôi bác ,chuyện phải tính là làm sao đánh ?
    – trước tiên : dựa vào dân trong và ngoài nước ,
    nếu dựa được thì rất mạnh về hai phương diện ngoại giao và tiền .
    – dựa vào những nước lân bang cũa tàu bị tàu xâm lăng dọa nạt ,tạo thành liên minh ,là những mặt trận chính tấn công thẳng vào tàu .bao nó lại không cho nó ra biển ,vì quyền lợi các nước ASEAN buộc phải góp sức cho khối ,thằng nào cà chớn như thằng MIÊN hay không rỏ lập trường phải bóp cổ ngay .làm sao làm được ?dựa vào cao bồi .mẽo .thật ra chiến tranh biển đông không sao tránh đâu bác ,vì đó là sự sống hay là chết cũa những phe lâm chiến .mà rỏ ràng nhất là chúng ta những người VIỆT NAM .Trung cộng sai đã mấy ngàn năm rồi bác ,nhưng cái sai tai hoạ nhất là họ chiếm HOÀNG TRƯỜNG SA và biên cương biển đão VIỆT NAM trong thời gian gần ,họ gây chiến khắp nơi ,thì khắp nơi phải đánh trả thôi ,sau cuộc chiến này phải xé họ ra trăm mãnh ,đừng quên lưỡng Quãng ,
    chuyện nước to lớn quá ,nói cho vui thôi ,nhưng chuyện bản thân tôi thì tôi bị một thằng hàng xóm hiếp đáp hoài ,chịu không nổi tôi phải tính chuyện đập lại nó thôi ,muốn đập lại nó thì việc đầu tiên là tôi không sợ ,tôi dám đập thì đập thôi ,hì hì .cũng là góp ý với bác thôi ,

  40. Nói Thật Mất Lòng said

    Hôm qua, thấy bài này dài quá, không đọc bỏ qua, bữa nay ABS đưa lên đây….đọc xong toát mồ hôi hết trơn. Tui hoàn toàn đồng ý với nhận định của ABS.
    Thưa bác Tạ Duy Anh ạ, thiệt là tình, cái tựa của bác tui thấy không ổn, phải dùng là “Chết bởi tay Trung Quốc”, hồi nào tới giờ, có ai quan hệ với TQ nhất là các nước nhỏ mà sống nổi đâu bác, chính sách bành trướng đại hán của chúng nó, chỉ muốn nuốt chửng người khác.
    Nói thiệt lòng, gần đây, tôi thấy trang Boxit đăng một số bài của các bác trí thức, sao tôi buồn quá. (Hà Văn Thịnh, Vũ Cao Đàm, Nguyễn Trọng Vĩnh và bữa nay là Ta Duy Anh). Đọc thì thấy cái TÂM của các bác, nhưng vẫn còn những sai lầm chết người, mà những cái chết người này lại là nút thắt của tình thế.
    Các bác ơi, dù rất tôn trọng các bác nhưng tui cũng nói thật những điều cốt lõi

    – XHCN dưới cái đề xướng của ông Marx là sai lầm bét nhè, đó là một kiều xã hội ảo, không tưởng.

    – Đảng CSVN không còn có thể sửa sai mà chỉ co xóa bỏ, đảng cs không có cái quyền hạn và tư cách gì để lãnh đạo dân tộc này nữa vì quyền lợi của đảng, ý muốn của đảng hoàn toàn ngược với mong muốn của nhân dân. Vì vậy chỉ có xóa bỏ thôi chứ đừng kêu gọi sửa sai. Hy vọng Đảng quay về với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân chỉ là một trò lừa mị, dối trá. Tất cả những kẻ mặt thớt ngồi trong cái BCT kia, chúng nó sẽ được xướng danh là tội đồ của dân tộc này khi tham quyền vcố vị, xem thường nhân dân.

    – Quan hệ với TQ là quan hệ đối nghịch, từ hàng nghìn năm độ hộ của Tàu, trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ thì đó là chiến tranh ý thức hệ, TQ bỏ tiền của vào Việt Nam và dùng máu xương của dân tộc này để chiến đấu vì sự tồn vong của CNXH. Các bác hãy thử tượng tượng xem, nếu Pháp hay Mỹ ngồi ở VN, liệu có phải là một rào cản, một cái gai của TQ trong mọi vấn đề không? Vì vậy đừng có rao giảng “ơn huệ” nữa. cuộc xâm xược biên giới 1979 đã quá rõ, việc chống lưng cho Khome đỏ giết hại đồng bào Campuchia, giết hại đồng bào mình ở Ba Chúc An Giang cũng đã quá rõ. Lào và Cămpuchia đang bị Hán hóa từng bước.
    Còn hiện nay, việc xâm chiếm biển đảo của TQ đã rành rành ra như thế.
    vì vậy bọn lãnh đạo TQ là kẻ thù nghìn đời, trực diện và truyền kiếp của dân tộc Việt Nam.

    – Tội ác của Đảng CSVN trong quá khứ và hiện nay đối với dân tộc này đã phơi bày rồi, đảng không phải là ân nhân của nhân dân mà bắt nhân dân mang ơn. nếu không có đảng cs, dân tộc ta không kém gì các nước Nam Hàn, Thái Lan, Philippin

    Vì vậy, tất cả những ai vẫn nói ngược lại lại cái quan điểm trên, tôi đều khinh thường, dù có là “đại trí thức” đi nữa thì sự hiểu biết, nhận thức về chính trị, quan điểm xã hội vẫn chỉ là những kẻ amatuer, kém cỏi, xoàng xĩnh.
    Mong các bác khi viết bài, hãy tìm hiểu, cân nhắc cho kín kẽ. Đừng tự làm mình “lùn đi”.

    • Cựu lính chiến bắc Việt said

      Thưa bác nói thật mất lòng cho tôi thêm vài chữ .Ở đức nơi sinh ra thằng Mark người đức họ coi thằng này là thằng điên .Còn ở Nga cứ nhìn thằng Putin thì biết dân Nga nó coi thằng lê văn nin như thế nào .Bản thân tôi rất gét nguyễn chí thiện ,Nhưng tôi rất thích một câu của y là .mang những của nợ ở đâu về bắt dân tôi vái lậy.

  41. sax said

    ĐẠI TỔNG ĐÀN THE KNIGHTS OF MALTA ANH VÀ MỸ ĐOÀN KẾT ĐẨY LƯNG MALTA NGA QUAY LẠI VIỆT NAM ĐUỔI TẦU VỀ PHƯƠNG BẮC VÀ THU HỒI BÚA LIỀM VÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TẠI VIỆT NAM ! TÂN ĐẠI TƯỚNG CÔNG AN TRẦN ĐẠI QUANG PHẢI CHỐNG CHỎI VỚI “ĐẠI LIÊN MINH MALTA ANH NGA MỸ” TRÊN PHẦN ĐẤT BẮC VĨ TUYẾN 17 LÊN ĐẾN BIÊN GIỚI HOA VIỆT ! LỰC LƯỢNG CÔNG AN HÀ NỘI TAN VỠ LÀ CHẾ ĐỘ BÚA LIỀM COMMUNISMÔ HÀ NỘI SỤP ĐỔ ! CHIẾN LƯỢC CỦA MALTA LUÂN ĐÔN TẠI VIỆT NAM ĐÃ PHƠI BÀY LỘ LIỄU GIỮA CHỢ NGÃ BA ĐƯỜNG ! THẢO NÀO BỘ CHÍNH TRỊ VÀ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐÃ NGÃ BỆNH TÂM THẦN ĐẠI TỔNG ĐÀN THE KNIGHTS OF MALTA ANH VÀ MỸ ĐOÀN KẾT ĐẨY LƯNG MALTA NGA QUAY LẠI VIỆT NAM ĐUỔI TẦU VỀ PHƯƠNG BẮC VÀ THU HỒI BÚA LIỀM VÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TẠI VIỆT NAM ! TÂN ĐẠI TƯỚNG CÔNG AN TRẦN ĐẠI QUANG PHẢI CHỐNG CHỎI VỚI “ĐẠI LIÊN MINH MALTA ANH NGA MỸ” TRÊN PHẦN ĐẤT BẮC VĨ TUYẾN 17 LÊN ĐẾN BIÊN GIỚI HOA VIỆT ! LỰC LƯỢNG CÔNG AN HÀ NỘI TAN VỠ LÀ CHẾ ĐỘ BÚA LIỀM COMMUNISMÔ HÀ NỘI SỤP ĐỔ ! CHIẾN LƯỢC CỦA MALTA LUÂN ĐÔN TẠI VIỆT NAM ĐÃ PHƠI BÀY LỘ LIỄU GIỮA CHỢ NGÃ BA ĐƯỜNG ! THẢO NÀO BỘ CHÍNH TRỊ VÀ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐÃ NGÃ BỆNH TÂM THẦN

  42. […] Sống với Trung Quốc(… on 1524. Sống với Trung Quốc […]

  43. […] (https://anhbasam.wordpress.com/2013/01/03/1524-song-voi-trung-quoc/) […]

Gửi phản hồi cho Trùm Chăn nói Hủy trả lời